Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 22 đến 23

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 7867)
Quyển 22 đến 23

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

Quyển thứ hai mươi hai

--- ooOoo ---

 

Nội nhiếp tụng:

Lâu thượng phùng tăng trưởng,

Dâm nữ dạ quán tinh,

Nhân tác mã minh thanh,

Thương nhân bảo khô cốt.

Tại thành Oân Thệ Ny nơi vua Mãnh Quang trị vì, có trưởng giả lấy vợ chưa lâu vì bận mang hàng hóa đi buôn bán ở phương khác nên để vợ ở nhà. Chồng đi rồi, người vợ thừa sức ăn mặc, phiền não phát triển nên hằng ngày lên lầu nhìn ngắm đàn ông mãi không chán. Một hôm, trông thấy vua Mãnh Quang cỡi voi lớn đi ngang qua nhà, người đàn bà này sinh tâm dâm dục nên ném vòng hoa đến và mắc trên mão vua. Nhìn lên, vua thấy có cô gái dung nhan xinh đẹp rực rỡ tuyệt trần, liếc xem hai bên, cho là vô song. Biết cô ta có ý ô nhiễm, vua nói:

- Nếu nàng có ý yêu mến sao không ra đây?

Đáp:

- Thiếp là thiếu phụ không được vô cớ ra ngoài. Được vua nghĩ đến, thật hân hạnh cho kẻ ở lều tranh.

Vua bị mê hoặc nên không tiến tới được, đành phải xuống voi đi bộ vào nhà. Sau khi thỏa mãn, cô ta có thai.

Đàn bà trí tuệ có năm điều.

Một: Biết đàn ông có tâm dâm dục hay không.

Hai: Biết thời tiết.

Ba: Biết thời gian thọ thai và thai của ai.

Bốn: Biết là nam.

Năm: Biết là nữ.

Cô ta thưa với vua:

- Ngài biết không, em đã có thai.

Nhà vua trao cho cô ta vòng anh lạc bằng ngọc quý thượng hạng, bảo:

- Nếu sinh con gái thì tùy nàng xử dụng; nếu sinh trai thì đem vòng anh lạc này đưa đến gặp ta.

Cô ta đồng ý, nhà vua từ giã.

Mấy tháng sau, cái thai đã lộ ra. Người chồng cũ đưa thư về báo:

- Em hãy sống an ổn, chưa bao lâu nữa anh sẽ về cố hương.

Nghe xong, cô ta rất ưu sầu, sai người đến báo với vua:

- Em đang có thai, chồng cũ sắp về, phải làm sao đây?

Vua báo tin đến:

- Nàng chớ lo lắng, ta có cách làm cho hắn không về.

Cô ta yên lặng. Nhà vua đưa tin ra lệnh cho người chồng, ta đang cần vật như vậy, ngươi hãy đi đến xứ xa ấy tìm đem về.

Người chồng phải lặn lội đường xa nên mất rất nhiều năm.

Đủ tháng, cô ta sinh một bé trai, tướng mạo dễ coi, hiếm có trong đời. Trời sắp sáng, cô ta dùng mật ngon cho vào đầy miệng đứa bé, đặt nó trong cái rương có lót lụa mềm, đắp bằng nỉ trắng, trên để vòng anh-lạc rồi đóng rương lại, buộc chặt bằng dây đỏ, trên in dấu tía, bảo với tỳ sứ:

- Hãy đem rương này đến cửa cung vua, lau sạch một hộp bằng trầm đểû ở trên, nên đặt đèn sáng rồi đứng một bên, khi có người sắp đến, ngươi hãy trở về.

Người sứ làm đúng theo lệnh. Bấy giờ có bầy trâu đi theo đường đến nơi cái rương thì bao vây không đi nữa. Đang ở trên lầu cao, Vua Mãnh Quang cùng phu nhân An Lạc trông thấy bầy trâu đứng vây quanh cái rương, nên sai sư ù:

- Ngươi xem ngoài cửa, vì sao bầy trâu quần tụ với nhau vậy?

Sứ giả tâu:

- Ngoài cửa có một cái rương cột bằng dây đỏ, niêm phong với dấu tía.

Vua ra lệnh:

- Ngươi hãy mau đem vào đây.

Phu nhân tâu:

- Xin đại-vương ban cho thiếp vật trong rương.

Vua đáp:

- Tùy ý.

Mang rương đến chỗ vua, sứ giả mở ra, thấy ngọc anh lạc và đứa bé.

Nhận ra ngọc anh lạc này, vua nói đấy là con mình rồi đưa cho phu nhân, bảo:

- Đây là con của nàng.

Nhận đứa bé, phu nhân chú nguyện:

- Nguyện con trẻ trường thọ, nên đặt tên đứa bé này là gì?

Vua nói:

- Đứa bé có phúc được trâu hộ vệ nên đặt tên là Ngưu Hộ.

Lại nữa, phu nhân An Lạc đích thân nuôi dưỡng nên đổi hiệu mẹ là Ngưu Hộ Mẫu.

Phương Bắc, Vua hiệu Viên Thắng trị vì nước Đắc Xoa Thi La làm cho hòa bình giàu có an lạc, nhân dân phồn thịnh nói đầy đủ như những nơi khác, các vườn cây hoa trái sum suê, mưa nhiều thuận thời tiết, khất thực dễ dàng.

Một hôm, đang cùng vui chơi hoan hỷ trên lầu cao, vua bảo các quan:

- Có nước nào giàu có vui vẻ an lạc như trong lãnh thổ của ta không?

Đại thần tâu:

- Nước Ôn Thệ Ny, vua hiệu Mãnh Quang, họ cũng phong phú vui vẻ, an lạc, hoa trái bất tuyệt, không khác xứ này. Họ có thương nhân đi đến nơi này.

Sau khi gọi đến hỏi đầy đủ, nghe xứ họ phồn thịnh, vua sinh tâm đố kỵ, bảo với quần thần:

- Các khanh hãy tập họp binh lính, ta muốn chinh phục họ.

Nhà vua đích thân thống lĩnh bốn loại binh đi dần về hướng thành Ôn Thệ Ny, xâm lăng vô độ, tàn bạo phi lý, nhân dân không sống nỗi.

Nghe giặc đến, vua Mãnh Quang cũng dẫn bốn loại binh ra chống cự nhưng bị thua nên binh lính phân tán. Vua đơn thân độc mã bỏ chạy qua nơi khác.

Đến nơi hoang dã, vua gặp một người nông phu tên Tăng Trưởng đang tự mình cày ruộng. Thấy dung mạo ông ta khác với người thường. Vua liền hỏi:

- Người là kẻ tráng sĩ dũng mãnh, có nghe đến việc vua Viên Thắng cùng vua Mãnh Quang đánh nhau và vua Mãnh Quang đại bại, người có biết không?

Đáp:

- Tôi có nghe việc này nhưng không biết hư thật.

Vua đáp:

- Đó là sự thật.

Người cày ruộng không biết đấy là vua Mãnh Quang nên nói:

- Vua kia là khách, vua Mãnh Quang ở trong nước mình mà bị xâm lăng phải bỏ chạy đến nơi khác, vậy dùng mưu thần tướng mạnh vào việc gì? Nếu trước đây vua ấy dùng tôi làm tùy tùng, thì tôi dùng dây cột cổ vua Viên Thắng lôi vào trong thành lâu rồi.

Nói chuyện chưa xong, người vợ đưa thức ăn đến, kết lá làm vật đựng. Người chồng rửa tay muốn ăn, nhìn sang vua, nói:

- Này trượng phu hùng mạnh, xem qua bộ dạng của ngài như có vẻ đói. Tôi là kẻ bần cùng, có thức ăn dở này, nếu ngài không chê xin được cùng ăn.

Vua Mãnh Quang suy nghĩ ngay:

- Nếu ta không ăn, tất bị chết đói.

Nhà vua liền xuống xe, lấy vật lót ngồi, rửa tay chân xong cùng ngồi ăn chung.

Người vợ rót rượu trong chén mẻ để uống. Vua suy nghĩ: "Tuy biết chén mẻ nhưng ta sẽ uống ở chỗ không bị mẻ".

Nhưng nhà vua có trí sách lược, biết cách cư xử tùy lúc nên nghĩ lại: "Nếu ta uống chỗ chén không bị mẻ, thì sợ người kia cho rằng ta khinh khi họ vậy, ta nên uống vào nơi mẻ để cho họ cảm tình sâu đậm với ta".

Bấy giờ, người nông phu uống tránh độc (chủ uống trước) trước ngay chỗ mẻ, sau đó đưa cho vua. Nhận lấy chén rượu, vua uống ngay chỗ bị mẻ. Nông phu suy nghĩ: "Đây là bậc đại trượng phu, ý không phân biệt cùng uống chung với ta ở chỗ mẻ. Ta hãy kính trọng và gây sự giao hảo lâu dài với ông ta".

Sau khi suy nghĩ, người nông phu bảo vợ:

- Hiền thủ, đây là bậc đại trượng phu, là người bạn thân thiện đắc ýcủa ta. Nàng hãy đưa vị này về Tệ-xá của ta, đưa dầu thoa thân và nước nóng để tắm, rồi dọn ăn uống. Ngựa cũng đã đói, hãy cho cỏ nước đầy đủ.

Người vợ đưa vua trở về, nhất tâm làm đúng theo lời chồng dặn, cung cấp đầy đủ.

Khi ấy, có một nước nhỏ tên Kiệt Sa lén đến gây xâm lược nước vua Viên Thắng, bắt lấy cá của nhân dân. Các đại thần viết thư tâu trình đầy đủ sự việc, mong vua khéo lo liệu. Cuối thư có bài kệ:

Vua đang ở nước khác

Cần khổ chiến thắng người

Ngay tại đất nước mình

Cũng phải cần bảo vệ.

Sau khi đọc thư, vua Viên Thắng suy nghĩ: "Nếu ta thống lĩnh binh sĩ trở về nước, tất mọi người cho là ta bị thua nên chạy về. Vậy ta nên hòa hảo với họ rồi mới trở về nước mình. Nhà vua sai đưa tin đến Vua Mãnh Quang:

- Này bạn, việc đã qua không nên nhắc lại, hãy tạm thời ra ngoài, chúng tôi muốn được gặp, việc thắng bại không luận làm gì nữa, mong được thân cận gắn bó với nhau không kình chống nữa, khi hòa bình như xưa, tôi sẽ trở về đất nước mình.

Sau khi được thư, quần thần thương nghị:

- Nếu báo không có vua, tất họ khinh khi ta. Hãy tạo điều kiện ứng phó tình huống này.

Họ viết thư báo:

- Thưa ngài, chúng tôi đã xem thư, tình cảm thật tốt đẹp, sự việc tuy đúng vậy nhưng vẫn còn do dự. Hai nước gặp nhau tất có hồ nghi, tuy bạn đã bỏ ý đồ ban đầu nhưng tôi bận việc chưa tiếp kiến được. Con ruột của tôi là thái tử Ngưu Hộ sẽ ra gặp ngài, cùng nhau hoan hỷ, tùy ý ở hay đi.

Khi ấy, Ngưu Hộ ra thành gặp Viên Thắng, cùng nhau hết lòng hoan hỷ. Nhà vua giải hết binh bị, trở về nước mình.

Bấy giờ, các đại thần của vua Mãnh Quang cùng nhau bàn luận: "Oán địch ngoại xâm như mưa đã tạnh, hãy mau tìm kiếm quốc vương của ta".

Sứ giả truy tìm khắp bốn phương gần xa.

Nghe vua Viên Thắng đã thu binh trở về, vua Mãnh Quang bảo với nông dân Tăng Trưởng:

- Tôi đã hết sợ, xin từ giã bạn trở về. Nếu bạn vào thành, nên qua nhà tôi.

Đáp:

- Danh hiệu của bậc đại trượng phu, tôi chưa biết, sau này làm sao hỏi thăm đến nhà?

Vua nói:

- Ai lại không biết nhà của tôi. Khi bạn vào thành nên hỏi thế này: - Nhà người nhiều ngựa ở đâu?

Sau khi dặn dò, vua giục ngựa ra đi, đến cửa thành cũ bảo người thủ môn:

- Ngươi nên biết, nếu có người nào đến hỏi nhà nhiều ngựa, nên đưa họ gặp ta.

Sau đó vua vào cung.

Một thời gian sau, thành Ôn Thệ Ny có lễ hội lớn. Mọi người gần xa đều tụ tập về thành. Vợ người nông phu nói với chồng:

- Hôm nay trong thành có lễ hội lớn. Tôi cũng đến xem mọi người đô hội, lại nhân đó hỏi nhà người nhiều ngựa.

Chồng nói:

- Hiền thủ, phàm những hào sĩ, lẽ nào lời nói đều có thật. Vào ba trường hợp, có thể gặp được hạng người ấy. Một là bị người khác đánh. Hai là bị người khác khinh khi. Ba là vua bị tan nhà mất nước. Ngoài ra, làm sao gặp được họ.

Vợ đáp:

- Tuy khó gặp họ, vậy xem tụ hội.

Vợ chồng cùng đi vào thành kia. Sau khi suy nghĩ, ta thử hỏi xem, nông phu hỏi người giữ cửa:

- Này ông ơi, nhà người có nhiều ngựa ở đâu?

Nghe người kia hỏi như vậy, người thủ môn liền đưa chồng vợ đến chỗ vua. Vừa trông thấy họ, vua kinh ngạc vui mừng reo lên:

- Chào bạn mới đến. Này Tăng Trưởng sao bạn dến đây được?

Đáp:

- Cố đến để tìm kiếm.

Thấy vua ngồi trên tòa sư-tử, các quan vây quanh, Tăng Trưởng chưa biết rõ vua nên thầm nghĩ: "Kông biết vì tội gì mà ta bị bắt đến đây?".

Biết họ nghi sợ, vua muốn làm cho nhớ lại nên rời khỏi tòa, lấy mão xuống, lộ trán vua ra. Vừa trông thấy, Tăng Trưởng nhớ lại mặt vua, vợ chồng đồng thời lạy dưới chân vua.

Khi ấy, nhà vua bày nghi lễ long trọng, đưa họ vào hậu cung tắm rửa sạch bằng nước thơm, mặc y phục đẹp, tại nhà khách sang trọng dọn trăm loại món ăn thơm ngon. Vua đích thân đến trông nom việc ăn uống của họ. Sau khi mãn tiệc, để họ ở nhà bên cung điện giăng màn thơm ngát, nghỉ ngơi thỏa mãn. Vua ra lệnh nội cung:

- Đây là cha mẹ ta, thức ăn, y phục, đồ nằm, người hầu, kẻ sai khiến mà họ cần đến, đều phải cung cấp.

Khi vua Mãnh Quang đã cung kính họ nên mọi người đều cung kính, vương tử, đại thần trong ngoài, thứ dân đều cung kính. Nông dân Tăng Trưởng thấy mình được cung kính cúng dường quá đáng nên sau bảy ngày cảm thấy ngượng ngùng, đến trước vua thưa:

- Nay tôi xin từ giã, muốn trở về lều cỏ.

Vua nói:

- Khanh hãy ở lại đây, cùng ta trị nước.

Đáp:

- Tôi là nông phu làm sao biết quốc sự?

Vua nói:

- Có phải khanh đã nói, nếu ta được làm đại thần thì ngay lập tức dùng dây dài cột cổ Viên Quang lôi vào trong thành Ôn Thệ Ny. Nay lại nói tôi là nông phu không kham việc nước. Hãy tạm ở lại, chớ nghĩ đến việc về nhà.

Tăng Trưởng im lặng.

Vua cố lập chức đại tướng, phong làm tể-phụ, cung cấp thức ăn còn sơ sài.

Sau đó, nhân có việc, vua hỏi:

- Khanh sống khỏe không?

Đáp:

- Ăn sáng chưa no, làm sao sống khỏe!

Vua nói:

- Không nên sầu não, sẽ cung cấp ăn mặc đầy đủ cho khanh.

Vua liền bảo năm trăm đại thần:

- Các khanh nên cung cấp cho Tăng Trưởng.

Khi ấy, mọi người cùng nhau cung cấp tăng thêm sự nuôi dưỡng ăn mặc. (Từ đây về sau gọi là Tăng Dưỡng)

Khi vua hỏi:

- Khanh khỏe không?

Đáp:

- Ăn mặc tuy đầy đủ nhưng bị các quan đại thần trong triều khinh khi vậy làm sao khỏe?

Vua nói:

- Như vậy, khi các quan tụ họp bình luận, khanh đến trong chỗ ấy thì họ không dám khinh.

Đáp:

- Đại vương, tôi là nông phu nào dám khinh thường bậc quyền quý của triều đình!

Vua nói:

- Khanh chỉ đến dự, ta làm cho họ kính trọng.

Vị này im lặng.

Sau đó, nhân có triều hội, ý vua muốn những người quyền quý kính trọng Tăng Dưỡng nên phương tiện hỏi:

- Hiện nay trong nước có những sự việc bất an như vậy. Các khanh làm sao cho chấm dứt hết?

Có đại thần bàn luận rằng phải thi hành kế này mới trừ diệt được.

Vua nói:

- Không được.

Các vị quan khác đều trình bày ý kiến riêng của mình, vua đều không chịu, mới hỏi Tăng Trưởng:

- Phải làm thế nào?

Đáp:

- Nếu thi hành kế như vậy mới có thể tiêu diệt được.

Trước quần thần, vua chấp nhận kế ấy và cho là đúng lý.

Thấy như vậy, các quan đều suy nghĩ:

-Tăng Trưởng nói ra, vua đều tin dùng, vậy không nên cùng nhau khinh người này.

Sau đó vua lại hỏi thăm Tăng Dưỡng khỏe không.

Đáp:

- Chỗ ở chưa rộng, làm sao khỏe được?

Vua bảo các quan:

- Các khanh nên cấp cho Tăng Dưỡng nhà rộng.

Đáp:

- Có đại thần ... vừa qua đời. Thê thiếp người hầu đang còn sống trong nhà.

Vua phán:

- Nên ban hết cho Tăng Dưỡng nhà này cùng với thê tử ... và các tài vật khác.

Sau khi Tăng Dưỡng nhận nhà, vua hỏi:

- Khỏe không?

Đáp:

- Những người trong nhà cho tôi là nông phu nên đều khinh mạn.

Vua nói:

- Nếu như vậy, khi khanh đang tắm, ta sai sứ đến gọi, khanh nói thế này:- Đợi ta tắm xong, sẽ đi gặp vua.

Tăng Dưỡng tâu:

- Làm sao tôi dám trái lại lệnh đại vương?

Vua bảo:

- Việc này do ta dạy, thật không có lỗi. Lại nữa, khi khanh sắp ăn, ta sai sứ đến gọi, khanh nên bảo rằng đợi ta ăn xong sẽ đến gặp vua. Khi khanh đang ăn, ta sẽ đến nhà cùng khanh chung mâm.

Đáp:

- Đại vương, tôi làm sao dám cùng ăn chung với đại vương!

Vua bảo:

- Ta cho phép không có lỗi. Khi làm như vậy, họ đều cung kính.

Tăng Trưởng nghe lệnh nên về nhà. Khi ông ta đang tắm, vua sai sứ đến gọi:

- Có việc cần thiết, ngài phải đến ngay!

Sứ đến truyền lệnh, Tăng Dưỡng báo:

- Đợi tôi tắm xong, sẽ đến.

Sau khi sứ giả về, mọi người trong nhà bảo nhau:

- Chủ nhà này dám cự lại lệnh vua, ai sinh kiêu mạn tất tự rước lấy tai họa.

Họ lại nói với nhau:

- Vốn không phải người sang trọng, khi được chút thế lực thì sinh ngạo nghễ.

Gia nhân lại bảo:

- Chị em nên biết, những kẻ trèo cao tất bị té nặng. Hôm nay, người này tất bị vua giết, việc này sẽ đến ngay mà.

Tắm rửa xong, không y hẹn đến gặp vua, ông ta lại đến chỗ ăn. Vua lại sai sứ báo:

- Có việc phải đến gấp.

Tuy nghe vua gọi, nhưng ông ta nói:

- Hãy đi đi, tôi ăn xong mới đi.

Nghe sứ giả về báo, vua đích thân cỡi voi lớn đến nhà ông ta, hỏi:

- Tăng Dưỡng, khanh sắp ăn?

Đáp:

- Sắp ăn.

- Không mời ta hay sao?

Đáp:

- Kính thỉnh ngài vào dùng bữa.

Những người trong nhà nói với nhau:

- Chủ nhà ta cùng vua nói chuyện đùa một cách bình thường.

Họ đều lấy làm lạ, trương mắt ra nhìn.

Bấy giờ vua rửa sạch tay chân, cùng ngồi ăn chung. Thấy như vậy, những người trong nhà đều sợ hãi nói với nhau:

- Chúng ta so đo khinh khi người nông phu này, nay cùng thấy ông ta ngồi ăn chung với vua.

Họ lại cùng bàn luận:

- Biết làm sao đây! Vua đã ngồi ăn chung, việc này không khinh suất được. Từ nay về sau, chúng ta không nên khinh thường. Ai không kính trọng, tất bị tai họa.

Họ bảo nhau như vậy nên cùng kính sợ.

Vào lúc khác, vua hỏi khỏe không.

Đáp:

- Có một đại thần là thân tộc của vua, thường khinh mắng tôi, làm sao khỏe được!

Vua nói:

- Nếu ta nói ra thì có trở ngại, khi cần xử sự, khanh tự biết tiến thối.

Đáp:

- Xin vua đừng trách hành động của tôi.

Vua nói:

- Ta không trách gì cả.

Một lúc nọ, Tăng Dưỡng đang đi, thấy hai đồng tử nghèo không thân thuộc cầm ná và đạn chơi bên đường. Có một nô tỳ đội một vò nước đi qua trên đường. Một đồng tử nói:

- Tôi dùng đạn khô bắn lủng vò nước.

Một người nói:

- Đạn khô bắn lủng, đó thật không gì lạ. Tôi dùng đạn ướt bắn lấp lổ ấy lại mới là lạ.

Sau khi bàn luận, họ dùng đạn khô bắn vò lủng lổ, rồi dùng đạn ướt bắn bịt lổ lủng ấy. Trông thấy sự việc như vậy, thật là hiếm có, Tăng Trưởng suy nghĩ: "Hai đồng tử này có thể giúp ta chiến thắng vương thân kia và trừ được oán hận mắng chưỡi".

Tăng Dưỡng hỏi:

- Cháu là con nhà ai?

Đáp:

- Chúng tôi không thân thích, tự kiếm sống qua ngày.

- Nếu được, nên về sống chung với ta.

Đáp:

- Xin tuân lệnh.

Sau khi được thu nhận, chúng hỏi:

- Tôi lại làm gì đây?

Đáp:

- Cháu chỉ tập bắn đạn. Sau này, khi thấy ai đấu tranh với ta, cháu nên dùng viên đạn bất tịnh bắn vào miệng họ.

Đáp:

- Tôi làm được.

Sau đó, Tăng Dưỡng đang cạnh tranh cùng vương thân kia. Từ xa, đồng tử bắn đạn dơ bẩn vào miệng người ấy. Họ liền mửa ra, lấy tay bịt miệng vội chạy đi. Nhân sỉ nhục ấy, họ không còn lăng mạ nữa.

Vua lại hỏi:

- Khanh có khỏe không?

Đáp:

- Người trong cung của vua vì thấy tôi là nông phu nên đều khinh thường.

Vua bảo:

- Nếu như vậy, khi ta vào cung, khanh đến nơi cửa hỏi:

- Vua đang ở đâu, Nếu họ bảo ở trong, khanh nên nói, việc nước ngổn ngang lại bỏ đi không biết đến, ở mãi cung sau làm sao giải quyết.

Lại nữa, nếu thấy ta đang ở trong, thì khanh lên giường bên cung điện của ta, thòng chân nằm ngủ. Ta sẽ ra cửa, đỡ chân khanh lên.

Đáp:

- Đại vương, chẳng lẽ tôi có hai đầu hay sao mà khiến vua đỡ chân? Vua tôi vị trí sai biệt, cao thấp khác nhau, làm trở ngại nhân tình, nào có lý này?

Vua nói:

- Đấy là sự yêu mến của ta, khanh có lỗi gì? Khi làm như vậy, trong cung đối với khanh không dám khinh mạn nữa.

Tăng Dưỡng im lặng.

Sau đó, Tăng Dưỡng vào trong cung, hỏi vua đang ở đâu, tùy theo lời dạy của vua, làm theo thứ lớp cho đến đỡ chân lên. Khi thấy như vậy, người trong cung đều không nhịn nỗi muốn đến làm nhục. Vua bảo:

- Ngươi chớ hành động, đấy do sự yêu mến của ta, người này có tội gì!

Họ bảo nhau:

- Cùng thấy người này được vua yêu mến, chúng ta không nên khinh mạn nữa. Nếu vua biết được, tất trị tội chúng ta.

Từ đó về sau, họ đều kính trọng.

Vào một lúc khác, vua hỏi khỏe không?

Đáp:

- Hiện nay đã khỏe.

Vua Mãnh Quang tính ưa thích nữ sắc, nhân cùng các thiếu niên lên lầu cao nói chuyện thế sự, nên hỏi:

- Các ngươi biết ở đô thành nào có gái đẹp không?

Có người đáp thành Khúc Nữ. Có người nói trong thành Xuất-Xà Cái. Có người nói các thành ở nước khác chưa đáng kể, có cô gái buôn bán hương sắc trong thành này tên là Thiện Hiền sắc đẹp tuyệt vời đặc biệt trong đời như thiên nữ trong cung Đế Thích, như ánh sáng mặt trời che hết muôn sao.

Nghe nói vậy, vua mừng rỡ lạ thường, đê mê rộn ràng, ý mong được gặp, nên ngay đêm ấy bỏ ngự bào ra, mặc y phục thứ dân, tự mang theo năm trăm tiền vàng đi đến nhà Thiện Hiền.

Trông thấy vua, cô ta vui mừng chào đón, bảo người hầu:

- Phục vụ vị trượng phu này tắm rửa sạch sẽ.

Người hầu tuân lệnh, tắm rửa lau sạch thân thể cho vua.

Bấy giờ, lại có người đem năm trăm tiền vàng đến cửa, gọi:

- Tôi muốn ở lại đêm.

Dâm nữ này có thường lệ là nếu có người đến sau thì giết người đến trước để cùng hoan lạc với người sau. Bấy giờ, người hầu thấy vua Mãnh Quang hình dáng khả ái không như thường dân nên rơi lệ suy nghĩ: "Phải chăng người này là giòng Sát Đế Lợi vì dung nghi đoan chính hiếm có trên đời. Vì sao dâm nữ sinh ác tâm gây tội giết oan một cách phi lý".

Nước mắt cô ta rơi trên thân vua, vua liền ngững lên hỏi vì sao bỗng nhiên rơi lệ.

Đáp:

- Không có gì cả.

Với tâm nghi ngờ, vua cố gạn hỏi:

- Phải có lý do, cô hãy nói rõ với ta.

Người hầu liền tuần tự nói lý do ra.

Vua hỏi:

- Cô bé, ta đã thất thế, có cách gì để chạy thoát không?

Đáp:

- Nhà này, bốn phía đều có người cầm dao cùng nhau phòng vệ, không sao chạy thoát. Cũng có chỗ ra nhưng rất nhơ bẩn, làm sao nói được.

Vua nói:

- Bất kể sạch dơ, hãy chỉ nơi ấy, ta cần phải sống.

Đáp:

- Nơi ấy có thể chạy ra, nhưng là cống xí, đóng bằng cọc sắt. Nếu nhổ ra được thì đó là đường thoát.

Vua nói:

- Cô đi chỉ chỗ, tôi thử nhổ xem.

Được cô gái chỉ chỗ, vua đưa người xuống dưới nhổ cọc trong cống xí, tuy ráng hết sức nhưng không nhổ được.

Khi ấy, ngoài tường cách đó không xa, có người Bà-la-môn sống ở đó giỏi xem thiên văn. Ban đêm, ra ngoài nhìn thiên hà, người vợ bưng nước đi theo sau, Bà-la-môn nói:

- Bà nên biết, ta xem tinh tú, thấy vua đang gặp nạn lớn gian khổ vô cùng.

Vợ nói:

- Việc cơ mật của quốc gia, nào cần phải nói ra, người khác nghe được tất bị hình phạt.

Bà-la-môn nói:

- Ta được che chở, trên hết nhờ vua, vua bị mắc nạn ta làm sao an ổn.

Người này liền quỳ xuống giữa sân hướng đến sao nguy ách cầu nguyện.

Trong lỗ xí, vua nghe tiếng của họ, tận lực lay cọc nhổ bật lên, rồi theo trong cống phẩn đi ra, thân thể dính đầy bất tịnh thật khổ cực. Vua thoát ra ngoài, sao nguy ách biến đổi.

Thấy sao biến đổi, Bà-la-môn bảo với vợ:

- Vua tuy mắc nạn nhưng đã thoát được rồi, tính mạng còn nguyên, ta thật may mắn.

Vua chạy vội vàng lén vào trong thành, đến chỗ phu nhân An-Lạc. Phu nhân vội vàng tiếp kiến, hỏi:

- Trời không hại ai, vì sao như vậy?

Vua lần lượt kể lại chuyện vừa rồi. Nghe xong, phu nhân đằm đìa nước mắt, dùng lược tre chải sạch bất tịnh, trước dùng đất thơm tẩy sạch, sau đó dùng các loại hương bột, hương nước tắm rửa, sau đó thoa dầu thơm, mặc y phục thượng hạng cho vua.

Sau khi tạm thời an nghỉ, đến sáng mai, vua ngồi trên điện bảo đại thần:

- Hãy gọi tất cả các vị thầy âm dương biết xem sao lịch đến đây.

Sau khi đại thần gọi họ lại, vua hỏi:

- Đêm qua, ta có sự việc gì lạ?

Đáp:

- Đêm qua, vua an ổn không có việc gì lạ cả.

Vua bảo:

- Ở phường ... có Bà-la-môn giỏi biết tinh tú, hãy gọi lại đây.

Vua sai sứ đến nhà của Bà-la-môn ấy, bảo:

- Vua cho gọi.

Người chồng mặc áo muốn đi gặp vua. Người vợ bảo:

- Trước đây tôi đã nói, việc cơ mật của quốc gia vì sao lại nói ra, ông không chịu nghe, nay bị triệu đến hỏi.

Bà-la-môn liền quan sát mặt trời buổi sáng, biết không có việc xấu nên bảo vợ:

- Bà không nên sợ, đều là điềm an lành.

Khi vừa trông thấy ông ta đến, vua lớn tiếng gọi to:

- Xin chào đại sư, hãy ngồi gần đây.

Bà-la-môn liền chú nguyện:

- Chúc vua sống lâu mãi mãi.

Sau khi ông ta ngồi vào ghế nghỉ giây lát, vua hỏi:

- Bà-la-môn, ông hiểu tinh tú không?

Đáp:

- Theo khả năng của tôi cũng biết chút ít.

Vua hỏi:

- Đại sư, đêm qua, ta có sự việc gì?

Đáp:

- Đêm qua, đại vương gặp nạn cực khổ vô cùng. Nhờ phúc lực nên vua còn mạng sống.

Nghe xong, vua bảo các quan:

- Đúng như lời đại-sư, đêm qua mạng ta rất nguy ngập. Các thầy âm dương không thông lịch số, từ nay về sau bị tước hết bổng lộc. Đem dâm nữ Thiện Hiền ra cột tóc dưới chân ngựa dữ cho nó đạp chết. Nhà nó đang ở cho lừa đến cày lên. Người giúp việc tắm rửa cho ta trong nhà ấy, triệu vào hậu cung để xem việc nước.

Các đại thần thi hành theo đúng lệnh vua.

Vua hỏi Bà-la-môn:

- Ngài đã lo lắng cho nên tôi còn sống, nay muốn báo ân vậy ngài muốn gì?

Đáp:

- Đại vương, xin hỏi lại trong nhà rồi sẽ đến trình bày ý nguyện.

Vua nói:

- Tùy ý.

Bà-la-môn đi về, bảo người trong nhà:

- Vua ban cho ta ước muốn, cần gì đều cung cấp tất cả. Các người muốn điều gì?

Vợ hỏi:

- Chàng muốn vật gì?

Đáp:

- Ta muốn được phong ấp bằng năm tụ lạc lớn.

Vợ nói:

- Như vậy, tôi muốn 100 con bò mẹ để lấy sửa lạc.

Con trai nói:

- Con muốn ngựa giỏi xe báu để cỡi đi.

Con gái:

- Con muốn anh-lạc đẹp thượng hạng để trang sức.

Người phục vụ nói:

- Tôi muốn cục đá nghiền hương để dùng khi làm thức ăn.

Bà-la-môn suy nghĩ:

- Sự việc như vầy, không nên nói thẳng ra, nên làm bài kệ để xin với vua.

Ông ta đến gặp vua, tâu:

- Đại vương, những ý nguyện trong nhà của thần, mong tha tội cho mới dám nói hết ra. Xin nói qua bài kệ để trình bày việc ấy:

Thần muốn năm phong-ấp

Vợ xin trăm con bò,

Con muốn xe ngựa báu,

Gái thích những anh-lạc,

Người làm việc trong nhà,

Cần đá để mài hương,

Những mong cầu như vậy,

Xin vua thương ban cho.

Nghe tâu như vậy,

Vua Mãnh Quang nói kệ đáp lại sự mong cầu ấy:

Cho ông năm phong-ấp,

Một trăm bò cho vợ,

Xe ngựa báu cho con,

Con gái những anh-lạc,

Tỳ nữ nhỏ trong nhà

Cho đá tốt mài hương

Có những mong cầu này,

Ta đều cho mãn nguyện.

Sau khi lệnh cho đại thần theo yêu cầu của những người kia, ban cho tất cả, vua bảo Bà-la-môn:

- Đại sư cọng tác với ta trị nước, thật tâm tương trợ bình luận các việc chính sự.

Đáp:

- Đại vương, tôi là Bà-la-môn không nên biết đến việc quốc gia.

Vua vẫn cố đưa Bà-la-môn lên làm đại thần.

Nước lân cận tên là Kiệt Sa phản nghịch, vua sai Tăng Dưỡng cầm binh đến dẹp, sau khi phá tan quân kia thu hoạch nhiều tài vật, đóng binh ngoài đồng sắp vào trong thành.

Nghe họ muốn vào thành, vua đích thân chỉnh đốn quân sĩ ra đón, thấy thân thểthiếu nữ Kiệt Sa nhiều ghẻ lở, hỏi Tăng Dưỡng:

- Có trượng phu nào cùng ngủ chung với cô gái này không?

Đáp:

- Chẳng những chỉ thích chung chiếu gối mà còn cỡi lên lưng chồng bắt làm ngựa hí.

Vua hỏi:

- Chẳng lẽ có sự việc như vậy hay sao?

Đáp:

- Chính mắt vua sẽ thấy.

Bấy giờ, Tăng Dưỡng đưa thiếu nữ này đến y sĩ:

- Ngươi hãy khéo chữa trị, cho dùng nhiều thuốc, cần bao nhiêu ta cũng không tiếc.

Sau khi y sĩ trị liệu cho bình phục xong, lại bồi dưỡng đầy đủ y phục, thức ăn nên dung nhan của cô ta trở nên đáng yêu mến lạ thường.

Tăng Dưỡng đưa về làm con gái, đặt tên là Tinh Quang. Ông ta bảo:

- Nếu ta thỉnh vua đến nhà dùng bữa, con hãy trang sức thân thể với đầy đủ các loại anh-lạc rồi xuất hiện trước vua.

Cô gái vâng lệnh.

Một hôm, Tăng Dưỡng bạch vua:

- Xin được vua ghé qua tệ xá của thần.

Vua nói:

- Khanh không mời, làm sao ta đến!

Đáp:

- Hôm nay mời thỉnh, xin ngày mai đến nhà.

Vua đáp:

- Lành thay.

Tăng Dưỡng liền dọn các món ăn thịnh soạn trân quý, thỉnh vua vào nhà tắm rửa bằng nước thơm, dâng y phục vô giá. Ăn uống sắp xong, còn đang nói chuyện, từ trong màn, cô Tinh Quang ném trái cầu nhỏ rồi theo đó vén màn, thưa với cha:

- Xin đưa trái cầu cho con.

Vua thấy thiếu nữ nhan sắc siêu tuyệt nên sinh ý luyến ái, hỏi Tăng Dưỡng:

- Cô này của ai?

Đáp:

- Con gái của thần.

- Đã gã cho người nào chưa?

Đáp:- Chưa có ai.

- Sao không dâng cho ta?

Đáp:

- Nếu vua không chê, tùy ý đưa đi.

Vua liền bày lễ lớn cưới đưa vào cung.

Thói thường trong đời được mới nới cũ, không vào nhà trong nữa. Vua say đắm Tinh Quang nên bỏ bê các việc khác.

Sau khi suy nghĩ:

- Đây thật đúng lúc nên thi hành những việc đã nói ngày trước.

Tăng Dưỡng hỏi Tinh Quang:

- Con có thể cỡi lên lưng vua bắt làm ngựa hí không?

Đáp:

- Để con suy nghĩ, chưa biết nên làm thế nào?

Phàm người nữ có trí tuệ, không học tự hiểu, cô ta liền mặc y phục dơ bẩn, nằm trên giường hư. Vua đến hỏi:

- Vì sao như vậy?

Đáp:

- Thiếp bị trời giận nên mắc tai họa này.

Vua hỏi:

- Nàng đã từng cầu nguyện trời chuyện gì?

Đáp:

- Vì vua sai cha thiếp chinh phạt nước Kiệt-Sa, bấy giờ thiếp có tâm cầu nguyện với trời: "Nếu cha con đem binh chiến thắng được nước kia, bình an trở về, khi con xuất giá lấy chồng, sẽ cỡi lên lưng chồng bảo làm ngựa hí".

Khi bị ái dục lôi đi thì việc gì cũng làm cả. Vua đáp:

- Này phu nhân, yêu cầu của nàng, đây thật vì ta nguyện cầu không bệnh hoạn, ta phải làm cho.

Phu nhân im lặng.

Vua hỏi:

- Vì sao nàng im lặng, hay là nàng có cầu trời việc khác nữa.

Đáp:

- Không có nguyện khác nhưng bấy giờ có suy nghĩ, khiến Bà-la-môn đại thần chú nguyện và sai nhạc sĩ đánh đàn tỳ bà.

Vua nói:

- Việc này cũng được, Bà-la-môn đại thần là của ta, người đánh đàn tỳ bà, có thể tìm được.

Đáp:

- Xin ngài tìm cho.

Bấy giờ, nước Kiền Đà La có một thương nhân mang các loại hàng hóa đến thành Oân Thệ Ny, đến nhà dâm nữ, giao thiệp với nhau. Người này say đắm nên loạn ý hoang mê, tiền tài đều tiêu xài hết, gia nhân nô bộc đều bỏ trốn cả. Thấy người ấy nghèo cùng, dâm nữ bảo:

- Thưa ngài, tôi không có ruộng đất để cày cấy, lại không có cửa hàng buôn bán, chỉ mong lấy việc giao du tụ tập để kiếm sống. Ai có tiền của thì mang đến, không có thì nên đi nơi khác nhường cho khách đến sau.

Đáp:

- Tôi nghèo chẳng có gì cả, nếu có thì lại dùng vào đâu, tôi đối với nàng rất yêu mến, xin lưu dung cho chớ làm khổ đuổi đi, cho tôi ở trong nhà mới biết là thương nhau.

Dâm nữ nói:

- Nếu có thể hoàn toàn làm theo lời ta thì cho cư trú lại.

Đáp:

- Tôi làm tất cả.

Khi ấy, ý dâm nữ muốn đuổi đi nên sau khi đại tiện dùng cây que cắm trên bãi phân, bảo người kia dùng răng cắn rút cây que lên. Người kia dùng răng kéo cây que ra. Dâm nữ dùng chân đạp vào hông người kia, nói:

- Vật bần hàn, việc ghê tởm như vậy sao lại đưa răng ra làm, ngươi là kẻ không sạch sẽ hãy đi xa ta ta.

Sau khi bị dâm nữ đuổi đi, vì có nghề cũ biết đánh đàn tỳ bà, người kia nhờ vào tiếng đàn để nuôi sống.

Vua bảo Tăng Dưỡng:

- Con gái khanh có cầu nguyện với trời, Bà-la-môn đại thần, ta đã có sẵn, người đánh đàn tỳ bà biết tìm ở đâu?

Đáp:

- Có ông khách người Kiền Đà La sống bằng nghề đánh đàn tỳ bà, nên dùng khăn bịt mắt đưa vào trong cung.

Vua nói:

- Nên làm như vậy.

Vua cùng đại thần lên tầng lầu cao thứ bảy, nói rõ việc này, ra lệnh đại thần. Tăng dưỡng dùng khăn bịt mắt người kia dẫn lên lầu. Khi ấy Tinh Quang mặc y phục trắng sạch, cỡi lên vai vua, đại thần tịnh hạnh chú nguyện cho vua, đánh đàn tỳ bà, vua làm ngựa hí lên.

Khi ấy, người Kiền Đà La suy nghĩ:

- Trên tầng lầu bảy, sao lại có tiếng ngựa hí, chắc là bọn ta bị đàn bà khinh lộng.

Trong lòng sinh ý cảm khái, người này ca lên:

Việc này rất giống nhau,

Việc này nhiều người biết,

Tiền tài đều tan mất,

Que bẩn nhớp răng mình.

Khi ấy, thấy người kia tay gảy đàn, miệng hát không ngừng, vua hỏi:

- Câu hát lạ thường, có ý nghĩa gì?

Sau khi nghe người kia lần lượt đem việc của mình tâu lên, vua suy nghĩ:

- Người này đã biết ta, vậy không nên cho ở đây.

Vua cho ông ấy năm trăm tiền vàng, đuổi ra khỏi nước.

Sau đó, đại thần can gián vua:

- Làm quốc vương không nên để phụ nữ đem làm trò đùa.

Nghe vậy, vua rất xấu hổ đành im lặng.

Vua ra lệnh Tăng Dưỡng:

- Đại thần Bà-la-môn đang chê trách ta, khanh có thể làm cho vợ hắn cạo đầu hắn không?

Đáp:

- Thần thử xem sao!

Tăng-Dưỡng về nhà hỏi vợï:

- Vua bị Bà-la-môn chê bai vào mặt, bà có cách gì làm cho vợ hắn cạo đầu hắn không?

Đáp:

- Không nhọc gì nói trước, cạo xong sẽ xem.

Chồng:

- Nếu làm được, thật là việc tốt, chồng tài giỏi tất có vợ tài ba.

Bà này lập tức giao hảo với người vợ đại thần. Sau khi đã hợp ý nhau, bảo rằng:

- Phu nhân, chồng tôi rất thương yêu tôi, yêu cầu điều gì chàng cũng làm cho cả.

Đáp:

- Tuy chị nói yêu thương như vậy, nhưng làm sao hơn tôi được. Đối với chồng, tôi có quyền uy, không ai qua nỗi.

- Nếu chị có quyền đối vơí chồng, thử cắt tóc ông ấy xem. Tôi chắc là chị không thể làm được.

Đáp:

- Hãy xem cắt xong, mới biết có thể hay không.

Vợ đại thần liền mặc y phục dơ bẩn, nằm trên giường chiếc, rên rỉ.

Đại thần hỏi:

- Vì sao như vậy?

Đáp:

- Thiên thần giận em.

Hỏi:

- Chả lẽ nhà ta nghèo không thể đáp lễ hay sao mà làm cho thiên thần hiềm khích với ta. Ta sẽ làm theo những gì nàng yêu cầu, làm cho thiên thần hoan hỷ để tiêu trừ bệnh khổ. Nàng đã hứa với thần điều gì?

Đáp:

- Khi chàng còn ở nhà chưa có quan chức, được nhà vua triệu lần đầu, thiếp cầu khẩn thần linh sao cho chồng của con đến theo lệnh vua, được toại ý mong cầu, an ổn trở về, sẽ cạo đầu tóc cúng dường thiên thần. Từ đó đến nay gia đạo hưng thịnh tiền tài giàu có, em tham hưởng thụ sung sướng quên tạ ân thần. Do tâm ngạo mạn này làm cho thần phẫn nộ. Nay chắc em phải chết có cách nào cầu sống được.

Chồng bảo:

- Sự cầu khẩn thần linh của nàng, thật vì cho ta, nên tâu vua nghe rồi thi hành.

Người vợ liền gửi thư báo cho vợ Tăng Dưỡng:

- Chồng tôi đã hứa, chắc chắn ông ấy làm.

Được tin, vợ báo cho Tăng Dưỡng:

- Vợ đại thần đã gửi tin đến, chồng bà ấy đã hứa tạm chờ nghe trình tấu.

Tăng Dưỡng vào gặp vua tâu rằng sự việc đã xong không còn lo gì nữa. Nếu đại thần đến, xin cho biết việc này.

Vua nói:

- Đã biết rồi không phiền phải dặn.

Bấy giờ, đại thần đến gặp vua, tâu:

- Đại vương, thần có lời nguyện phải tạ thần linh, không ra khỏi cửa trong sáu tháng, xin ngài ban ân cho được toại nguyện.

Vua nói:

- Lành thay.

Về nhà, sau khi cạo tóc, đại thần này xấu hổ nên không ra ngoài. Người vợ sai sứ báo cho vợ Tăng Dưỡng:

- Đã cạo tóc xong.

Người vợ bảo Tăng Dưỡng. Tăng Dưỡng tâu vua. Nghe nói, vua rất mừng liền sai sứ gọi đại thần đến.

Bấy giờ, Tăng Dưỡng dạy hai đồng tử hát ca khúc:

- Nếu gái nhà lành, lại xinh đẹp

Có thể khiến chồng theo ý mình,

Trên tầng lầu bảy ngựa hí vang,

Xem đại thần này không còn tóc.

Nghe tin vua triệu, đại thần vội đội mão, đi vào cung. Thấy ông ta đến, vua sai ngồi một bên. Hai đồng tử liền ca lên:

- Nếu gái nhà lành, lại xinh đẹp,

Có thể khiến chồng theo ý mình,

Trên lầu bảy tầng ngựa hí vang,

Xem đại thần này không còn tóc.

Đến sát ở trước, hai đồng tử lấy mão đại thần ra, thấy không còn tóc, bá quan cả triều đều vỗ tay cười lớn. Trong tự xấu hổ, ngoài ngượng với mọi người, đại thần rụt vai cúi đầu im lặng bỏ đi ra cửa.

Sau khi làm việc này, Tăng Dưỡng tự khoa trương lớn giọng bảo mọi người:

- Ai bị phụ nữ khinh đùa như vậy làm sao có thể thành tựu việc lớn cho đất nước.

Tại chỗ khuất, vua bảo đại thần:

- Khanh có cách gì làm cho Tăng Dưỡng bị sỉ nhục không?

Đáp:

- Đại vương, để thần xem xét đã, không biết được không?

Đại thần bảo với con trai của em gái mình là người giỏi huyễn thuật:

- Khi lâm triều, đại thần Tăng Dưỡng thường khinh dễ với ta. Con có thể làm cho hắn bị sỉ nhục nặng nề không?

Đáp:

- Này cậu, cho cháu suy nghĩ đã, xem việc ấy như thế nào.

Sau khi suy tính, người này đáp:

- Âm thầm dùng huyễn thuật hóa ra một nhóm thương khách, nơi đống phân lớn hóa thành phòng thất, dùng bộ xương khô hóa ra vợ thương chủ nhan sắc xinh đẹp ai cũng ưa nhìn. Theo phép nước của vua, khi có đoàn buôn lớn đến thành, hoặc vua đích thân thu thuế hoặc sai Tăng Dưỡng.

Bấy giờ vua không ra mà sai Tăng Dưỡng nhận thuế.

Đến doanh trại họ, Tăng Dưỡng hỏi:

- Phòng thương chủ nơi nào?

Được họ chỉ chỗ, Tăng Dưỡng vào phòng, thấy vợ thương chủ sắc đẹp khả ái làm rung cảm lòng người.

Vừa trông thấy, Tăng Dưỡng liền say đắm, hỏi:

- Thiếu nữ, nếu cô chịu hoan lạc với ta, sẽ không thu thuế cả đoàn buôn.

Đáp:

- Tùy ý.

- Nhưng không nên làm ban ngày, hãy đợi đến đêm.

Huyễn sư liền che ngày thành như đêm. Tăng Dưỡng cùng huyễn nữ làm việc phi pháp, dùng tay ôm cổ ngủ say.

Bấy giờ, huyễn sư giải pháp thuật, Tăng Dưỡng đang ôm bộ xương khô nằm trên đống phân.

Đại thần đến bạch vua:

- Đại vương, ngài tạm dời thần giá đến xem Tăng Dưỡng.

Vua xuất thành, đến nơi, nhịp tay đánh thức, bảo:

- Tăng Dưỡng, ngươi dã hợp cùng gái, chả lẽ còn ăn thịt hay sao?

Thấy như vậy, Tăng Dưỡng suy nghĩ biết trò chơi này do vua bày ra, vậy ta còn sống ở đây sao được, thà tự tử chứ không muốn sống nữa ... Nhưng bỏ thân mạng rất khó, ta nên đến gặp Tôn giả Đại-Ca Đa Diễn Na để xin xuất gia.

Đến nơi, Tăng Dưỡng làm lễ thưa:

- Đại đức, con muốn xuất gia.

Tôn giả liền cho xuất gia, truyền 5 giới,10 giới, rồi truyền cận viên, sau khi giáo giới qua, bảo học kinh Tăng-nhất A-cấp-ma.

Bấy giờ, không có Tăng Dưỡng, tâm ý vua Mãnh Quang không an, liền bắt hoàn tụcan trí như cũ.

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

Quyển hai mươi hai hết.

- o0o -

 

Quyển thứ hai mươi ba

 

--- ooOoo ---

 

Nội nhiếp tụng:

 

    Ngưu hộ lạp sư tử,

    Phóng cung thiên thọ quy,

    Mãnh Quang hướng đắc xoa,

    Sát nhân thanh bát mộng.

 

Một hôm vừa ngủ dậy, vua Mãnh Quang suy nghĩ: "Sau khi ta qua đời, thái tử Ngưu Hộ có đủ trí lực để thừa kế vương vị không, ta nên trắc nghiệm trí mưu của nó".

 

Gọi Ngưu Hộ đến, vua bảo:

 

- Trong cung có một ít công việc, ta cần làm trong bảy ngày. Tạm thời, con có thể thay ta trông nom việc nước.

 

Vâng lệnh vua, thái tử giám sát đất nước, thưởng phạt thích đáng việc lợi hại. Có kẻ thông dâm bị quan giải đến. Gặp nhau, thái tử hỏi cả nam nữ:

 

- Có yêu mến nhau không?

 

Đáp:

 

- Yêu nhau.

 

Nghe xong, thái tử bảo các quan:

 

- Họ đã thương nhau sao ta không tùy thuận?

 

Thái tử bảo tả hữu:

 

- Từ nay về sau không cấm việc thông dâm.

 

Nghe như vậy, mọi người mặc tình gây lỗi. Đối với việc nước, thái tử kiểm soát rất nghiêm túc. Sau bảy ngày, vua ra khỏi cung, hỏi Tăng Dưỡng:

 

- Sau khi ta qua đời, thái tử Ngưu Hộ có thể kế vị không?

 

Đáp:

 

- Người ấy có thể kế vị, nhưng đối với việc thông dâm lại buông thả cho họ gây việc xấu.

 

Hỏi :

 

- Vì sao, Tăng Dưỡng kể lại đầy đủ sự việc.

 

Vua suy nghĩ: "Không có ý đố kỵ với phụ nữ của người, hưng đối với thê thiếp của mình, Ngưu Hộ lại không đố kỵ hay sao? Ta hãy thí nghiệm".

 

Bấy giờ, có người khách Kiền Đà La ở phương Bắc đang trú trong thành. Nghe người này có trí, vua bảo:

 

- Ngươi có thể làm việc phi pháp với đại-phi của Ngưu Hộ không?

 

Nghe như vậy, người ấy bịt tai nói:

 

- Nếu làm việc phi pháp này, thần hết đường sống.

 

Vua nói:

 

- Việc vua cần như vậy, đấy không có lỗi. Nếu không làm, chính là trái lệnh vua.

 

Đáp:

 

- Đại vương, tất nhiên phải tuân mệnh nhưng không thể gấp được, cần phải từ từ mới có thể làm.

 

Vua nói:

 

- Phải tuần tự làm gì, tùy theo ý ngươi.

 

Đáp:

 

- Đại vương, trước tiên ngài phải cấp cho thần chi phí xây dựng một cửa hàng lớn gần dinh thái tử để làm phương tiện tìm cách thân cận.

 

Theo lời, nhà vua cấp tiền vật liệu cho người này. Ông ta dựng một cửa hàng trưng bày nhiều quầy hàng mua bán đồ vật thơm.

 

Người hầu của mẹ vợ thái tử đến cửa hàng ấy mua hương liệu. Người Kiền Đà La hỏi:

 

- Cô bé, mua cho ai vậy?

 

Đáp:

 

- Mẹ vợ thái tử Ngưu Hộ sai tôi mua.

 

Hỏi:

 

- Bà ấy tên gì?

 

Đáp:

 

- Tên..họ ...

 

Bà ấy cùng họ với mẹ tôi nên tôi xem như mẹ. Nói xong, chủ hàng lấy ít tiền nhưng đưa nhiều hương liệu.

 

Khi người hầu về nhà, bà mẹ ấy hỏi:

 

- Vì sao trước đây cũng số tiền ấy được ít vật, nay cũng số ấy được rất nhiều vật?

 

Được người hầu kể lại đầy đủ sự việc, bà mẹ nói:

 

- Rất tốt. người ấy là con ta.

 

Đến ba lần như vậy, thấy nhiều đồ vật, bà ta rất vui mừng.

 

Sau đó, một hôm, chủ hàng bảo người hầu:

 

- Cô hãy thưa với mẹ, tôi muốn thăm viếng.

 

Được người hầu thưa, bà mẹ nói:

 

- Cho họ đến.

 

Người hầu sang báo, chủ hàng mang nhiều vật thơm đi sang nhà kia. Gặp nhau, ông ta ôm bà mẹ ấy khóc. Mẹ hỏi:

 

- Vì sao người khóc?

 

Đáp:

 

- Mẹ ơi, vì mẹ giống hệt mẹ con, lòng con xúc động nên khóc.

 

Mẹ nói:

 

- Ta là mẹ con, thôi đừng khóc nữa.

 

Người ấy làm cho hai bên thương mến đậm đà. Vợ Ngưu Hộ đang đứng bên cạnh, người mẹ gọi:

 

- Con đến đây, hãy ôm lấy chân, ân cần cung kính anh ấy.

 

Sau khi được người đàn bà làm theo lời mẹ, chủ hàng hỏi:

 

- Chị này tên gì?

 

Đáp:

 

- Tên ...

 

- Chị dâu của tôi ở nhà cũng đồng tên, hình dáng lại giống nhau, vậy là chị dâu của tôi. Chủ hàng nói.

 

Mẹ nói:

 

- Lành thay!

 

Từ đó về sau, họ càng thêm khắn khít.

 

Sau khi đến nhà, chủ hàng suy tính quỷ kế, giả bệnh nằm nghỉ. Khi thấy người hầu đến mua hương xoa, ông ta nói:

 

- Thiếu nữ, tôi bệnh rất nặng, sao mẹ không đến thăm nhau một chút?

 

Đáp:

 

- Bà ấy không biết ông bệnh, tôi sẽ về báo.

 

Sau khi được người hầu báo, người mẹ sang thăm hỏi:

 

- Này con yêu mến, con bị bệnh ra sao?

 

Đáp:

 

- Con bệnh rất nặng.

 

Mẹ nói:

 

- Nên hỏi y sĩ, tùy bệnh dùng thuốc.

 

Đáp:

 

- Mẹ ơi, thuốc không trị bệnh này được. Con mắc bệnh này, chắc chắn phải chết.

 

Mẹ đáp:

 

- Con chớ ưu sầu, phải làm cách gì để hết bệnh?

 

Đáp:

 

- Có thuốc trị bệnh nhưng không sao tìm được.

 

Mẹ nói:

 

- Chỉ cần có, ta sẽ lo liệu hết.

 

Đáp:

 

- Mẹï ơi, nếu được đại phi của Ngưu Hộ cho tư thông ân ái thì hết bệnh.

 

Nghe nói, mẹ rất giận, nói:

 

- Ngươi là kẻ bần hàn, muốn được vương phi làm sao toàn mạng?

 

Nói xong, bà ta giũ áo ra về.

 

Khi ấy, chủ hàng thi hành quỷ kế, làm khế ước ghi rằng sau khi chết đi nhà cửa tài sản đều giao cho mẹ vợ thái tử, rồi đưa giấy ấy cho bà mẹ. Sau khi xem giấy, cơn giận tiêu tan, bà mẹ suy nghĩ: "Ta nỗi giận, quay lưng bỏ đi. Đối với ta, nó lại sinh ân nặng, tình nghĩa không giảm, khó có hạng như vậy. Nhân việc này, ta hỏi con gái xem, đừng vì việc này mà đến nỗi anh ấy mất thân mạng".

 

Bà ta gọi con gái nói:

 

- Người chủ hàng từ lâu có ân tình, anh ta là em chồng con, đang bị bệnh sao con không đến thăm một chút?

 

- Mẹ ơi, chẳng lẽ không có y sĩ điều trị cho anh ta hay sao?

 

Đáp:

 

- Bệnh ấy khó trị, có khi phải chết. Mẹ nghe anh ta nói nếu được ân ái với chị dâu thì hết bệnh.

 

Cô gái tức giận nói:

 

- Hắn là kẻ bần hàn muốn cùng vương phi làm việc phi pháp, hôm nay sao không bị mất mạng được?

 

Mẹ nói:

 

- Sang hèn bất định, hiện tại sao con biết được! Chúa công vốn được ai sinh ra, biết không?

 

Đáp:

 

- Không biết.

 

Mẹ nói:

 

- Do bồ-cạp sinh, nay được làm vua có nhiều binh lính. Chồng của con do vợ trưởng giả sinh ra, cũng sẽ làm vua. Con nên ân ái với anh ta, nếu có con sẽ được làm vua nào có hại gì.

 

Do mẹ khuyên nên cô ta ưng thuận tư thông. Người mẹ báo tin cho Kiền Đà La:

 

- Thấy người tha thiết nên con ta đồng ý. Người hãy biết thời gian đến gặp gỡ nhau.

 

Biết tin, chủ hàng báo tin cho vua:

 

- Sự việc sắp thành, hãy khiến Ngưu Hộ tạm thời đi khỏi nhà.

 

Vua suy nghĩ:

 

- Sau khi ta qua đời, Ngưu Hộ làm vua, con của Ngưu Hộ sẽ kế nghiệp đế vương. Nếu Kiền Đà La cùng vương phi sinh con mà nó lên làm vua thì tuyệt mất giòng dõi của ta. Vậy nên cho họ uống thuốc để không sinh con.

 

Vua đưa thuốc cho Kiền Đà La bảo:

 

- Trước khi ngươi cùng cô ta làm việc phi pháp, hãy uống thuốc này.

 

Vua bảo Ngưu Hôä:

 

- Con hãy tạm vắng nhà trong thời gian ngắn.Ta có việc tính toán riêng.

 

Ngưu Hộ không về nhà. Sau khi uống thuốc, Kiền Đà La tư thông với người đàn bà rồi ngủ chung một chỗ.

 

Suy nghĩ việc này chắc đã hoàn tất, vua bảo Ngưu Hộ:

 

- Con hãy về nhà.

 

Về đến nhà, thấy Kiền Đà La cùng vợ mình buông thỏng tay nằm ngủ chung một chỗ, thái tử liền đỡ tay họ lên rồi lấy áo đắp cho cả hai.

 

Ngủ chung suốt đêm đến sáng, nghĩ rằng không ai thấy nên người kia về lại cửa hàng.

 

Hôm sau, vua nói với thái tư û:

 

- Đêm qua, ta mộng thấy vợ con tư thông cùng người ngoài.

 

Đáp:

 

- Đại vương thấy trong mộng, còn con chính mắt thấy.

 

Vua hỏi:

 

- Con thấy thế nào?

 

Thái tử kể lại đầy đủ. Vua hỏi:

 

- Con không có tâm ghen với cô ta hay sao?

 

Đáp:

 

- Con không ghen.

 

Hỏi:

 

- Vì sao như vậy ?

 

Đáp:

 

- Xin đại vương nghe cho, từ khi sinh ra đến nay, con biết túc mệnh. Nhớ lại đời trước, con là vợ chủ buôn. Chồng con mang hàng hóa đi buôn bán phương xa. Con bảo:

 

- Em muốn đi theo.

 

Chồng bảo:

 

- Ai sẽ hầu hạ phục vụ em, do khó nhọc như vậy không thể đi theo.

 

Thấy người vợ khóc lóc, người khác nói với chủ buôn:

 

- Vợ ngài đang khóc lóc muốn đi theo.

 

Sau khi nghe chủ buôn nói ra những khó khăn, họ bảo:

 

- Cứ cho đi theo, tôi sẽ cung cấp.

 

Chủ buôn cho vợ theo. Đến chỗ đường hiểm có năm trăm tên cướp đến cướp đoàn buôn và giết chết chủ buôn rồi cùng làm việc phi pháp với vợ chủ buôn. Khi bọn giặc phá đoàn buôn khác, được một thiếu nữ, bọn họ đều ưa thích. Thấy vậy, người đàn bà kia sinh tâm ghen tức nghĩ rằng cô này tại sao cùng tranh chồng với mình, nên sai người ném xuống giếng cho chết.

 

Đại vương, người phụ nữ xưa kia, ngày nay là con. Con nghĩ rằng ngày xưa làm việc dâm dục với năm trăm người còn chưa vừa ý, huống chi với một đàn ông thì ngày nào cho đủ! Nhớ lại việc ấy nên đối với phụ nữ không có tâm ghen tức. Do vậy nên biết rằng người ngu trong đời phần nhiều đem phụ nữ an trí trong cung để cùng nhau hộ vệ. Đúng lý thì đàn ông phải đề phòng đàn bà, tại sao để đàn bà đề phòng đàn ông?

 

Vua nói:

 

- Đúng như con nói, bỏ được tâm ghen tức là việc khó trong đời, tuy lý này đúng nhưng ta chưa làm được.

 

Bấy giờ, thành Ôn-Thệ-Ny có một thợ săn. Người vợ rất đẹp nên anh ta yêu thương vô cùng. Muốn đi săn bắn, anh ta suy nghĩ: "Ta đi vào rừng để vợ ở nhà, sợ cùng kẻ khác làm những việc phi pháp. Nếu ta không đi, không có nghề gì để nuôi sống, vậy nên đưa nhau đi vào rừng".

 

Họ cùng đi vào rừng, ở trong chòi lá, săn bắn giết loài cầm thú, bán để đổi lương thực.

 

Một hôm, nhân săn bắn, vua Mãnh Quang thúc ngựa lên. Ngựa vua kinh sợ vọt chạy đến chỗ thợ săn. Thợ săn nhớ biết nên lên tiếng chào đón.Vua xuống ngựa, nghỉ dưới bóng cây.

 

Sau khi tự nghĩ: "Lẽ nào ta lại đem thịt cũ cách đêm dâng lên đại vương quán đảnh, nên đem thịt mới để phục vụ vua, thợ săn mang cung tên đi vào rừng hoang".

 

Nhà vua liếc nhìn khắp nơi, thấy vợ thợ săn thân hình khả ái nên có ý ưa thích. Do dục tâm trói buộc nên họ cùng làm việc phi pháp.Khi ấy, thợ săn bắt được con thịt mới mang trở về, thấy vua cùng vợ làm việc trái đạo, nên sinh phẫn nộ suy nghĩ, vua này làm việc trái phép nên giết bỏ đi. Nhưng anh ta nghĩ lại: "Lẽ nào vì phụ nữ nhỏ mọn mà hại đại vương".

 

Thình lình, có sư tử đi đến giết chết thợ săn. Khi anh ta lâm chung, có tâm từ mẫn với vua nên thác sinh vào trời Tứ đại thiên vương.

 

Thấy người chồng chết, vua suy nghĩ: "Thiếu nữ này tư thông với ta không nên ruồng bỏ".

 

Vua liền an ủi và để cô ta một bên.

 

Đại thần của vua tìm kiếm khắp nơi, cùng đến chỗ vua thưa hỏi:

 

- Cô này của ai?

 

Đáp:

 

- Trong lãnh vực của ta, làm sao khỏi cho hết, nên đem về an trí nơi hậu cung.

 

Vua giải tán cuộc săn, trở về thành. Trong nội cung vua có nhiều cung nhân, vua suy nghĩ: "Người thợ săn này đem một thiếu phụ, ở riêng trong rừng vắng còn không thể giữ được, huống chi ta làm sao giữ được nhiều cung nữ".

 

Nhà vua liền rung chuông, thổi ốc, đánh trống báo khắp thành phố làng xóm:

 

- Mọi người nên biết, nhân dân địa phương hoặc từ xa đến hãy lắng nghe nói, ta cho tất cả những người trong cung được tự do, tùy theo sở thích của mình mặc ý tung hoành tư thông với người ngoài, ta không cho đó là lỗi.

 

Vua lại báo với người trong cung:

 

- Ta cho các ngươi tự do, ban đêm được ra ngoài cung, tùy ý đi hoan lạc, khi nghe tiếng trống thì phải trở về. Ai trái lệnh sẽ bị giết chết.

 

Đã là đàn bà đều thích đàn ông, huống chi họ bị giam hãm trong thâm cung. Bấy giờ, ban đêm các cung nữ đều ra ngoài tìm kiếm đàn ông tùy theo sở thích đi lại tại chỗ. Chỉ có phu nhân An-lạc, mẹ Ngưu Hộ và Tinh Quang vì giữ tình với vua nên không ra ngoài.

 

Vua bảo An Lạc:

 

- Nàng có thể ra ngoài tìm đàn ông khác.

 

Đáp:

 

- Thiếp thật không thể bỏ vua để ra ngoài tìm người khác.

 

Vua lại bảo Tinh-Quang:

 

- Sao nàng không đi tìm đàn ông bên ngoài?

 

Tinh Quang tuổi trẻ xinh đẹp khó nhịn được tình sắc, thường có ý luyến ái đàn ông khác; tuy sống trong cung nhưng ý mong ra ngoài, nghe vua nói nên im lặng nhận lời. Ban đêm, cô ta vào chợ tìm đến đồng tử bán hương đẹp trai, bảo:

 

- Anh hãy cùng tôi làm việc yêu đương.

 

Đáp:

 

- Tạm thời cầm đèn, chờ tôi tính toán số liệu chi dụng rồi mới tùy ý.

 

Anh chàng này thu thập quá nhiều, khó tính toán cho hết nên tính toán suốt đêm mãi đến khi trời sáng. Nghe tiếng trống, không thể nán lại được, Tinh-Quang vứt đèn xuống đất, muốn bước ra cửa. Anh chàng nói:

 

- Tạm ở lại một lúc, cùng nhau ân ái.

 

- Không thể ở lại được, vua có lệnh khi tiếng trống nổi lên, ai không vào cung sẽ bị chém đầu, tôi không có hai đầu, nào được ở lại lâu.

 

Nói xong, cô ta bỏ ra đi. Gặp nhau, vua hỏi:

 

- Tinh Quang, nàng cùng người ngoài vui vẻ không?

 

Đáp:

 

- Không rảnh một chút.

 

- Vì sao?

 

Cô ta kể lại đầy đủ cho vua nghe. Vua im lặng rồi lại truyền lệnh thông báo như trước, ban đêm thả hết cung nhân tự do ra ngoài tùy ý tư thông. Tiếng đồn việc này vang tận đến xứ khác.

 

Vua Xuất Quang nước Kiêu-Thiểm-Tỳ nghe vua Mãnh Quang có giáo lệnh ban đêm thả tất cả cung nhân ra ngoài đi làm việc riêng, nên hỏi đại thần Du-Kiện-Na:

 

- Ta nghe vua Mãnh Quang thả các cung nhân tùy ý đi làm theo sở thích. Ta muốn đến đó cùng họ hưởng lạc một lúc.

 

Đáp:

 

- Vua Mãnh Quang cùng đại vương thường có việc không vừa ý. Nếu kẻ oán nghe vua tự đến, chắc chắn làm việc không hay.

 

- Trượng phu hành sự, dù tốt xấu cũng phải cương quyết, ngươi hãy ở nhà, ta đi đến đó.

 

Đáp:

 

- Đại vương quyết ý, ai dám giữ lại, mong ngài lên đường phải nên cẩn thận.

 

Vua Xuất Quang rất hiếu nữ sắc, không nghe đại thần ngăn, đi đến thành Ôn-Thệ-Ny, ban đêm gặpï gỡ Tinh Quang, sau khi biết rõ, lại thấy dung nhan xinh đẹp vô song trên đời, bảo:

 

- Này cô gái đẹp Tinh Quang giòng Sát-đế-lị hãy đến đây cùng ta hoan lạc.

 

Đáp:

 

- Tùy ý, hãy trải thảm ra.

 

Vua bảo:

 

- Nàng hãy trải ra.

 

Cả hai người đều kiêu ngạo giằng co không ai chịu trải thảm ra, cho đến khi trời sáng. Tiếng trống vang lên, cô gái muốn đi, vua nói:

 

- Hãy ở lại cùng ta hoan lạc.

 

Đáp:

 

- Vua có lệnh, tiếng trống vang lên, ai không vào cung sẽ bị giết chết, tôi không còn rảnh để ở lại lâu nữa.

 

Tinh Quang liền rút nhẫn vàng trên tay vua, mang về cung. Vua Xuất-Quang cũng trở về xứ mình.

 

Vua Mãnh Quang hỏi:

 

- Nàng được hưởng lạc với đàn ông nào không?

 

Đáp:

 

- Không được.

 

Nghe vua hỏi lý do, cô ta kể lại đầy đủ sự việc và đưa nhẫn đeo tay ra:

 

- Đây là vật của ông ấy, thiếp lột ra đem về đây.

 

Sau khi xem dấu trên nhẫn, vua bảo Tăng Dưỡng:

 

- Vua Xuất Quang đem cả đại binh vào trong thành không ai biết cả, cùng cung nhân của ta ngầm đòi sự hoan lạc, làm sao cho hắn thoát đi vậy?

 

Đáp:

 

- Đại vương, đấy là lén đến, thần không tính trước, nếu hắn trở lại, chắc chắn không cho thoát.

 

Sau khi trở về, vua Xuất-Quang nghe biết, vẫn bảo với đại thần Du-Kiện-Na như trước. Đ?i thần can gián:

 

- Trước đây, vua đi lén, họ không biết, nên mới để cho an ổn trở về nước. Nay vua ấy phòng bị nghiêm mật. Nếu ngài đi nữa chắc không bình an, không đi là hơn.

 

Tuy hết sức ngăn cản nhưng vua không nghe vẫn lên đường, vị đại thần phải đi theo. Đ?n thành Ôn-thệ-ny, họ trú trong một ngôi nhà.

 

Biết tin, Tăng Dưỡng sai nhiều tráng sĩ tuốc kiếm phòng thủ chung quanh ngôi nhà và bảo:

 

- Trong nhà này, nếu phụ nữ thì cho đi ra, đàn ông thì giữ lại.

 

Biết lâm vào tình thế như vậy, Du-Kiện-Na suy nghĩ:

 

- Thấy vua gặp nạn, ta không nên âm thầm bỏ đi, phải làm cách gì để ngài chạy thoát!

 

Ông ta liền bảo vua mặc y phục nô tỳ đội bình nước, sai người đứng ở sau cầm gậy xua đi nói rằng ngươi mau đi lấy nước đem về vua đang chờ tắm rửa.

 

Bấy giờ, những người canh giữ cho là nô tỳ nên không ngăn lại. Khi đến bờ ao, vua vứt bình, chạy trốn.

 

Tăng Dưỡng vào nhà, tìm không thấy vua, chỉ thấy Du-Kiện-Na liền dẫn đến gặp vua mình báo rằng vì người này làm cho vua Xuất Quang chạy thoát.

 

Trước vua, Du Kiện Na thưa:

 

- Tôi nhờ nhà vua nên nuôi sống được thân mạng, nay làm cho chạy thoát thật đúng đạo nghĩa. Những vị quan này hưởng bổng lộc của ngài mà để cho vua tôi chạy thoát, đúng đạo lý không?

 

Vua rất trách cứ Tăng Dưỡng:

 

- Vì sao vua ác của nước địch đến đây làm việc gian tà, các khanh công nhiên cho hắn chạy thoát? Có cách nào khác bắt được hắn thì tốt, nếu không bắt được, phải chịu cực hình.

 

Nghe phán như vậy, Tăng Dưỡng kinh hoàng suy nghĩ tìm phương cách.

 

Có người thợ giỏi máy móc ở phương Nam vừa mới đến đây. Tăng Dưỡng hỏi:

 

- Ngươi có trí lực, làm được máy móc như vậy như vậy không?

 

Đáp:

 

- Tôi có học làm mong được thành công.

 

Khi ấy, Tăng Dưỡng đem dấu voi lớn Vi-sơn của vua, rao khắp cả thành biết voi lớn Vi-sơn đã chạy mất, không biết đang ở đâu. Sau khi gần xa đều nghe, Tăng Dưỡng bảo với thợ:

 

- Nên theo như hình cũ làm tượng voi Vi-sơn.

 

Tuân lệnh, thợ làm voi máy. Trong voi máy này chứa năm mươi người và nhiều phân voi với nước. Tăng Dưỡng ra lệnh:

 

- Các ngươi điều khiển máy móc làm cho voi này đi đến gần nước Kiều Thiểm Tỳ và đứng lại đó. Nếu vua cùng bốn loại binh đến xem thì voi chạy trở lại, bằng một mình vua thì bắt lấy nhốt vào trong voi và chạy mau về nước.

 

Nghe lệnh, người thợ làm theo lời rồi cho voi đến đứng chỗ không xa Kiều Thiểm Tỳ.

 

Khi ấy, những người chăn bò, dê, người tạp dịch thấy voi kỳ lạ nên cùng nhau xem xét. Có người nói voi này từ núi rừng đến. Có người nói đây là voi lớn bị mất của vua Mãnh Quang chạy lạc xa đến đây. Có người đến tâu với vua lý do là đã nghe vua Mãnh Quang có voi lớn Vi-sơn siêu tuyệt trên đời, do phúc lực của vua nên nó tự đến đây, gần xa đô hội có ngàn ức người đến xem.

 

Nghe như vậy, vua rất vui mừng, bảo Du Kiện Na đánh trống lên báo khắp đô thành, thống lĩnh bốn loại binh cầm nhiều lưới dây, cùng mọi người đi ra khỏi thành xem bắt voi lớn.

 

Theo lệnh vua, các quan thứ tự thi hành, mọi người cùng nhau kéo ra như mây tụ tập ngoài đồng.

 

Thấy binh vua đến, những người bên trong cho voi chạy xa.

 

Đại thần tâu lên:

 

- Đối với việc bắt voi, trước đây vua rất thiện nghệ, làm sao dẫn dụ để đến gần nó?

 

Vua bảo:

 

- Bốn loại binh hãy lui lại để một mình ta đến xem.

 

Binh lính lui lại, một mình vua tiến tới cùng với cây đàn Tỳ Bà âm thanh vi diệu. Những người trong bụng voi thấy vua đến một mình, liền cho voi đứng lại. Vừa đến bên voi, những người kia liền đi ra bắt vua đem vào trong bụng rồi điều khiển máy móc cho chạy nhanh như gió trở về nước mình.

 

Khi vua Xuất Quang bị bắt, cả đại binh đều kêu lớn lên vua bị giặc bắt, vua bị giặc bắt, rồi gia tăng binh lính rượt theo đến biên giới. Đại thần bảo:

 

- Đã đến đất họ, không được vào nữa mà nên trở về, vua đã bị bắt đi hãy suy nghĩ cách khác.

 

Vua Xuất Quang bị họ bắt được đưa về thành Ôn Thệ Ny. Đại thần Tăng Dưỡng dẫn vua Xuất Quang đến gặp vua Mãnh Quang, tâu:

 

- Đại vương, đây là vua Xuất Quang.

 

Trông thấy, vua rất mừng, sai gióng chuông đánh trống. Mọi người vội vân tập đến có cả đến trăm ngàn ức chật kín các nẻo đường.Vua ra lệnh Tăng Dưỡng:

 

- Hãy y vào phép nước trừ khử Xuất Quang.

 

Quan tâu:

 

- Vua Xuất Quang giỏi biết phương pháp huấn luyện voi đến chỗ tuyệt diệu, nếu vua giết đi thì mất cả phương pháp này, hãy sai người đến học với hắn, hiểu diệu thuật ấy rồi, giết cũng không khó.

 

Vua bảo:

 

- Nếu vậy, khanh hãy học đi.

 

Đáp:

 

- Như thế, ông ấy trở thành thầy dạy học, làm sao giết được. Làm như vậy, thật trái với đời.

 

Vua hỏi:

 

- Ai có thể học được?

 

Đáp:

 

- Vương nữ Thiên Thọ bản tính siêng năng, hiểu biết thông minh, ai cũng biết; khiến vương nữ học, tất đạt đến tận chỗ kỳ diệu.

 

Theo kế ấy, vua bảo vương nữ:

 

- Có một đàn ông đủ mười tám tướng xấu, hắn hiểu biết giỏi về sách huấn luyện voi, dùng màn ngăn lại, con có thể đến học. Sau này, cha sẽ học tập lại với con. Nhưng con không nên nhìn mặt kẻ xấu ấy. Nếu ai trông thấy chắc chắn phải chết.

 

Vương nữ học binh thư sau bức màn.

 

Tại Kiêu-Thiểm-Tỳ, Du-Kiện-Na suy nghĩ: "Ta phải tìm tin tức của vua, nếu còn sống thì tìm cách cứu ra, bằng như không còn thì kiếm người khác kế vị".

 

Du-Kiện-Na bảo em gái tên là Kim Man khôn lanh nhiều ý, trí tuệ hơn anh gấp bội:

 

- Này em, hãy đi đến thành Ôn Thệ Ny thăm hỏi tin tức của vua. Như ngài còn sống nên tìm cách cưú ra, nếu đã qua đời thì đưa người khác kế vị.

 

Nghe xong, Kim Man lặng lẽ suy tính việc ấy, thay đổi y phục giả làm nữ ngoại đạo đi xin ăn, tự mặc quần áo dơ bẩn, đi dần đến thành Ôn Thệ Ny. Đến nơi, cô ta hỏi người thủ môn:

 

- Vua Xuất Quang còn sống không?

 

Hỏi:

 

- Vua ấy cùng cô có thù oán gì?

 

Đáp:

 

- Giết cả chồng và con, thu đoạt tài sản.

 

- Vua ấy chưa chết, đang dạy binh thư điều voi cho vương nữ.

 

Lần lượt đến hỏi ở bốn cửa thành vua, họ đều đáp như vậy. Kim Man tìm mọi cách cầu cạnh người khác, ẩn bóng dấu hình gặp gỡ vua Xuất Quang. Sau khi nhìn kỹ khắp bốn phía, cô ta hạ thấp giọng, hỏi:

 

- Đại vương, ngài còn sống không?

 

Vua cũng kinh hoàng nhìn khắp bốn bên, đáp:

 

- Này em, ta vẫn còn sống.

 

Cô ta tìm cách thân cận Thiên thọ, hỏi:

 

- Thiếu nữ, con học phép huấn luyện voi với ai vậy?

 

Đáp:

 

- Mẹ ạ, có một đàn ông đủ 18 tướng xấu, con học với ông ta sau bức màn.

 

- Làm gì có đàn ông đủ 18 tướng xấu, đấy chính là đại vương Xuất Quang tướng uy nghi xinh đẹp, đầy đủ tướng tốt hiếm có trong đời, ai lại dối con nói ra lời ác vậy; nếu không tin hãy giở màn lên xem. Cô ta nói.

 

Nghe nói, tâm vương nữ tràn ngập vui mừng liền vén màn xem dung mạo nhà vua, sinh ý yêu mến như cuồng phong thổi đến. Nàng nói:

 

- Mẹ ơi, đúng như lời nói, có cách gì làm cho nhà vua tư thông với con không?

 

- Nay ta bảo con, tuy là sự mong cầu viễn vong khó gặp được trường hợp này, nhưng chính con yêu mến thì thật đúng lúc. Đây chính là vua quán đảnh Sát Đế Lợi chính vị, ta sẽ tìm cách làm vừa lòng con.

 

Sau khi được biết, hai bên đều hợp ý vui mừng, Thiên Thọ cùng vua rất yêu mến nhau.

 

Bấy giờ, Kim Man báo tin cho anh:

 

- Xin anh an tâm chớ nên lo xa. Vương nữ Thiên Thọ đang học pháp huấn luyện voi với vua Xuất Quang.

 

Được tin, người anh mang năm loại anh-lạc bên trong, ngoài mặc áo cỏ xưng hiệu là Xuân-hoa, giả dạng điên cuồng đi đến thành Ôn-Thệ-Ny, nằm ngồi ở nơi đường phố khang trang, nói ra những cuồng ngôn bằng lời ca:

 

    Mùa xuân nên du hý,

    Mùa xuân nên hành lạc,

    Ta chính là Xuân Hoa,

    Cùng đi chơi thưởng ngoạn.

 

Nếu có người nhận ra, bảo đó là Du Kiện Na. Ông ta liền ngầm đem vàng ngọc cho họ ngay. Ai không biết, nói là kẻ điên thì không thèm hé răng nói lại. Đến những nơi như nhà vương gia, đại thần, được y phục thức ăn đều cho kẻ đói, dần dần lén lút đến chỗ vua Xuất Quang bàn luận mưu kế.

 

Một hôm, vương nữ Thiên thọ bảo Xuất Quang:

 

- Cha em biết được chắc chắn giết chết, phải tính cách chạy trốn là thượng sách.

 

Xuất Quang đáp:

 

- Nếu như vậy, nàng nên thưa với vua cha rằng con học điều khiển voi chỉ trên sách vở, chưa tận mắt thấy việc điều khiển chạy lui tới bao giờ, xin vua cho con voi mẹ Hiền Thiện, tùy ý cỡi đi để xem nó tới lui đúng với kinh văn không?

 

Nghe vương nữ tâu việc này lên, vua bảo quản tượng:

 

- Hãy giao voi mẹ Hiền Thiện cho Thiên Thọ tùy ý xử dụng.

 

Vương nữ cỡi voi hoặc sáng đi trưa về, xế đi chiều tối về, đầu đêm cuối đêm đi về bất thường, hoặc tối đi sáng sớm về.

 

Khi ấy, Du Kiện Na bày kế chạy trốn nên vác phân voi đi ra cửa thành. Thủ môn hỏi:

 

- Xuân Hoa dùng phân làm gì?

 

Đáp:

 

- Nhà vua bày tiệc đầy vườn Hoan Hỷ.

 

Cho là lời điên, không ai để ý đến.

 

Ông ta dùng phân trộn vào cỏ treo vào nhánh cây hai bên đường nước Kiêu Thiểm Tỳ. Khi vác bình đựng đầy nước tiểu voi đi ra, bị thủ môn thấy hỏi, ông đáp:

 

- Nhà vua tổ chức tiệc dùng làm nước uống.

 

Mọi người đều cười, cuối cùng không khám xét. Ông trở lại con đường định chạy trốn treo bình vào nhánh cây.

 

Bấy giờ, vua Xuất Quang cùng đại thần, Kim Man, Thiê Thọ hẹn nhau thời gian và nơi chốn. Đúng lúc, vua Xuất Quang và Thiên Thọ cỡi voi mẹ đến chỗ hẹn cùng đại thần, Kim Man với đàn Tỳ Bà diệu âm cùng nhau hoan hỷ lên đường. Vua đánh đàn, đại thần xướng ca:

 

    Cùng cỡi voi Hiền Thiện,

    Tiếng đàn hay hòa theo,

    Thiên Thọ cùng Xuân Hoa,

    Vẫy tay, đồng trở về.

 

    Vua chính là thương chủ,

    Được về Kiều Thiểm Tỳ,

    Nguyện của tôi hoàn tất,

    Ca hát thật vui vẻ.

 

Sau khi ra đi, đã trễ giờ rồi mà thấy họ không vào cung, vua Mãnh Quang bảo Tăng Dưỡng:

 

- Vì sao đã lâu Thiên Thọ không vào cung?

 

Sau khi tìm kiếm, Tăng Dưỡng mới biết họ đã chạy trốn, nên tâu:

 

- Vua Xuất Quang cỡi voi Hiền Thiện mang theo Thiên Thọ chạy trốn khỏi thành.

 

Nghe tâu, vua phẫn nộ, bảo:

 

- Ngươi hãy cỡi voi lớn Vi-sơn rượt theo kẻ ác, dẫn về gặp ta.

 

Tăng Dưỡng liền cỡi voi lớn lên đường. Thấy voi lớn chạy nhanh sắp đuổi đến kịp, Du-Kiện-Na liền lấy phân voi treo ở nhánh cây đem vứt ra đất rồi chạy. Gặp phải hôi thúi, voi lớn không chạy tới nữa. Trong lúc voi lui lại, voi mẹ chạy xa.Trải qua nhiều Du Thiện Na (dặm), voi lại đuổi kịp. Du Kiện Na ném bình nước tiểu voi xuống đất, làm cho voi lớn bị hôi thúi nên họ lại chạy trước. Đến biên giới mình, họ mới hết sợ hãi.

 

- Đây là biên giới họ, ta nên trở về. Nếu không, có thể voi lớn này cũng bị bắt đi.Tăng Dưỡng suy nghĩ như vậy và không toại ý nên thất vọng trở về nước.

 

Về đến thành, vua hỏi:

 

- Có tin tức gì không?

 

Đáp:- Đã về nước họ, không thể truy nã được.

 

Nghe tâu, vua ưu sầu, chống tay lên má.

 

Sau khi về nước, vua Mãnh Quang như chết sống lại nên mời thỉnh Sa-môn, Bà-la-môn, thương nhân sang trọng, thân tộc, người quen, kẻ nghèo nàn ... gần xa lũ lượt đều đến chỗ vua. Nhà vua tổ chức đại hội lập đàn bố thí cùng phu nhân Thiên Thọ hoan lạc tùy ý.

 

Một hôm, cùng Thiên Thọ trên lầu, vua nói đùa:

 

- Ta dùng thuật bịa đặt, đưa được nàng về đây.

 

Phu nhân nói:

 

- Cha thiếp cũng dùng thuật dối gạt nên cầm giữ được vua chỉ còn mạng sống.

 

Vua nói:

 

- Nếu không đưa được cha nàng về thành Kiêu-Thiểm-Tỳ làm thợ dệt, ta không xứng được gọi là vua Xuất-Quang.

 

Phu nhân phẫn nộ im lặng.

 

Vua Xuất-quang bảo Du Kiện Na:

 

- Khanh có thể làm cho ta hết ưu buồn không?

 

Đáp:

 

- Ngài muốn làm gì?

 

- Dùng dây dài cột cổ vua Mãnh Quang kéo về đây, bắt học thợ dệt.

 

Đáp:

 

- Đem được voi Hiền-Thiện cùng Thiên Thọ về đây an ổn, hóa ra như lời vua nói, chẳng phải làm hết ưu buồn.Thần sẽ suy nghĩ chẳng biết được không?

 

Sau khi tính kế, ông ta cho vua biết đi được, bèn thu thập hàng hóa cần dùng trong thành Ôn-Thệ-Ny, tìm thương chủ giỏi và mỹ nhân; cho mỹ nhân trang sức đầy đủ anh-lạc làm vợ thương chủ. Sau khi làm như vậy xong, đoàn buôn lên đường ... đi đến thành Ôn-Thệ-Ny.

 

Nghe có đoàn buôn lớn đến thành mình, vua Mãnh Quang đích thân đến xem xét việc thu thuế của họ. Vào trong trại, vua hỏi:

 

- Thương chủ đang ở đâu?

 

Được người hướng dẫn chỉ chỗ, vua đến nơi, mở cửa bước vào, đến nhà giữa gặp vợ thương chủ với dung nhan đặc biệt chưa thấy bao giờ, xinh đẹp tuyệt thế, trong thành này không ai sánh bằng.

 

Sinh tâm đắm nhiễm, vua hỏi:

 

- Hiền thủ, hãy cùng ta hoan lạc.

 

Cô gái đáp:

 

- Đây là giường nệm, cần thì tùy ý.

 

Đã bị ái dục trói buộc, chẳng việc gì không làm, vua liền nằm lên cùng cô ta giao hoan. Trong lúc ý chí vua mờ mịt không biết trước sau, thương chủ dùng vải phủ kín, sai bốn người khiêng cả giường đi. Mọi người xướng lên hãy ra khỏi thành Ôn-Thệ-Ny bằng cửa sau, nhân đó kéo nhau đi. Những người tùy tùng hoặc rung chuông ca lên:

 

Trên đời, muỗi ăn được mặt trăng,

 

Vua Tỳ-sa-môn bị đòi nợ,

 

Mặt đất, cây cối bay lên trời,

 

Dâm nữ bắt Mãnh-Quang đem đi.

 

Khi thấy sự vui vẻ này, các thương nhân trong thành đều nói rằng đoàn buôn sắp ra đi nên đều đi theo.

 

Trong thành, mọi người không biết vua đi đâu. Tăng Dưỡng kinh hãi tìm vua khắp nơi.

 

Bấy giờ đoàn buôn đưa vua Mãnh Quang về nước Kiêu Thiểm Tỳ. Các quan mừng rỡ nói:

 

- Đại vương, quốc vị hưng thịnh, các nguyện đều toại ý.

 

Khi vua Mãnh Quang bị dẫn tới nơi, vua Xuất Quang nói:

 

- Hãy gông cùm hắn lại, cho học nghề dệt nhưng không cho người báo cho Thiên Thọ biết.

 

Một hôm, vua cùng Thiên Thọ lên lầu cao ngắm cảnh.

 

Bấy giờ, nhân có chút việc, vua Mãnh Quang ra khỏi nhà thợ dệt. Trên lầu cao trông thấy, vua Xuất Quang hỏi Thiên Thọ:

 

- Nàng biết người kia không?

 

Vua vốn trán rộng, vương nữ nhìn kỹ, liền nhớ lại ngay, rơi nước mắt ướt áo, suy nghĩ:

 

- Hiện nay ác vương giam cầm cha ta đến chỗ khổ sở này. Nếu không giết tên vua ác này, ta không xứng gọi là Thiên Thọ nữa. Tuy ta ra tay giết nhưng làm cho hắn không biết.

 

Bản tính thông minh, vua biết vương nữ oán hận nên bảo đại thần:

 

- Đối với Mãnh Quang, ta đã báo oán xong. Khanh hãy cho tắm rửa thân thể hắn, cho ăn thơm ngon, trang sức cho đàng hoàng rồi thả về nước.

 

Họ tuân lệnh vua, thứ tự làm hoàn tất, phóng thích vua kia về nước.

 

Thiên Thọ suy nghĩ:

 

- Nếu ta tìm cách giết ngay, hắn có ác trí tất phải sinh nghi, hãy kéo dài thời gian chờ đến ngày khác, gượng cười nói để xua tan ý tưởng buồn rầu.

 

Một hôm, Thiên-Thọ mặc y phục dơ bẩn, nằm trên giường hư. Thấy vậy, Xuất Quang hỏi:

 

- Vì sao?

 

Đáp:

 

- Thiên thần giận thiếp.

 

Hỏi :

 

- Thiếu thốn gì mà phu nhân có nguyện lại không tạ lễ?

 

Đáp:

 

- Điều thiếp hứa trước đây, không thể cầu được.

 

Hỏi :

 

- Nàng hứa điều gì mà sinh ưu sầu, ý cần gì, ta sẽ chu toàn.

 

Đáp:

 

- Ngày trước khi cha thiếp giam giữ ngài, thiếp có phát tâm cầu khẩn với thiên thần:

 

- Nếu con cùng vua an ổn trở về Kiêu-Thiểm-Tỳ, con sẽ cùng vua nhịn ăn uống trong bảy ngày đêm, mãn bảy ngày dùng vòng hoa đẹp quấn từ ngón chân lên đầu, kiệu lên đầu thành, thiếp sẽ tổ chức đại hội bố thí cho vua, mời đủ số 1000 Bà-la-môn để cúng dường long trọng. Hiện nay, đại vương có nhiều cung phi, lẽ nào lại còn ưu ái với thiếp nữa, suy tính như vậy nên chắc chết không sai.

 

Vua nói:

 

- Như vậy tức là nàng vì ta mà cầu trời, không nên buồn nữa, ta sẽ làm tất cả.

 

Từ đó về sau, Thiên Thọ tạo điều kiện giết vua, cột hai con chó dưới thành, hằng ngày cho ăn thịt ngon, nuôi cho to lớn đến nổi ăn cả lượng thịt nhiều bằng thân người. Khi ấy, Nàng cùng vua thành tâm nhịn ăn uống bảy ngày nhưng ban đêm nàng lại lén ăn uống no nê.

 

Vua quyết tâm nhịn ăn bảy ngày nên thân thể suy nhược không thể đi đứng được.

 

Đủ bảy ngày, Thiên Thọ bảo người làm vòng hoa hãy dùng dây thô làm nhiều vòng hoa thơm rồi mau đem lại, ra lệnh cho Du-Kiện-Na:

 

- Hôm nay đại vương đã mãn giới kỳ, khanh hãy trang trí hoàng thành để tổ chức đại hội bố thí, cúng cho hơn 1000 vị bà-la-môn. Các vị đại thần đều làm việc cho nhanh, không nên cho họ biết đến việc kín trong cung.

 

Du-Kiện-Na tuân lệnh thi hành, quét dọn đường sá, rưới nước thơm, đốt hương che lọng và rãi các loại hoa khắp nơi, rất thích thú như vườn Hoan Hỷ, khắp nơi đều đánh trống tấu nhạc, âm thanh vang dậy, vũ công quay cuồng.

 

Trong lúc huyên náo này, Thiên Thọ đưa vua lên thành, cho nằm trên đất, dùng dây hoa quấn từ chân lên đầu không còn chỗ hở rồi đẩy rơi xuống chân thành. Hai con chó tranh nhau ăn hết máu thịt vua chỉ còn xương. Bấy giờ các loại cầm thú ăn thịt như diều-hâu, điêu, kên kên, chó sói đến, nhai mổ xương tàn.

 

Thấy vậy, nhân dân trong thành kinh hoàng chấn động, truyền nhau rằng đại vương tự đứng trên thành xem đại hội, rơi xuống góc thành nhân đó qua đời, bị chó ăn thịt.

 

Nghe xong, mọi người đều lớn tiếng kêu gào, bứt tóc đấm ngực vang dậy cả thành.

 

Các Bí-sô đều bỏ đi tứ tản, hoặc đến nơi khác hoặc về vườn Cấp Cô Độc.

 

Các vị đại thần tập họp lại cùng nhau thương nghị: "Vì sao đại vương tự lên trên thành. Ở đâu dưới thành lại có chó đến ăn thịt vua?"

 

Sau khi kiểm tra, họ phát hiện vòng hoa, mới biết chính là Thiên Thọ đã dự trù ác kế giết hại nhà vua. Quá tức giận, họ làm nhà bằng đồng đỏ nhốt Thiên Thọ vào trong, dùng lửa thiêu đốt, phải đau khổ đến chết. Thế nên biết rằng oán thù tương báo ngày nào mới chấm dứt.

 

Các Bí-sô đều có nghi ngờ, thưa hỏi Thế Tôn:

 

- Đại đức, trước đây vua Xuất Quang gây nghiệp gì, do nghiệp lực ấy đời này bị chó ăn thịt?

 

Phật dạy:

 

- Này các Bí-sô, vua Xuất Quang trước đây đã gây nghiệp, nay nhân duyên gặp nhau nên quả báo hiện ra. Như dòng nước chảy mạnh không thể ngăn được, nghiệp vua ấy làm không ai thay thế được. Này các Bí-sô, nghiệp đã làm chẳng phải kết quả ở ngoài bốn đại mà ngay trong uẩn, giới, xứ của mình chịu lấy quả báo khổ vui. Như có bài kệ:

 

    Giả sử qua trăm kiếp,

    Nghiệp đã làm không mất,

    Khi đầy đủ nhân duyên,

    Tự chịu lấy quả báo.

 

- Này các Bí-sô, thời quá khứ trong một đô thành kia, có một đại thần Bà-la-môn sống ở đó. Thời ấy không có Phật, chỉ có bậc Đ?c-giác xuất hiện trong thế gian, thương mến người bần cùng, thích sống nơi yên tịnh. Trong thế gian, chỉ có một phước điền này. Vị Độc Giác ấy du hành nhân gian, đến thành này và an nghỉ qua đêm trong khu rừng yên tịnh.Vào sáng sớm, Ngài mặc y bưng bát vào thành khất thực.

 

Bấy giờ, vị đại thần kia dẫn bầy chó ra khỏi thành đi săn, thấy vị Đ?c-giác này hoàn toàn không lỗi có tướng đại nhân, liền thả chó đến ăn thịt ngài.

 

- Này các Bí-sô, các ông nghĩ sao, đừng nghĩ gì khác, đại thần ấy nào phải người nào lạ, nay chính là vua Xuất Quang. Đối với bậc Thánh nhân không tội lỗi, ông ta thả chó cho ăn thịt, vì nghiệp lực này nên trong năm trăm đời thường bị chó ăn thịt mà chết. Các Bí-sô nên biết nếu gây nghiệp thuần đen bị quả báo thuần đen, làm nghiệp thuần trắng thì hưởng quả thuần trắng, gây nghiệp tạp thì chịu quả báo tạp. Vì nhân duyên này, nên xả bỏ hai nghiệp đen và tạp, nên tu tập nghiệp trắng. Các Bí-sô nên học như vậy.

 

Sau khi vua Xuất Quang nước Kiêu-Thiểm-Tỳ qua đời, vua Mãnh Quang nước Ôn-Thệ-Ny không có oán thù nên sống an lạc. Một hôm, ở trên điện cao, cùng các đại thần nói chuyện phi pháp, vua hỏi mọi người:

 

- Trong thành phố làng xóm nào có dâm nữ đẹp?

 

Có người nói:

 

- Đại vương! Trong thành Đắc Xoa Thi La thuộc vua Viên-Thắng có một kỹ nữ nhan sắc trẻ đẹp giỏi 64 điệu, trong khắp nhân gian mặt đất này chưa có người đàn ông nào vừa trông thấy cô ta mà không say đắm.

 

Vừa nghe đến dung nhan trí tuệ ấy, vua liền ưa thích, bảo Tăng Dưỡng:

 

- Giả như tìm nơi xa xôi được cô gái như vậy thật là khó, ta nên đi đến cùng cô ta hưởng lạc.

 

Đáp:

 

- Đại vương, từ lâu, vua Viên Thắng cùng ngài có oán thù. Ông ta thường trú ở thành Đắc Xoa Thi La.Vua đến đó một mình, ông ta biết được chắc là không tốt,

 

Vua nói:

 

- Ta đã quyết ý không thể thay đổi, khanh ở lại đây, ta sẽ lên đường.

 

Đáp:

 

- Lệnh trên khó chống lại, xin ngài tùy ý ra đi nhưng phải cẩn thận.

 

Vua cỡi voi lớn Vi Sơn đi đến thành kia, an trí voi ở núi Thạch Chữ trên đường đi, một mình đi vào thành. Đến nơi, vua lấy vòng ngọc rất đẹp giá trị ngàn vạn trong cổ ra đưa cho dâm nữ để cùng nhau giao hoan.

 

Bấy giờ, các vị đại thần, nhân dân, Bà la môn đều ngạc nhiên vì không thấy vua, chẳng biết đi đâu, cùng nhau bàn luận: "Vua không phải kẻ tầm thường, đi tất có người biết".

 

Có người nói:

 

- Vua đã đầy đủ trong cung, còn tìm đâu nữa!

 

Có người nói:

 

- Chúng ta nên cùng nhau hỏi Tăng Dưỡng.

 

Đến nơi, mọi người hỏi:

 

- Hiện nay không biết đại vương đi đâu?

 

Đáp:

 

- Các vị vội gì mà muốn gặp vua, hãy nén lòng lại, không bao lâu nữa sẽ gặp.

 

Hỏi:

 

- Bao giờ được gặp?

 

Đáp:

 

- Đủ 20 năm.

 

Mọi người phẫn nộ nói:

 

- Ngài đã giết vua, tính chuyện tự lập nên nói ra lời bất nghĩa như vậy. Nếu trong bảy ngày, gặp được vua thì tốt, không gặp được vua sẽ lập vua khác và giết ông chết.

 

Nghe như vậy, Tăng Dưỡng im lặng ôm lòng ưu sầu.

 

Khi ấy, quốc mẫu đại phu nhân mẹ Ngưu Hộ thấy Tăng Dưỡng ưu sầu nên gọi lại hỏi:

 

- Nay khanh vì sự tình gì mà ưu sầu như vậy?

 

Đáp:

 

- Phu nhân, đại Bà-la-môn và quần thần nói thế này ... kể lại như trên. Vậy trong lòng thần làm sao không buồn được!

 

Phu nhân nói:

 

- Khanh có thể dùng mật hòa với bơ, trộn vào cám gạo đựng đầy trong mâm bằng vàng đem đến chuồng ngựa, quỳ ở trước nói rằng:

 

- Ai có thể nội trong ngày nay đi đến nước Đ?c Xoa Thi La thì ăn cám trộn bơ và mật trong mâm vàng này.

 

Nghe nói nhưng không con ngựa nào ăn cả. Bấy giờ có một con ngựa già ốm yếu, đứng rũ tai ở riêng một bên. Ông ta đến bên ngựa này, tay bưng mâm vàng nói như trước. Nghe xong, ngựa ấy đến mâm ăn hết. Được ông ta đem việc này báo lại, Phu nhân nói:

 

- Hãy đi gắn yên, nếu thấy hình trạng lạ, khanh không nên sợ hãy đối trước nó biểu lộ dũng khí uy hùng. Người có dũng khí, vật không xem thường.

 

Đến nơi chỗ ngựa kia, khi ông ta định đặt yên lên lưng, ngựa liền vùng lớn lên thay hình đổi dạng, bảo:

 

- Này trượng phu, ông có bao giờ thấy ngựa như thế này không?

 

Ông ta rút đao nói:

 

- Ngựa Dược-xoa có trí, ngươi có bao giờ thấy người kỵ mã như thế này chưa?

 

Đáp:

 

- Chưa thấy.

 

Nói:

 

- Này ngựa Dược xoa có trí, không biến trở lại như cũ và chạy đi thì tốt, nếu không đi, sẽ bị chặt rơi đầu máu chảy xuống đất.

 

Ngựa nói:

 

- Trượng phu hãy cùng lập cam kết, không đem tôi trở lại chốn này nữa, tôi sẽ đi.

 

Đáp:

 

- Nếu đồng ý cùng đi, ta không phụ lòng ngươi.

 

Tăng Dưỡng liền lên ngựa đi đến thành Đắc-Xoa-Thi-La.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA-TẠP-SỰ

 

Quyển hai mươi ba hết.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11535)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10669)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10105)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12269)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12000)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12562)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13023)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11522)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12780)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9765)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10215)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16513)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10589)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant