Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 28 đến 29

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 8285)
Quyển 28 đến 29

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

 

Quyển thứ hai mươi tám

 

--- ooOoo ---

 

Tiếp theo trong tụng thứ tư trong biệt môn sáu. Chuyện Đại Dược.

 

Sau khi nắm rõ việc nước, Đại Dược thống lĩnh bốn loại binh xem xét khắp trong nước. Mỗi khi đến thành phố làng xóm, Đại Dược đều hỏi mọi người:

 

- Những làng xóm này thuộc ai quản lý?

 

Mọi người đáp:

 

- Chỗ này của đại thần ... chỗ kia của đại thần ... lấy làm đất phong ấp cho riêng mình.

 

Nghe như vậy, Đại Dược biết làng xóm thành phố đều thuộc về sáu đại thần, nhà vua chỉ có trong cung và sự ăn uống mà thôi.

 

Sau khi xem xét trở về, Đại Dược tâu vua:

 

- Thành phố và thôn xóm nào là sở hữu của vua?

 

Vua đáp:

 

- Hiện nay, ta bất lực không biết làm sao đây. May mắn nhờ có chư Thiên báo trước cho ta rằng gia đình Viên Mãn trong thành Mãn Tài sẽ sinh một bé trai tên là Đại Dược, nên lập làm đại thần khi cậu ta lớn lên, ta chỉ việc ngồi một chỗ mà ổn định được nhân dân. Vì lý do này, từ khi ngươi còn trong thai, ta đã vâng thiên mệnh cung cấp các việc. Nay đã thành nhân, thân cận với ta, ngươi nắm chức đại thần, hãy thuận theo lời báo trước của Thiên thần, thi hành rộng trí mưu phổ biến hành chính của đất nước làm cho ta là vua có uy quyền sống an ổn.

 

Khi ấy, Đại Dược lạy vua, cung kính tâu:

 

- Đại vương! Xin ngài đừng lo, thần sẽ hỗ trợ làm cho ngài được an lạc.

 

Đại Dược sai sứ giả đến các thành phố làng xóm trong nước trực thuộc sáu đại thần, thông báo:

 

- Mọi người nên biết, xét ra các đại thần không tuân phép nước, sai khiến, thu thuế, bắt lao dịch gây khổ cực vô cùng, tham ác gian tà không để mọi người sinh sống. Bằng lời chân thật, ta bảo các người, nếu ai tuân lời, hưởng thụ an lạc mãi không còn khổ cực, chỉ đóng thuế theo khả năng của mình, thân thuộc vợ con không còn bị lao nhọc nữa. Các vị trong sáu đô thành hãy tự cố thủ, giả như lệnh vua và sáu đại thần đến sai khiến cũng không nghe lời. Nếu họ có đến, quý vị cũng không mở cửa mà báo rằng:

 

- Đại thần Đại Dược đến, chúng tôi sẽ tuân phục.

 

Khắp trong nước nghe dạy như vậy đều làm theo, không tuân theo lệnh cũ nữa.

 

Các đại thần kia cùng nhau tâu vua:

 

- Các thành phố đã tạo phản, phải làm sao đây?

 

Vua nói:

 

- Các khanh hãy thống lĩnh bốn loại binh đến từng nơi hỏi tội.

 

Đến nơi, không được họ nghe theo nên các đại thần tâu vua:

 

- Chúng tôi bất lực, xin vua đích thân đến.

 

Được vua thân hành đến nhưng họ vẫn không phục tùng, nên đánh nhau lao nhọc, mất nhiều thời gian. Trong các thành, nhân dân tâu vua:

 

- Chúng tôi không có ý phản nghịch lại vua nhưng chẳng nghe theo chỉ vì sáu đại thần bạo ngược. Nếu khiến đại thần Đại Dược đến, chúng tôi đều chiến thắng.

 

Được vua sai sứ gọi, tuân theo sắc lệnh, Đại Dược vội đến gặp vua.

 

Nghe Đại Dược đến, nhân dân trong các thành đều phục tùng, mở cửa đón vào. Đại Dược liền bãi bỏ chính sách bạo ngược, chế định lại những phép tắc luật lệ nhẹ nhàng phù hợp luân lý trật tự làm cho không ai oán trách, đều ca ngợi việc thay đổi, vui mừng như sống lại. Đại Dược chu cấp cho người nghèo, giúp đỡ người cô quả, thương yêu tất cả, xem như cha mẹ.

 

Dân chúng trong nước đều vân tập đến, Đ?i Dược hộ giá nhà vua đi đến các thành, tiếng tăm lừng lẫy đến các nước, gần xa đều tán dương. Vua đem con gái gả cho Đại Dược. Tuy được trọng thưởng yêu mến nhưng Đại Dược không có ý kiêu xa.

 

Bấy giờ, có người nghèo đến phục vụ nhà vua hy vọng cầu bổng lộc. Thấy vua không chấp thuận, ông ta lại sang cầu Đại Dược. Vì thương tình, Đại Dược thu nhận và giúp đỡ y phục thực phẩm đầy đủ.

 

Có Bà-la-môn đến cầu xin cám gạo. Đại Dược sai người cho. Người giữ kho lơ đểnh kéo dài thời gian, chưa chịu đem cho. Sau đó, hôm nọ cùng đại thần và các quan trong triều tập họp ở một nơi, vua hỏi mọi người:

 

- Việc kín của mình có thể nói cho ai biết .

 

Người thì nói:

 

- Nói cho bạn bè.

- Nói cho cha mẹ.

- Nói cho vợ con.

 

Nhưng Đại Dược im lặng không nói gì cả.

 

Vua hỏi:

 

- Đại Dược, vì sao khanh không nói?

 

Đáp:

 

- Lời nói nào có dễ dàng! Theo như thần thấy, phàm là việc kín đáo không nên nói cho bất cứ đàn ông nào huống chi phụ nữ.

 

Vua hỏi:

 

- Lẽ nào đến vậy hay sao?

 

Đáp:

 

- Việc này đúng hay sai, vua hãy tự thí nghiệm.

 

Sau đó, nhà vua mất chim khổng tước. Đại Dược bắt lấy dấu đi nơi khác và đem con khác giết ngay trước vợ và hỏi:

 

- Nàng có nghe vua mất chim khổng tước không?

 

Đáp:

 

- Thiếp nghe.

 

Đại Dược nói:

 

- Đây là chim ấy, hãy mau thu dọn. Ta muốn ăn nó, không nên nói việc này cho người khác biết .

 

Nghe vậy, vợ suy nghĩ:

 

- Phụ vương tin tưởng người này vô cùng, nay vì sao lại giết chim để ăn. Thật là việc tồi bại, không sợ pháp luật gì cả.

 

Đại Dược lại đưa cô gái thật đẹp trang sức mỹ lệ vào nhà, bảo vợ:

 

- Thiếu nữ này là người trong cung vua. Ta yêu mến nên đưa về, đừng truyền việc này ra.

 

Nghe như vậy, người vợ càng thêm phẫn nộ: "Vì sao cha ta không xem xét kỹ, xử dụng kẻ vô lại phản phúc không phải thân tộc này làm đại thần và giao cho việc nước. Tại sao đem người trong cung của vua về phòng mình, bắt chim vua yêu mến làm thịt ăn, thu nhận người khách nước ngoài, cung cấp y phục lương thực nuôi làm nghĩa sĩ?".

 

Người vợ đem hết sự việc này cho vua biết và tâu:

 

- Đối với người kia, cha rất tin tưởng nhưng con thấy hành động ác ấy thật không gì hơn, hãy bãi chức và cho ông ấy về vườn.

 

Nghe tâu như vậy, trong lòng vua thay đổi khác thường, sai đao phủ bắt Đại Dược đi hành hình theo luật pháp.

 

Bọn Chiên Đà La dùng hoa đỏ tươi cột dưới cổ, đánh trống tiếng dữ dội, bọn hung ác đi theo cầm đao khủng bố như qủy sứ của diêm-ma đưa Đại Dược đến Thi Lâm. Đến lúc hành hình, không ai chịu giết cả. Người xem khóc lóc như thương thân mình, đều sụt sùi cầu trời khẩn Phật.

 

Bấy giờ, người khách ngoại quốc được Đại Dược cấp y phục thực phẩm nói với mọi người:

 

- Tôi có thể giết người này.

 

Khi ra khỏi thành, người Bà-la-môn kia đi theo níu lấy vạt áo của Đại Dược đòi một thăng cám. Thấy sự việc như vậy, Đại Dược nói kệ:

 

    Không nên thân với vua,

    Khó gần gũi kẻ ác,

    Nếu là việc kín đáo,

    Không cho đàn bà biết.

    Ta không ăn chim công,

    Không dụ người trong cung,

    Không có tâm dối gạt,

    Mắc nợ cám của người.

 

Khi sắp bị hành hình, Đại Dược nói kệ như vậy. Nghe xong, sứ giả hỏi Đại Dược:

 

- Ngươi có trí tuệ hơn người, lại nói ra lời vô nghĩa.

 

Đáp:

 

- Đấy không phải là lời vô nghĩa, ngươi không hiểu được đâu, hãy đem lời ta đến nói lại cho vua.

 

Sứ giả đến nói lại cho vua nghe kệ ấy. Tuy nghe nhưng cũng không hiểu nên vua ra lệnh sứ giả gọi Đại Dược đến và hỏi:

 

- Lời nói ấy có nghĩa gì?

 

Đáp:

 

- Nghĩa lý của nó rất sâu.

 

Hỏi:

 

- Ý nghĩa như thế nào?

 

Đại Dược nói:

 

- Xin vua lắng nghe, thần nói qua ý nghĩa bài kệ.

 

- Không nên thân với vua nghĩa là trước đây thành phố thôn ấp trong nước đều không trực thuộc nhà vua mà chỉ có ăn uống và cung điện. Tôi dùng mưu lược dẹp bọn cường thần kia. Quốc gia an ninh, quyền lực của vua được khôi phục, cơ đồ thịnh vượng, cả nước hoan ca, kho tàng sung túc đều nhờ sức của thần. Nay muốn giết thần để đáp ân ấy nên nói là không nên thân với vua.

 

- Khó gần gũi kẻ ác nghĩa là trước đây có người nghèo đi tha phương làm thuê, đến gặp vua xin ăn để sống. Không được vua giúp đỡ, họ đến gặp thần. Thấy họ nghèo nàn, thần cấp cho y phục lương thực. Khi tính mạng đã an toàn, không còn nhớ chút ân nào, nay họ còn đến giết thần.

 

- Nếu là việc kín đáo, không nói cho đàn bà biết nghĩa là trước đây lúc lâm triều, vua bảo mọi người rằng việc kín có thể nói cho ai. Có người nói cho cha mẹ, hoặc nói cho vợ con ... như trước. Thần nói chưa tin tưởng được những người ấy, nên xem xét kỹ, vua nên tự nghiệm lấy. Thần không ăn chim khổng-tước của vua, đem con chim khác bảo vợ nấu cho ăn.

 

- Không xâm phạm người trong cung của vua, tạm đưa cung nhân mang anh-lạc đi nơi khác, mượn người giả làm cung nữ vào nhà. Nếu ai không tin xin gọi họ đến hỏi.

 

Vua gọi cung nhân đến đối chứng đúng như vậy.

 

- Không mắc nợ cám của người nghĩa là khi vua sai đao phủ đến sắp giết thần, người kia vội đến níu áo thần, miệng nói trả lại cho tôi một thăng cám lúa mạch, với ý tưởng không thương xót chẳng biết tùy nghi, ngày trước xin cám nay thấy sắp bị chết nên đến đòi.

 

Nghe ý nghĩa bài tụng, xét rõ sự việc, vua biết rõ Đại Dược vô tội nên hoan hỷ phóng thích và tổ chức lễ long trọng bái làm trọng-thần.

 

Bấy giờ, Đại Dược làm lễ tâu vua:

 

- Xem như vậy thì nên đem chuyện kín nói cho đàn bà nghe không! Công chúa của vua ban cho thật vô dụng với thần, xin ngài nhận lại. Thần xin tự mình tìm kiếm cô gái mà lời nói chân thật, có đức hạnh, giòng họ tương xứng, thông minh trí tuệ để cưới làm vợ.

 

Sau khi từ giã vua, Đại Dược mang hình thức người Bà-la-môn tay cầm tịnh bình, mang dây kiết tường, mặc áo da nai, vẽ ba vạch trên mặt, đi về thành cũ để tìm vợ. Vào buổi chiều, trên đường gặp Đại Dược, một Bà-la-môn hỏi:

 

- Ngài từ đâu đến?

 

Đáp:

 

- Từ thành Tỳ Đề Ê đến.

 

Hỏi:

 

- Muốn đi về đâu?

 

Đáp:

 

- Đến thành Mãn Tài.

 

Hỏi:

 

- Tại đây ngài có người quen nào để nghỉ lại qua đêm không?

 

Đáp:

 

- Không có.

 

Người kia liền đưa Đ?i Dược về nhà, bố trí chỗ nghỉ đúng pháp. Thấy vợ người Bà-la-môn là hạng không trinh bạch nên sau đêm ấy đến sáng sớm, Đại Dược muốn ra đi.

 

Bà-la-môn nói:

 

- Tệ xá tôi là nhà của bạn, tùy ý đến đi trú đêm không ngại gì cả.

 

Sau khi bắt tay nhau đồng ý, Đại Dược từ biệt. Trên đường đi, trong ruộng lúa mạch ở trước, thấy có thiếu nữ hình dung xinh đẹp, dáng điệu như con nhà đàng hoàng, Đại Dược có ý yêu mến, nên hỏi:

 

- Cô tên họ gì?

 

Đáp:

 

- Tôi tên Tỳ Xá Khư.

 

Hỏi:

 

- Nàng con nhà ai?

 

Đáp:

 

- Thôn trưởng này là cha thiếp.

 

Đại dược suy nghĩ:

 

- Cô ta tuy xinh đẹp nhưng chưa biết trí tuệ ra sao vậy nên trắc nghiệm thử.

 

Đi xuống ruộng lúa mạch, Đại Dược đưa cao hai tay, dùng chân đạp lúa. Tỳ Xá Khư nói:

 

- Đã biết giữ tay thì chân cũng vậy.

 

Biết cô này có trí, Đại Dược hỏi:

 

- Vòng đeo tai của cô thật khả ái, màu sắc sáng lạ thường.

 

Đáp:

 

- Chỉ để che thân xấu, nào có đẹp gì.

 

Nói:

 

- Cô rất xinh đẹp.

 

Đáp:

 

- Do cha mẹ sinh, không quan tâm đến dung mạo bề ngoài.

 

Hỏi:

 

- Cha đang đi đâu?

 

Đáp:

 

- Một mình làm hai việc.

 

Hỏi:

 

- Nói vậy có nghĩa gì?

 

Đáp:

 

- Vừa đi lấy gai ngăn đường cũ, lại làm thông đường mới.

 

Hỏi:

 

- Mẹ đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Về nhà lấy giống để gieo ruộng trễ mùa.

 

Hỏi:

 

- Nàng có thể làm vợ ta không?

 

Đáp:

 

- Việc này do cha mẹ, tôi không thể biết được.

 

Hỏi:

 

- Đi về thành Mãn Tài, đường nào bằng thẳng êm ái lại không có gai góc, nàng hãy chỉ cho để tôi đi được an ổn?

 

Chỉ đường xong, cô gái tự đi trước, đến chỗ bờ ao, tự trải áo ngồi xuống, nheo một mắt để xem Đ?i Dược có biết mình không.

 

Khoảnh khắc, đi đến bờ ao, Đại Dược trông thấy biết ngay nên nói kệ:

 

    Thân không mặc áo dệt bằng tơ,

    Cũng chẳng phải may bằng vải nỉ,

    Nheo mắt nên chỉ dẫn cho ta,

    Đường nào đi đến thành Diệu Hoa.

    Nghe nói, thiếu nữ mỉm cười đáp kệ:

    Đuờng trơn nên tiến bước,

    Chớ đi nẻo gồ ghề,

    Trông thấy khu rừng lớn,

    Gần bên, nên đi qua.

    Lại thấy đất trồng lúa,

    Có cây nở hoa đỏ,

    Bỏ trái, đi qua phải,

    Theo đường ấy mà đi.

 

Theo lời chỉ dẫn, Đại Dược đến thành Diệu Hoa, cách thành không xa là nhà Tỳ Xá Khư nhưng không thấy cha mẹ cô ta. Đại Dược hỏi thành chủ:

 

- Nếu được các vị gả Tỳ Xá Khư cho, tôi rất mang ân.

 

Nghe nói như vậy, những người ấy rất tức giận, bảo với Bà-la-môn:

 

- Ngươi cầu xin người, thật không biết xấu hổ. Vì sao vội vàng cầu hôn như vậy với Tỳ Xá Khư, một cô gái xinh đẹp như tiên. Hãy đi ra khỏi thành ngay, nếu trở lại sẽ cho chó ăn thịt ngươi.

 

Bị thất vọng, Bà-la-môn trở lại chỗ Tỳ Xá Khư. Vừa trông thấy đến, cô ta liền chào đón. Đại Dược kể lại về sự việc vừa rồi hỏi những người kia, cơ hồ bị đánh.

 

Cô gái nói:

 

- Anh đã hành động sai rồi, thật không có mưu trí. Việc cầu hôn không thể làm như vậy.

 

Đại Dược hỏi:

 

- Phải làm thế nào?

 

Đáp:

 

- Trước phải làm quen, rồi thân cận, sau đó làm tiệc mời ăn các món thơm ngon, lúc ấy mới nói những điều mong muốn ra.

 

Sau khi nghe hướng dẫn, làm theo cho đến khi ăn uống Đại Dược mới nói chuyện cầu hôn với Tỳ Xá Khư. Mọi người nói:

 

- Sẽ làm theo ý ông.

 

Trong khi bàn luận, cha mẹ cô ấy đến. Đại Dược cùng chủ thành đến nhà ấy thưa với cha mẹ về việc hôn nhân.

 

Họ đáp:

 

- Các vị hãy thư thả chờ tôi suy nghĩ đã.

 

Mọi người nói:

 

- Đừng nghĩ ngợi nữa, Bà-la-môn này trẻ tuổi tuấn tú hiểu rộng kinh thư, năm minh sáu luận đều thông đạt, kéo dài năm tháng bọn chúng khó gặp nhau, hãy mau mang sính lễ đến chẳng nên để lâu.

 

Khi ấy, mọi người đối với Đại Dược như vậy nên cha mẹ thuận lời gả con gái cho. Thấy họ đã đồng ý, Đại Dược dâng y phục thượng hạng cho cha mẹ và để lại lễ vật tặng Tỳ Xá Khư rồi trở về thành Tỳ Đề Ê.

 

Trên đường đi về chỗ vua Trùng Hưng, Đại Dược gặp đại hội bố thí, được một thăng bột nên gói để trong áo. Đến nhà Bà-la-môn trước đây mình đã ngủ nhờ, Đại Dược gõ cửa. Người vợ ra hỏi:

 

- Ông là ai?

 

Đáp:

 

- Tôi là bạn của chồng bà.

 

- Chồng tôi không có mặt, nên không tiếp người ngoài, ông hãy đến nhà khác ngủ nhờ. Người vợ nói.

 

Đại Dược suy nghĩ:

 

- Đây chắc có việc gì nên không cho ta nghỉ lại đêm.

 

Đi một đoạn ngắn, thấy một người khác đi vào nhà ấy, Đại Dược suy nghĩ: "Vì có người ngoài nên không cho ta vào".

 

Trong lúc Đại Dược đang lưỡng lự, người chồng về đến và gọi mở cửa.

 

Nghe tiếng chồng gọi, người vợ thất kinh hồn vía không biết tính sao nên đem người tình dấu trong bồ lúa.

 

Cùng với người chồng bước vào cửa, Đại Dược hỏi:

 

- Bột của tôi để nơi nào đây?

 

Người vợ nói:

 

- Để dưới đất.

 

Đại Dược nói:

 

- Sợ bị chuột ăn.

 

Nhìn khắp các góc nhà, dưới giường, không thấy gì cả, chỉ có bồ lúa nhỏ bên cạnh, nghĩ rằng chắc hắn ở trong này, nên Đại Dược nói:

 

- Để trong bồ lúa.

 

Vợ nói:

 

- Tài sản trong nhà tôi đều để trong ấy, nếu đặt bột vào thì các vật kia thế nào.

 

Chồng nói:

 

- Người đàn bà hung dữ này, sao không lấy đồ vật ra rồi để bột vào.

 

Bà ta cự lại không cho đến gần. Khi biết chồng đã quyết ý làm sao ngăn được, bà ấy rất kinh sợ không biết tính thế nào đành bảo:

 

- Trong bồ ẩm thấp sợ hư bột đi.

 

- Chị không phải lo, tôi không để hư đâu.

 

Đại Dược nói xong liền lấy củi cỏ và phân bò khô đặt bốn phía bồ, muốn lấy lửa đốt lên.

 

Sợ tình nhân bị lửa đốt cháy nên người vợ lén sai người báo cho cha anh ta:

 

- Con ông gặp nạn hãy mau đến cứu.

 

Nghe báo, vội chạy đến, biết con đang ở trong bồ, cha nói với Đại Dược:

 

- Nếu cần cái bồ, tôi xin đưa tiền mua, ngài muốn bao nhiêu?

 

Đáp:

 

- Năm trăm tiền vàng.

 

Trong lúc trao đổi, lửa bốn phía bốc lên. Cha nói:

 

- Con ta đang chết dùng tiền làm gì.

 

Ông ta vội đưa tiền và chở cái bồ đi.

 

Sáng hôm sau, Đại Dược chia cho chủ nhà một trăm tiền vàng, kể lại hết sự việc và bảo ông ta rằng vợ bạn có hạnh xấu, phải tự hết sức ngăn ngừa.

 

Sau đó, Đại Dược viết thư kèm theo bốn trăm tiền vàng đưa cho chủ nhà đem đến thành Diệu Hoa trao cho Tỳ Xá Khư và báo với chủ thành rằng ta không phải khách đi đường mà là đại thần của vua, vì cầu hôn nên trước đây đến thành. Tỳ-xá-khư khéo bảo trọng.

 

Sau khi Đại Dược đi về Tỳ Đề Ê, Bà-la-môn cầm thư và tiền đến gặp Tỳ Xá Khư giao thư và ba trăm tiền vàng.

 

Nhận thư, Tỳ Xá Khư thấy ghi:

 

    Bốn mảnh mới thành áo,

    Thiếu một không thể may,

    Nếu thiếu đi một cọc,

    Cùm chân, thu lại được.

 

Sau khi đọc thư, đếm thấy chỉ có ba trăm tiền vàng, Tỳ Xá Khư liền tìm cái cùm chân ở dưới giường. Sứ giả hỏi:

 

- Muốn tìm gì?

 

Đáp:

 

- Đang có tội nhân của vương gia, phải cần cái cùm.

 

Sau khi tìm được cùm, Tỳ Xá Khư nói:

 

- Tôi chẳng biết phải xử dụng như thế nào, ngài hãy đưa chân ra để tôi làm thử xem.

 

Bản tính ngu độn, sứ giả ngay chân ra tra vào cùm. Ty Xá Khư liền đóng ngược lại thật chắc.

 

Sứ hỏi:

 

- Vì sao cùm ta lại?

 

Đáp:

 

- Anh ấy gửi bốn trăm, người lấy hết một trăm.

 

Với suy nghĩ: "Thật là kỳ dị, cả hai đều có trí, khó dối trá việc này được". Sứ giả liền trả lại một trăm tiền vàng cho đủ số.

 

Thấy cha mẹ đến, Tỳ Xá Khư đem tiền trình ra và thưa:

 

- Người trước đây cầu hôn con, không phải là Bà-la-môn nghèo, chính là đại thần của quốc vương nước Tỳ Đề Ê tên Đại Dược.

 

Nghe nói như vậy, cha mẹ thân thuộc đều rất vui mừng: "Chúng ta có phước nên được người rễ là đệ nhất đại thần, làm gia tộc thịnh vương tất nhờ người này".

 

Từ đó về sau, họ cung cấp cho Tỳ Xá Khư vật tắm rửa, y phục, thức ăn, giường nằm đều là vật ngon bổ tinh xảo, làm cho nhan sắc càng xinh đẹp khả ái hơn xưa.

 

Nghe Đại Dược về đến thành, vua và các quan đều vui mừng. Khi Đại Dược vào chầu, vua hỏi:

 

- Này Đại Dược, tìm được vợ không?

 

Đáp:

 

- Đã được.

 

Hỏi:

 

- Như thế nào?

 

Đáp:

 

- Thiếu nữ như hoa xinh đẹp tuyệt trần, thông minh nhiều trí, tài giỏi hơn người, thật xứng đáng làm vợ của thần. Thần xin với vua đem nàng về được không?

 

Vua nói:

 

- Khanh là đại thần lại không có lỗi, cần phải tổ chức nghi lễ rực rỡ khác thường, tùy ý trang hoàng làm cho mọi người vui mừng.

 

Tuân lệnh vua, Đại Dược cùng các quan Bà-la-môn cư sĩ nhân dân dùng xe, ngựa, đi bộ ... thống lĩnh bốn loại binh đi sang thành Diệu Hoa, đến nhà Tỳ Xá Khư cùng nhau tổ chức hôn lễ. Sau khi cưới, họ đưa nhau về thành Tỳ Đề Ê sống hoan lạc.

 

Khi ấy, có năm trăm khách buôn ngựa ở phương Bắc đến thành Tỳ Đê Ê. Trong thành naỳ, có năm trăm dâm nữ hình dáng xinh đẹp yểu điệu khả quan, ca múa nói năng đều siêu tuyệt. Những thương khách đến đây, đều bị họ làm cho tiêu tán hết tài sản hàng hóa. Năm trăm ca nữ này gặp năm trăm thương nhân cùng nhau vui chơi, chỉ riêng thương chủ không bị mê loạn. Đến chỗ thương chủ, cô gái đứng đầu trong nhóm ca nữ tìm cách thân mật nhưng không được người này chìu ý nên cùng những cô khác ngày nào cũng đến nhưng ông ta vẫn kiên tâm không lay chuyển. Thấy cô ta thường đến nói cười với mình, thương chủ nói:

 

- Ta không có tà niệm, qua lại chỉ uổng công.

 

Ca nữ nói:

 

- Nếu ngài đổi ý, sẽ cho em vật gì?

 

Đáp:

 

- Cho năm con ngựa thượng hạng. Nếu ta không làm lỗi, cô phải đưa cho ta năm trăm tiền vàng.

 

Sau khi cam kết, cô gái dùng thêm nhiều cách đến khêu gợi nhưng cũng không làm cho thương chủ đổi ý.

 

Những thương nhân khác nói:

 

- Cô ấy đẹp số một trong thành này, ngài không nên phụ lòng.

 

Thương chủ nói:

 

- Đêm qua, ta nằm mộng thấy cùng nàng ấy giao hội vậy phiền gì gặp nhau.

 

Nghe như vậy, mọi người báo với ca nữ kia. Cô ta liền dẫn đến năm trăm người cầm dao đến đòi thương chủ thanh toán năm con ngựa theo lời cam kết trước đây: ông đã đổi ý, cùng ta làm việc phi pháp.

 

Thương chủ nói:

 

- Cô thật không biết xấu hổ, vu oan cho người tốt.

 

Họ đưa nhau đến quan tòa của nhà vua, xử đoán đến chiều vẫn chưa phân thắng bại nên hẹn nhau sáng mai cùng đến để thẩm sát.

 

Thấy Đại Dược về nhà muộn hơn thường ngày, Tỳ Xá Khư hỏi:

 

- Sao về muộn vậy?

 

Sau khi kể lại hết sự việc, Đại Dược nói:

 

- Cũng chưa xử xong.

 

Vợ nói:

 

- Các vị đều thông hiểu đạo lý mà chẳng rõ việc này sao gọi có trí?

 

Đại Dược hỏi:

 

- Chúng tôi chưa thông, nàng có thể xử không?

 

Vợ nói:

 

- Em thử xử đoán như thế này để xem trí tuệ ra sao. Trước hết, chàng tâu vua triệu các quan đến và dẫn theo năm con ngựa cùng đến bên hồ nước. Giữa mọi người, gọi ca nữ ấy đến, bảo rằng:- Thương chủ cùng cô thật có làm việc phi pháp nên giao ngựa thật đúng như trong mộng vậy hãy tùy ý dẫn bóng ngựa trong nước về đi. Nếu cô ấy nói bóng ngựa không thật nên không thể dắt đi thì bảo việc hành dục trong mộng cũng như vậy.

 

Nghe xong, Đại Dược rất thán phục, ngay sáng hôm sau, tâu vua mời các quan, tập họp mọi người cùng ca nữ kia với năm con ngựa đến bên hồ nước. Đứng trên bờ hồ, theo như kế của Tỳ Xá Khư, Đại Dược lần lượt cật vấn cô ta.

 

Nghe như vậy, vua và mọi người đều thán phục, bảo Đại Dược:

 

- Nếu chiều hôm qua khanh đã xử như vậy thì không phiền hôm nay lại tập họp cho phiền phức, vậy là kế của ai?

 

Đáp:

 

- Là của Tỳ Xá Khư. Chiều qua khi về nhà, thần kể sự việc này ...

 

Vua quan đều thán phục, bảo rằng Tỳ Xá Khư có mưu kế trí tuệ lớn.

 

Danh tiếng của Tỳ Xá Khư vang khắp nơi, xa gần đều biết.

 

Khi ấy, phương Bắc hiến hai con ngựa cỏ, một con là mẹ, con cái kia là con, hình dáng kích cở màu lông đều hoàn toàn giống nhau, không phân biệt được con nào là mẹ hay con. Cùng quan sát, vua cùng mọi người không sao phân biệt được.

 

Nghe như vậy, Tỳ Xá Khư bảo:

 

- Lông cứng là mẹ, lông mềm là con.

 

Mọi người đều thán phục.

 

Vào lúc khác, có người biết dùng chú thuật rắn đem hai con rắn hình dáng giống như nhau, không phân biệt được đực, cái, đến chỗ vua. Mọi người chịu thua. Đại Dược nói với Tỳ Xá Khư việc này. Nghe xong, Xá Khư cười mỉm rồi nói:

 

- Các vị không biết việc này, sao gọi là người trí. Những người thân cận vua hưởng bổng lộc thật uổng phí.

 

Đại Dược hỏi:

 

- Nàng có biết không?

 

Đáp:

 

- Biết rõ, nên dùng vật mềm mại cột vào đầu cây gậy lau trên xương sống của rắn; con nào cong lại cử động là đực, con nào vẫn nằm im là cái.

 

Đại Dược làm theo sự hướng dẫn, thấy đúng như vậy. Mọi người đều khen giỏi.

 

thương nhân ở nước Nam đem đến cho vua cây gậy chiên-đàn hai đầu giống nhau không phân biệt được gốc ngọn. Được hỏi đến, Tỳ Xá Khư cười nói:

 

- Bỏ gậy ấy vào trong nước, gốc chìm xuống, ngọn nổi lên.

 

Thí nghiệm đúng như vậy, mọi người đều thán phục.

 

Vua suy nghĩ:

 

- Ta thử thí nghiệm các đại thần để xem ai có trí nhất.

 

Trên lầu, nhà vua cho dựng cây phướn cao trên đầu có đặt ngọc quý sáng rực. Ánh mặt trời phản chiếu, bóng ngọc quý hiện trong hồ nước như thật.

 

Vua bảo mọi người:

 

- Ai vào hồ lấy được trái châu, ta sẽ ban thưởng.

 

Mọi người vào hồ nước tìm nhưng không lấy được. Đại Dược lại báo cho Tỳ Xá Khư.

 

Cười đáp:

 

- Hãy nhìn ngược lên trên thì tìm được chính ngọc quý.

 

Đại Dược làm theo lấy được ngọc.

 

Vua hỏi:

 

- Là thượng trí của ai vậy?

 

Đáp:

 

- Tỳ Xá Khư.

 

Vua liền tặng ngọc và khen ngợi.

 

Thấy Tỳ Xá Khư xinh đẹp hiếm có trên đời, các đại thần đều có ý luyến ái nên đem tặng châu báu mong được qua lại tư thông. Nhưng Tỳ Xá Khư vẫn không thay đổi tâm niệm.

 

Thấy họ mong muốn mãi, Tỳ Xá Khư bảo với Đại Dược:

 

- Trong nước chàng có sự việc là thấy vợ người xinh đẹp thì muốn tư thông thật là bỉ ổi.

 

Đáp:

 

- Đấy là tập quán thế gian, ai cũng truyền cho nhau, nhưng người phụ nữ nào kiên trinh thì không thuận theo.

 

Vợ nói:

 

- Thiếp muốn làm nhục họ, xin chàng đừng trách.

 

Đáp:

 

- Tùy ý.

 

Vợ nói:

 

- Chàng hãy báo bệnh, em tự lo liệu.

 

Tuân lời, Đại Dược báo bệnh tránh mọi người. Các đại thần sai sứ đến hỏi Tỳ Xá Khư.

 

Đáp:

 

- Chồng bệnh, tôi được tùy ý.

 

Tỳ Xá Khư liền sai thợ làm hình nhân gỗ giống như Đại Dược đặt trên giường phủ áo mỏng lên, rồi báo mọi người:

 

- Chồng tôi bệnh nặng, mạng sống không còn bao, hãy tùy theo sức mình, khi yêu mến với tôi chớ để người ngoài thấy.

 

Làm sáu rương lớn để trong sáu phòng, khi đại thần đến, Tỳ Xá Khư bảo tạm núp trong này sợ có người biết. Khi họ vào rồi, liền khóa rương lại. Khi đã nhốt hết sáu đại thần vào rương, Tỳ Xá Khư nói với mọi người:

 

- Đại Dược đã chết.

 

Vua cùng các quan đồng liêu đều buồn rầu khóc lóc lớn tiếng với suy nghĩ:

 

- Người tài giỏi như vậy lại bị chết thình lình.

 

Đem sáu cái rương lớn vào chỗ vua, Tỳ Xá Khư thưa:

 

- Đại vương, Đại Dược đã qua đời, tài sản trân bảo của chàng đều để trong rương, xin ngài nhận lĩnh. (và nói hai bài kệ).

 

Trông thấy, vua rất bi thảm, hôm nay Đại Dược đã chết, còn đem di vật đến.

 

Bấy giờ, từ cửa bên hông, Đại Dược đi vào, trang sức anh lạc đến gặp nhà vua, mỉm cười tâu:

 

- Ngài rất thương yêu thần, vậy mà vừa mới chết, đã thu lấy tài sản.

 

Vua nói:

 

- Không phải ta đòi tài sản, chính do Tỳ Xá Khư đích thân mang lại và nói kệ:

 

    Xin đại-vương biết cho,

    Đại Dược đã qua đời,

    Trân bảo này của chàng,

    Xin ngài xem rương quý,

    Chồng thiếp không còn nữa,

    Thiếp cô quả bơ vơ,

    Sợ bị người ngoài gạt,

    Mất vật này của vua,

 

Đại Dược nói:

 

- Nếu vậy, ngài có thể mở rương ra xem trân bảo gì.

 

Sau khi mở rương, sáu đại thần đều từ trong bước ra.

 

Nghe vua hỏi vì sao, sáu người đáp:

 

    Chúng thần vì tình dục,

    Nên bị nữ nhân gạt,

    Xin đại vương ban ân,

    Không dám làm vậy nữa.

 

Vua nói:

 

- Thế gian luân hồi đều do sắc dục, đã bị nhục này lại bị lỗi nặng, các khanh hãy về đi, sau hãy tự xét mình.

 

Nhà vua lại than:

 

- Than ơi! phụ nữ mà lại có tiết tháo trinh bạch đặc biệt, mưu kế tuyệt luân xưa nay chưa từng có, làm cho đại thần phụ tướng bị nhục đến như vậy.

 

Nhân đó, nhà vua cấm chế việc đam mê dâm dục. Vua đã vui mừng, phong thưởng thêm tước lộc cho Tỳ Xá Khư, làm cho vang danh đến các nước khác.

 

Bấy giờ, nhà vua nghĩ rằng Đại Dược có phúc nên có được người vợ tài trí như vậy, liền bảo Đại Dược:

 

- Ngươi hãy tìm cho ta một phu nhân đủ tài trí làm cho chính trị trong và ngoài nước đều được an ninh, ta chỉ vòng tay sống an ổn.

 

Đại Dược thưa:

 

- Tìm ở nơi nào?

 

Vua nói:

 

- Ta nghe ở nước Bán Giá La có một cô gái tên là Diệu Dược, xinh đẹp tuyệt thế, ý nghĩ thanh cao siêu quần, nên đến cầu hôn chắc là đạt được.

 

Đại Dược đáp:

 

- Đó là nước láng giềng, có thể oán thù, nên tạo phương tiện trước, sau mới đạt được.

 

Vua sai phụ tướng đi đến cầu hôn. Thấy sứ giả đến, vua quan nước kia cùng nhau nghị luận: "Vua nước Tỳ Đề- Ê có nhiều binh lực, cùng ta thông gia là muốn kết thân tình. Nếu họ tự đến, việc lành hay dữ ta thi hành tùy ý".

 

Sau khi bàn luận, vua đồng ý, xem ngày giờ ... tốt, báo bên kia nên đến đây để tổ chức hôn lễ.

 

Sứ giả về tâu vua:

 

- Đã cầu được vương nữ, hẹn ngày ... tổ chức lễ cưới.

 

Đến ngày ấy, vua nước Bán Giá La bày tiệc thịnh soạn, cho thuốc độc vào các món ăn ngon, rồi sai sứ đến báo Tỳ Đề Ê:

 

- Tiệc đã chuẩn bị xong, xin họ đến mau.

 

Khi sứ giả đến, Đại Dược tâu vua:

 

- Chẳng nên vội vàng, nên bàn tính kỹ, việc thường xưa nay, lân quốc là kẻ thù, thường gây chiến tranh, khó thân thiện nhau.

 

Vua nói:

 

- Bình luận với ai?

 

Đáp:

 

- Đại vương! Xin đừng lo lắng, thần có con Anh-vũ tên là Cụ-tướng, có trí tuệ lớn hiểu rõ nhân tình. Sai nó đến thành kia thám thính rồi trở về báo lại.

 

Vua nói:

 

- Tùy ý.

 

Sau khi nghe dặn bảo, Anh-vũ lên tiếng vỗ cánh bay đến thành kia, đậu trên ngọn cây quan sát bốn hướng xem có thể bàn bạc với ai, giao cho ai việc thông tin qua lại. Nhưng không có con chim nào có thể cùng mưu tính được. Bay vào rừng tre, thấy có tổ chim Xá-lị, Anh-vũ liền bay đến bên tổ thăm hỏi.

 

Xá-lị hỏi:

 

- Anh từ đâu đến?

 

Cụ tướng đáp:

 

- Tôi từ chỗ vua Thất Lị ở phương Bắc đến đây. Trước đây, tôi là sứ giả giám sát vườn cưới Xá-lị làm vợ. Cô ấy trẻ đẹp hình dáng không ai bằng, siêng năng trí tuệ, hiểu rõ ngôn ngữ. Khi vừa ra ngoài, cô ấy bị diều hâu bắt đi. Vì chuyện này, tôi đau đớn như bị tên bắn vào tim, đi tìm khắp nơi, lần hồi đến đây. Tôi không có người bạn nào cả xin được lấy nàng làm vợ.

 

Đáp:

 

- Tôi chưa từng nghe cũng chưa từng thấy chim Anh-vũ lấy Xá-lị làm vợ.

 

Khi ấy Cụ-tướng dùng các loại ngôn từ để khuyến dụ bằng kệ:

 

    Ta bên vua phương Bắc,

    Giữ vườn thành Thất-lị,

    Xá-lị là vợ ta,

    Có trí, giỏi nói năng,

    Vì ra ngoài vui chơi,

    Bị diều hâu bắt đi,

    Ta vì tìm cô ấy,

    Trôi nỗi đến nơi đây.

 

Xá-lị đáp:

 

    Xá-lị vợ Anh-vũ,

    Chưa từng nghe việc này,

    Anh-vũ tìm Anh-vũ,

    Bậc trí đều biết vậy.

 

Nói kệ xong, chúng lại bàn luận nhau, tâm đầu ý hợp nên Xá-lị chịu làm vợ. Sau khi đã thân mật nhau, tình cảm hai bên khó chia lìa.

 

Khi ấy, Cụ-tướng thấy rõ chỗ nhà vua làm các món ăn uống hảo hạng, nhiều món lắm màu đều hiếm có. Thấy vậy, nó bảo Xá-lị:

 

- Vì sao trong cung làm các món ăn thịnh soạn như vậy, anh có thể nếm được mùi vị ấy không?

 

Đáp:

 

- Tuy các món ăn thượng hạng thơm ngon như vậy nhưng đều có thuốc độc.

 

Hỏi:

 

- Vì sao?

 

Đáp:

 

- Có vua Tỳ Đề Ê sắp đến nên làm thức ăn này để tổ chức lễ nhưng ngầm ý hại vua tôi họ.

 

Sau khi hỏi kỹ, biết rõ ràng, Cụ tướng nói kệ:

 

    Họ nói vương nữ này,

    Gả cho Tỳ Đề Ê,

    Tuy nghe lời đồn vậy,

    Không biết thật hay hư?

 

Xá-lị đáp:

 

    Vua không gả vương nữ,

    Kẻ ngu chẳng tự lượng,

    Dùng phương pháp thế này,

    Ýù muốn tiêu diệt hết.

 

Biết sự việc này rồi, như đại thương chủ được kỳ trân dị bảo, Anh-vũ vui mừng bảo Xá-lị:

 

    Anh bay về phương Bắc,

    Báo vua nước Thất-lị,

    Được vợ đẹp thông minh,

    Như biết nói tiếng được.

 

Xá-lị bảo:

 

    Thánh tử! Chàng bay đi,

    Về thăm vua Thất-lị,

    Bảy hôm, mau trở lại,

    Không nên ở lâu ngày.

 

Bay lên không trung, chẳng bao lâu về gặp lại Đại Dược, Anh-vũ đem hết sự việc kể lại. Đại Dược lần lượt tâu sự việc lên vua và khuyên không nên đi nữa.

 

Nghe nước kia không đến, vua bên này đem bốn loại binh sang thành Tỳ Đề Ê, vây kín bốn mặt không còn chỗ.

 

Vua cùng Đại Dược bàn tính mưu kế phải làm sao đây.

 

Đại Dược tâu:

 

- Không nên giao chiến, hãy làm kế ly gián.

 

Khi ấy, doanh trại bên kia có năm trăm đại thần đều nhận được nhiều trân bảo của nhà vua hối lộ. Nhận được vật quý, các đại thần đều thay đổi ý nghĩ, không nghe theo lời vua nữa.

 

Sau khi thi hành kế này, Đại Dược và vua sai sứ đến báo:

 

- Chẳng phải chúng tôi không thể chiến đấu với vua, đã là cha vợ tất nhiên rất thân, hãy suy nghĩ kỹ giữ thân là chắc chắn, bị đưa đến chỗ chúng tôi thì không còn tự do nữa. Nếu không tin, các ngài hãy kiểm tra, chúng tôi đã cho vật ... đến đại thần ... Năm trăm người ấy đều nhận tặng vật, nên sưu tra thì rõ hư thật.

 

Sau khi điều tra, sự việc đúng như thật, biết nội bộ đã chia rẽ nên vào nữa đêm vua ra lệnh thu quân. Vừa về đến thành, vua ra lệnh giết hết năm trăm đại thần và đưa con của họ lên thay thế.

 

Đại dược tâu vua:

 

- Sự việc đã như vậy, không còn khó khăn nữa, thần muốn đến cầu hôn với vương nữ, được không chưa biết, cần xem ý họ đã.

 

Vua nói:

 

- Tùy ý.

 

Đem binh đến nước Bán Giá La, Đại Dược tạm trú trong khu vườn.

 

Được vua bên ấy gọi vào thành, Đại Dược đáp:

 

- Tôi không vào thành, tạm thời xin ở nơi nhà đại thần.

 

Vua nói:

 

- Tùy ý.

 

Khi ấy, con của các đaị thần bàn nhau rằng giết cha chúng ta đều do Đ?i Dược, không nên thả kẻ thù này đi. Họ tâu lên vua:

 

- Vua Tỳ Đề Ê không có sách lược gì cả, vương nghiệp hưng thịnh đều nhờ vào công Đại Dược. Do đó không thể xâm lược họ được. Nay hãy lưu hắn lại không cho đi đâu cả. Thần mang binh đi phá thành ấy.

 

Vua khen hay. Họ dẫn bốn loại binh đến vây thành Tỳ Đề Ê.

 

Khi ấy, biết vua Bán Già theo đường ... đến thành Tỳ Đề Ê, Đại Dược còn đoán biết nơi cất giữ các trân bảo của vua cũng là chỗ vương nữ Diệu Dược đang cư trú. Đại Dược liền đột nhập vào cung đem hết trân bảo cùng Diệu Dược, thống lĩnh binh lính theo đường khác trở về. Vua tôi gặp nhau, tập họp hết các quan trong triều, cùng nhau vui mừng vô cùng.

 

Bấy giờ, người của nước Bán Già đến tâu vua về việc trân bảo cùng Diệu Dược đã bị mang đi mất. Nghe tin, vua vội ra lệnh rút quân.

 

Bấy giờ, vua nước này tổ chức hôn lễ lớn. Khi việc hôn nhân đã xong, vua đưa Diệu Dược lên làm đại phu nhân.

 

Vua Bán Già sai sứ đem thư đến cho Diệu Dược, ghi:

 

- Ta rất ưu buồn, con không biết hay sao. Hãy kín đáo tìm hiểu ai thông báo việc dùng thuốc độc trộn vào thức ăn để hại vua kia.

 

Được thư, tìm hiểu sự việc, biết tin kín ấy do Anh-vũ của Đại Dược báo lại, Diệu Dược sai sứ báo cho phụ vương.

 

Được tin, vua cha bí mật sai sứ báo tin:

 

- Do Anh-vũ xem xét sự việc về báo lại đến nỗi làm cho phân chia tan nát quốc gia ta. Hãy đưa Anh-vũ ấy đến đây.

 

Vương nữ nhốt Anh-vũ gửi đến phụ vương. Trông thấy Anh-vũ, vua rất phẫn nộ:

 

- Do con chim độc ác này làm cho nước mất, thân thuộc chia lìa, đừng bàn luận gì nữa hãy giết nó đi.

 

Lạy vua, Anh-vũ tâu:

 

- Cầu xin ngài cho tôi được chết theo phép tổ tiên. Chết như vậy, tôi sẽ không oán hận.

 

Vua phán:

 

- Hãy hành quyết theo phép của nó.

 

Đồ tể hỏi:

 

- Phép chết ấy thế nào?

 

Anh vũ đáp:

 

- Cột dây gai nhúng dầu mỡ vào đuôi tôi rồi đốt cháy, mặc cho tôi chết.

 

Nghe lời, đồ tể làm như vậy rồi thả chim ra. Anh-vũ vọt lên không trung tung hoành cái đuôi lửa làm cháy hết cả vương cung. Sau đó, chim lặn xuống ao tắm rửa, rồi vỗ cánh bay về Tỳ Đề Ê.

 

Đại Dược hỏi:

 

- Ngươi còn sống trở về sao?

 

Anh-vũ kể lại đầy đủ.

 

Đại Dược rất vui mừng.

 

Tức giận vô cùng, vua Bán Giá La lại gửi thư báo cho vương nữ biết do chim Anh-vũ đốt cháy cung điện nên phải cấp tốc trói chặt đưa sang. Thấy chim, vua rất phẫn nộ, sai đốt sạch lông và nấu nước sôi. Sau khi nhổ sạch lông, đồ tể vứt chim ra hiên và nói:

 

- Hãy đi đi.

 

Một diều hâu bay xuống tha chim đến một thần miếu. Thấy diều hâu muốn ăn mình, Anh-vũ nói:

 

- Ngài ăn thịt tôi chỉ được một ngày, nếu được tha cho, hằng ngày xin dâng thịt ngon hảo hạng để dùng no đủ.

 

Diều hâu nói:

 

- Ai sẽ tin ngươi?

 

Đáp:

 

- Tôi xin thề, lại nữa tôi không còn lông cánh nên chẳng thể bay được, trong một hai ngày sẽ thấy hư thật.

 

Anh-vũ lại bảo:

 

- Tuy anh có lòng thương ban ân nhưng chưa đến đúng chỗ. Xin đưa tôi đến bên miếu thiên vương, thả nhẹ xuống đất.

 

Nghe lời, diều hâu đưa chim đến miếu thần. Chim đi vào miếu, ẩn trong lỗ nhỏ sau lưng thần tượng.

 

Khi người giữ đền đem hương hoa đến cúng dường trước tượng thần, Anh-vũ lên tiếng:

 

- Ngươi hãy đi báo cho vua rằng vua có hành động ác làm cho các thần đều giận, sẽ bị tai họa do ta gây ra. Nếu không cúng dường, sẽ bị tai ương không ngừng, hằng ngày hãy hiến cúng nhiều thịt sống, mè, đậu nành, đựng trong một thăng. Giữ lòng thành như vậy, ta sẽ ban ân.

 

Người giữ đền đem việc này đến báo cho vua biết. Vua nói:

 

- Nếu như vậy, tùy theo lời dạy, ta sẽ làm tất cả để tế thần.

 

Qua nhiều ngày tháng, Diều hâu ăn thịt còn Anh-vũ ăn mè nên lông cánh mọc trở lại có thể bay được. Khi có ý muốn bay đi, Anh-vũ bảo người giữ đền:

 

- Ngươi hãy đi báo với vua, từ lâu đã cúng dường cho ta, lại có một việc ngươi không được làm trái. Vua và trong cung, các quan đều phải cắt tóc rồi đến gặp ta. Ta sẽ ban cho giàu có an lạc vô cùng.

 

Được sứ giả tâu, vua liền cạo sạch râu tóc, đi đến đền thờ, lạy sát thiên thần cầu xin sám hối.

 

Bay lên không trung, Anh-vũ nói kệ:

 

    Những việc gì đã làm,

    Đều phải có quả báo,

    Ngươi nhổ lông của ta,

    Nay, ta cạo đầu ngươi.

 

Nói xong, Anh-vũ vỗ cánh bay cao về đến chỗ Đại Dược.

 

Đại Dược hỏi:

 

- Ta lấy làm lạ vì sao ngươi ở lâu vậy.

 

Anh-vũ kể lại đầy đủ những việc đã trải qua. Nghe xong, rất vui mừng, Đại Dược tâu lên cho vua biết.

 

Rất thán phục, vua nói:

 

- Đại Dược! Khanh thật có phước nên được quyến thuộc đều thông minh. Tỳ Xá Khư trí tuệ hơn người, chim Anh-vũ trong đời khó có.

 

Sau đó, nhà vua suy nghĩ: "Trong các quan, ai có trí tuệ nhất".

 

Nhà vua giao cho mỗi đại thần một con chó để họ nuôi dưỡng trong thời gian ... như nhau, dạy làm sao cho nói được tiếng người. Sau khi đem chó về nhà mình, các quan ra sức nuôi dưỡng nhưng không có cách gì làm cho nói được tiếng người. Sau khi đem về nhà, Đại Dược cột chó ở gần bên chỗ ngồi ăn. Khi ăn, Đại Dược dùng những món bánh trái thơm ngon, bày la liệt ở trước. Trông thấy, nhưng chó không được cho một một miếng nào mà chỉ được cho ăn thức ăn dở đủ sống để không bị chết. Vì vậy, chó rất gầy ốm, chỉ còn xương da.

 

Vua ra lệnh tập họp tất cả các con chó mà đại thần đã nuôi dưỡng lại để kiểm tra xem chúng biết nói tiếng người không.

 

Đến nơi, các con chó khác đều mập mạp nhưng không biết nói . Thấy con chó của Đại Dược gầy ốm, vua hỏi:

 

- Chó của khanh vì sao ốm vậy?

 

Đáp:

 

- Đại vương! Vì thường cho ăn thức ăn như của thần.

 

Con chó liền nói:

 

- Người này nó dối. Tôi thường bị đói muốn chết đến nơi.

 

Đại Dược nói:

 

- Chính vua đã thấy chó này hiểu tiếng người.

 

Vua rất vui mừng, khen ngợi thật khác mọi người.

 

Sau đó một thời gian, vua lại thử các đại thần ai có trí tuệ, bằng cách giao các con dê cho từng người nuôi và bảo rằng:

 

- Phải nuôi cho mập nhưng trong thịt chúng không được có mỡ.

 

Những kẻ vô trí đều nuôi dê cho mập. Nhận dê, Đại Dược thường cho ăn uống đầy đủ làm cho nó to lớn nhưng lại làm chó sói bằng gỗ, thường xuyên đưa đến khủng bố.

 

Tuy dê được ăn uống đầy đủ nhưng không sinh mỡ vì sợ hãi. Sau khi giết dê, xét đúng sự thật, vua hỏi:

 

- Vì sao các con dê khác có mỡ, dê của khanh thì không?

 

Nghe được việc trên, vua khen:

 

- Thật là kỳ trí.

 

Một hôm, năm trăm người con của các đại thần cùng nhau tụ tập chơi đùa ở vườn hoa. Sau khi bàn luận đủ thứ chuyện, chúng hỏi nhau:

 

- Trong nhà ai có vật kỳ lạ, hoặc thấy nơi khác, hãy kể ra.

 

Sau khi mọi người đã kể ra, hỏi đến con của Đại Dược:

 

- Trong nhà bạn có điều gì kỳ lạ?

 

Đáp:

 

- Nhà tôi có cục đá nhờ sức thần chú hộ trì thả xuống nước thì nổi không chìm.

 

Mọi người nói:

 

- Chưa từng thấy đá nổi trên nước.

 

Chúng cùng cam kết, cá nhau năm trăm tiền vàng.

 

Con về báo cho cha:

 

- Con nói đá nổi và cá năm trăm tiền vàng.

 

Cha nói:

 

- Không nên đưa đá ra, hãy đem năm trăm tiền vàng giao cho họ.

 

Trong nhà Đại Dược có dạy một con khỉ giỏi âm nhạc. Đại Dược bảo con:

 

- Nhân lúc cùng mọi người tập họp, con hỏi rằng ai thấy có việc gì kỳ lạ. Khi mọi người nói xong, con nên bảo rằng tôi có con khỉ giỏi âm nhạc, thông thạo ca múa đàn sáo.

 

Mọi người bảo:

 

- Trước đây không có đá nổi nên bị phạt năm trăm tiền vàng, nay nếu không thật nữa thì phạt một trăm tiền. Nếu đúng sự thật, chúng ta đưa cho một trăm tiền vàng.

 

Đem con khỉ đến gặp vua, con của Đại Dược sai nó biểu diễn âm nhạc.

 

Sau khi mọi việc thành công, những người kia phải thanh toán một trăm tiền vàng. Vua nói rằng ta chưa từng thấy sự việc như vậy, nên rất vui mừng ban cho nhiều vật báu và khen:

 

- Trí của Đại Dược thật số một trong mọi người.

 

Trong thành này có một Bà-la-môn thông minh trí tuệ, học giỏi bốn minh luận, lấy vợ chưa bao lâu sinh được một gái nhan sắc xinh đẹp tên là Ô Đàm. Bà-la-môn này tự lập thệ rằng nếu có chàng trai nào đến học với ta mà giỏi bằng ta, sẽ gả con gái xinh đẹp này cho.

 

Khi cô gái này vừa mới lớn, trong nước có Bà-la-môn nọ sinh được một trai hình dáng đáng ghét đủ mười tám tướng xấu. Thấy vậy, cha mẹ không vui đặt tên là Ác Tướng. Đến tuổi vừa lớn, nhưng Ác Tướng không được cho học hành gì cả vì con xấu xí làm cha mẹ xấu hổ.

 

Khi lớn lên, anh này tự hận mình không biết gì nên vào thành để cầu học. Đến gặp vị Bà-la-môn thông tuệ kia, anh này làm lễ thưa:

 

- Con đến cầu sự lợi ích, mong thầy thương xót.

 

Vị thầy đồng ý. Không bao lâu, người học trò này học thông suốt hết luận thư của thầy. Bà-la-môn suy nghĩ: "Trước đây, ta đã thề như có ai học hết hiểu biết của ta, ta sẽ gả con gái cho. Tuy anh này xấu xí nhưng ta không nên trái lời thề. Ai phụ tâm mình thì không được sinh thiên. Dầu cho ta bị mọi người cười chê nhưng ta không trái lời thề".

 

Vị này, bày đủ lễ đem con gái gả cho anh kia. Cô gái ấy uy nghiêm xinh đẹp đáng sợ làm cho ÁcTướng không dám đến gần. Ác Tướng suy nghĩ: "Hiện nay, ta là khách nên trong lòng còn e dè, nên đem về nhà thì hành động tùy ý".

 

Trông thấy Ác Tướng, Ô Đàm không vui vẻ, suy nghĩ: "Ta đầy đủ nét đẹp còn chồng thì thô xấu, bị người cười chê, mặt mũi nào sống được".

 

Khi Ác Tướng đưa Ô Đàm về quê, trên đường đi hết cả lương thực, bị đói nên đến bên hồ nước. Có một người đi đường đang hòa bột sắp uống. Ô Đàm xin, họ cho một phần. Ác Tướng đem đến nơi khác, ăn một mình.

 

Ô Đàm nói:

 

- Nên chia cho em một phần, tạm dùng đở đói.

 

Ác Tướng bảo:

 

- Chư tiên xưa có quy chế đàn bà không được uống bột cho nên không cho.

 

Sau đó, đến đồng trống, gặp phải thịt rơi, Ác Tướng ăn một mình không chia cho Ô Đàm, và bảo:

 

- Vật này tiên xưa cũng không cho đàn bà ăn.

 

Ô Đàm suy nghĩ: "Ta thật không phúc đức nên cha mẹ gã cho kẻ ác này, thật đáng hối hận".

 

Đi đến cây ô-đàm bạt-la, Ác Tướng leo lên hái trái ăn.

 

Vợ nói:

 

- Hãy hái cho em ăn với, không nên ăn một mình.

 

Ác Tướng liền ném trái xanh xuống, ăn trái chín.

 

Vợ nói:

 

- Hãy thả trái chín xuống.

 

Đáp:

 

- Nếu muốn ăn trái chín, leo lên hái ăn.

 

Vì quá đói, người vợ leo lên cây hái trái ăn. Thấy vậy, Ác Tướng suy nghĩ: "Ta không có tướng mạo đẹp lại gặp phải người vợ thô tháo như vậy, tự leo lên cây cao hái trái để ăn. Lại nữa, tự ta cũng chưa nuôi nổi thân, ai lại nuôi thêm người vợ vô dụng này". Đã khinh ghét như vậy, Ác Tướng liền leo xuống, lấy gai chất chung quanh cây rồi bỏ đi.

 

Bấy giờ, nhân ra ngoài săn bắn, vua Trung Hưng đi đến gần rừng cây ấy. Bị mất chồng, người phụ nữ kia khổ não kêu gào than khóc. Nghe tiếng kêu, vua ra lệnh:

 

- Đây là rừng vắng, ai than khóc vậy.

 

Tìm theo tiếng khóc đến chỗ Ô Đàm, thấy nhan sắc cô ta như tiên nữ giáng phàm nên cho là thần tiên, vua hỏi:

 

- Vì sao thần tiên đến nơi này?

 

Ô Đàm nói kệ:

 

    Xin đại vương biết cho,

    Thiếp không phải thiên nữ,

    Cũng không phải thần tiên,

    Không chồng nên bị khổ.

 

Được vua sai người đưa xuống. Cô ta vui mừng vì thỏa ý bình sinh, liền lên xe cùng vua đi về cung.

 

Bấy giờ, đang đi trên đường, Ác Tướng bỗng hối hận:

 

- Ta làm việc sai rồi, vì sao vứt bỏ người vợ nhỏ nơi rừng vắng vậy, hãy trở lại đưa cô ta về nhà.

 

Đến dưới cây kia, Ác Tướng không thấy Ô Đàm. Người khác bảo:

 

- Nhà vua đã cho đi cùng xe, đưa vào trong cung rồi.

 

Nghe nói như vậy, rất buồn bã, Ác Tướng đi đến cửa cung vua nhưng không thể vào được. Nương theo người vận tải bình, anh ta đi vào trong. Thấy vợ cùng vua đang vui vẻ, tự nghĩ làm sao được nói chuyện, Ác Tướng mượn vào chuyện khác lớn tiếng nói kệ:

 

    Nàng đang trên ghế vàng,

    Mặt hoa thật xinh đẹp,

    Không cùng ta vui vẻ,

    Thợ giỏi cầm đao búa.

 

Cô ta nói kệ đáp:

 

    Đói khát đến bờ ao,

    Theo chàng xin bột uống,

    Bảo nữ không được phép,

    Rất hận, đáng giống trống.

    Cùng đi qua rừng vắng,

    Ăn thịt không chia phần,

    Nghĩ vậy, đến khổ thân,

    Khi múa, phải theo nhịp.

    Tự lên cây ô-đàm,

    Ăn trái chín, không cho,

    Nhớ đến thân tâm buồn,

    Hại bà sắp đến già.

 

Ác Tướng nói kệ:

 

    Nàng không nhớ đến ta,

    Học rộng, nhiều tài trí,

    Vì ta bị lỗi nhỏ,

    Bỏ ta, mãi biệt ly.

    Lên núi, tự rơi chết,

    Uống độc, chịu chết thân,

    Tội chết, nàng phải mang,

    Trẻ giỏi cố ôm nồi.

 

Cô ta đáp:

 

    Mặc ý chết đầu núi,

    Hay uống độc qua đời,

    Ta yêu, bị ông khinh,

    Làm sao mà đánh trống?

 

    (Trong các bài kệ này, câu thứ tư đều lấy việc trước mắt mà nói, ý muốn cho người khác không hiểu chứ không có nghĩa gì)

 

Khi hai người mượn vào lời khác để đối đáp nhau, vua hỏi:

 

- Lời của phu nhân nói có nghĩa gì, ta không hiểu, hãy nói cho nghe.

 

Ô Đàm nói rõ cho vua:

 

- Người này là chồng thiếp do cha mẹ gả cho, có nhiều trí tuệ thông thạo bốn minh luận, nay vì mong cầu thiếp nên đến đây.

 

Vua nói:

 

- Nàng hãy im lặng, không phiền nói chuyện nhưng hiện nay ý nàng thế nào, có còn tình cũ với người ấy không?

 

Đáp:

 

- Làm sao có việc ấy, đã làm cho người ấy hiềm khích thiếp rồi. Nhưng Bà-la-môn này biết nhiều chú thuật, không nên vội vàng gây khổ cho họ.

 

Vua liền đem sự việc báo cho Đại Dược biết. Đại Dược nói:

 

- Xin ngài đừng lo, thần làm cho cô ta rất yêu mến đại vương. Bà-la-môn ấy hình dáng xấu xí còn phu nhân xinh đẹp siêu quần, nên không dám thân cận.

 

Đại Dược bảo Bà-la-môn:

 

- Ông vào cung để cầu việc gì?

 

Đáp:

 

- Nhà vua đem vợ tôi vào cung.

 

Hỏi:

 

- Ông biết vợ không?

 

Đáp:

 

- Tôi biết.

 

Đại Dược nói:

 

- Ta gọi hết năm trăm cung nữ đến trước mặt, ai là vợ, ngươi được phép dẫn đi. Nếu ngươi nhầm lẫm, phải bị chém đầu.

 

Đáp:

 

- Xin tuân lời.

 

Vua ra lệnh:

 

- Các cung nhân đều trang sức đến gặp ta.

 

Họ đều trang sức tập họp đến như năm trăm thiên nữ trong cung Đế Thích, Ô Đàm cũng xen vào đi đến chỗ nhà vua.

 

Đại dược bảo Bà-la-môn:

 

- Biết vợ ông không?

 

Thấy họ đều trang sức rực rỡ phi thường, như rồng rắn bị cấm chú, Ác Tướng không nói gì được. Như mắt bị ánh mặt trời chiếu vào không mở được. Khi Bà-la-môn đang đứng nhìn sững, các cô gái đẹp đi qua hết, chỉ còn một tỳ nữ hình dáng như ngạ quỷ đi sau cùng. Ác Tưóng nắm lấy, bảo là vợ tôi.

 

Đại Dược nói:

 

    - Nếu là vợ ông, hãy tùy ý dẫn đi.

    Ác tướng dẫn cô ấy đi, nói kệ:

    Đẹp nhất yêu đẹp nhất,

    Người đẹp vừa yêu vừa,

    Ta dáng như quỷ đói,

    Yêu người giống như ta,

    Từ bỏ thiên-cung này,

    Đưa nhau về nhà quỷ,

    Hình sắc phải tương xứng,

    Muốn khác đi không được.

 

Vào lúc nọ, Đại Dược có lỗi nhỏ, vua chẳng vừa ý nên không nói đến. Vào ngự uyển, vua cùng cung nhân vui chơi suốt ngày. Khi ấy, phu nhân cởi chuỗi anh lạc bằng ngọc báu giá trị trăm ngàn lạng vàng, treo trên nhánh cây nhưng quên không lấy xuống. Chiều xuống cùng về phòng ngủ, tối đến, phu nhân mới nhớ lại.

 

Bấy giờ, chuỗi ngọc đã bị con khỉ lấy mang lên cây cao. Vua sai sứ giả cấp tốc đi lấy chuỗi ngọc lại nhưng không tìm được.

 

Có người hành khất lượm thức ăn thừa trong vườn xong, muốn đi ra. Sứ giả giữ lấy, bảo rằng không ai vào đây cả, ngươi hãy trả chuỗi ngọc lại cho ta.

 

Đáp:

 

- Tôi là người ăn xin, không thấy chuỗi ngọc.

 

Sứ giả đánh khảo người ấy và đưa đến quan, giam lại.

 

- Ta nên tìm cách, nếu ở đây nữa chắc phải chết đói. Nghĩ như vậy nên người ấy bảo sứ giả: "Tôi lấy chuỗi ngọc đưa cho con trưởng giả ... "

 

Sứ giả liền bắt con trưởng giả ... giam chung một cùm với người kia. Đến lúc ăn, con trưởng giả được ăn các món thơm ngon. Bị người hành khất theo xin thức ăn, con người trưởng giả nói:

 

- Ngươi làm việc này lại kéo luôn cả ta vào đây, không cho ngươi ăn.

 

Sau khi ăn, con trưởng giả muốn đi tiểu.

 

Đáp:

 

- Chưa đến lúc, tôi không đi với ông được.

 

Người này liền dùng lời êm dịu nói:

 

- Hãy cùng đi với ta, sẽ làm cho ngươi an lạc.

 

Đáp:

 

- Hãy cam kết xong, tôi sẽ nghe theo lời ngươi.

 

Sau khi người kia thề xong, liền cùng nhau đi tiểu.

 

Con trưởng giả bảo người nhà:

 

- Kể từ ngày mai đem đến đây hai phần ăn.

 

Nhờ đó, người ăn xin rất sung sướng, suy nghĩ:

 

"Trước đây, ta đi khắp thành phố mà không có đủ thức ăn dở để nuôi thân; nay không thiếu một món ăn ngon nào cả. Nhưng ta không thể nằm một mình, hãy khai kỹ nữ số một trong thành cũng có chia phần chuỗi ngọc với ta". Khi kỹ nữ bị bắt đến cùng nhốt chung một nơi. Người hành khất cùng cô ta tư thông, rất khoái ý, suy nghĩ: "Giả như bị nhốt đến hai mươi năm, ta cũng không cầu thoát ra". Nhưng đối với năm dục, anh ta vẫn chưa thỏa mãn, muốn nghe tiếng hát hay cho êm tai nên khai cho người ca nhạc lấy chuỗi ngọc. Tuy oan uổng nhưng người kia vẫn bị tù, người hành khất mặc tình hưởng thụ âm nhạc. Lần lượt kéo dài đến nhiều tháng, mọi người khổ cực bảo với người hành khất:

 

- Ngươi tha cho chúng ta, sẽ làm cho ngươi an lạc.

 

Người hành khất suy nghĩ: "Nếu họ ra hết, ai lại lo cho ta. Theo ta tính toán nếu không nhờ sự soi xét sáng suốt của Đại Dược, làm sao thoát được nơi ngục tối này".

 

Do đó, người này liền khai có chia chuỗi ngọc cho con của Đại Dược nên cậu ta bị bắt giam.

 

Đại Dược suy nghĩ rằng con ta bị giam trong ngục tối, làm sao ta ở yên được, vào tâu vua:

 

- Thần tuy có tội nhưng con thần không lỗi gì. Vì sao nó bị nhốt.

 

Vua nói:

 

- Chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn lạng vàng bị kẻ hành khất lấy đem ra ngoài phân chia nhau.

 

Sau khi nghe vua nói lại hết lý do, Đại Dược tâu:

 

- Xin vua chớ lo, chuỗi ngọc đeo cổ quý này không ai lấy đi cả, theo kế của thần tất mong lấy lại được, xin thả hết những người kia ra.

 

Nghe lời, vua thả bọn kia ra hết. Vào vườn hoa, đến chỗ đã mất chuỗi ngọc, nhìn lên cây cao, thấy con khỉ nên Đại Dược suy nghĩ: "Chuỗi ngọc kia chính là con khỉ này lấy đi nhưng phải bày cách mới lấy lại được".

 

Đại Dược tâu vua:

 

- Làm lại như trước, các cung nhân đều trang sức đeo chuỗi ngọc đi vào vườn.

 

Trông thấy như vậy, con khỉ cũng mang chuỗi ngọc vào cổ.

 

Đại Dược ra lệnh:

 

- Cung nhân hãy múa.

 

Thấy vậy, con khỉ múa theo.

 

Đại Dược ra lệnh:

 

- Tất cả cúi đầu xuống.

 

Thấy vậy, con khỉ cũng cúi đầu xuống, chuỗi ngọc rơi xuống đất.

 

Nhà vua rất mừng, khen ngợi trí giỏi, tha tội, ban thêm bổng lộc.

 

Bấy giờ, sáu đại thần nhân khi tụ họp lại một nơi, cùng bàn luận: "Trước đây, chúng ta đều được nhà vua mến trọng, phân cho lãnh thổ đều sống an nhàn. Ngày nay do bị thu lại nên nghèo cùng, không còn chút đất nào, họ chỉ đưa ra chút kỷ thuật liền được tiến thân làm cho chúng ta mất hết bổng lộc địa vị, bị xâm phạm thành ấp, biết làm sao đây?".

 

Một đại thần nói:

 

- Sau người chúng ta cùng nhau tuyên thệ không phản bội những điều cam kết nhau, đồng tâm hiệp lực dứt tuyệt oán thù. Đại Dược và vua đối với ta không còn hận, làm cho bổng lộc địa vị phục hồi như trước.

 

Sau khi bàn như vậy, sáng hôm sau cả sáu người cùng vào vườn hoa. Thấy họ cùng tụ tập một nơi, tất bàn luận việc trọng đại, Đại Dược nói hết cho Anh-vũ nghe và bảo:

 

- Ngươi vào vườn hoa, xem họ tụ tập bàn luận việc gì, rồi trở lại báo cho ta biết.

 

Bay đến nơi, núp trong bóng cây, Anh vũ nghe họ bàn luận.

 

Vào vườn hoa, sáu đại thần đều đem con trai con gái của mình ra đính ước với nhau rồi nói:

 

- Đã là thân thuộc rồi, không con nghi ngờ nhau nữa, đừng cho tiết lậu mưu kế ra bên ngoài, hãy nói thật với nhau.

 

Một người nói rằng trước đây đã từng ăn chim công của vua. Một người nói rằng ta cùng cung nhân tư thông. Những người khác đều nói ý nghĩ trong lòng ra, cùng nhau mưu sự. Sau khi bàn bạc, sáu người cùng ăn uống với nhau.

 

Nghe xong, Anh-vũ báo cho Đại Dược biết. Đại Dược vào cung báo cho vua:

 

- Đại thần của vua trung lương như vậy đó, xin hãy suy xét xem sự việc thế nào.

 

Hỏi ra, vua biết tất cả đều đúng nên đuổi bọn họ ra tận biên giới.

 

Đức Phật bảo các Bí-sô:

 

- Các ông chớ có phân vân, Đại Dược ngày xưa, nay chính là Ta. Vua Trung Hưng là Xá Lị Phất. Sáu đại thần ấy là Lục sư. Ngày xưa, Ta đã đuổi bọn họ. Nay Ta là bậc tối tôn trong ba cõi, hiện đại thần thông đuổi bọn Lục sư ngoại đạo. Các Bí-sô nên thân cận thiện tri thức, nhờ bậc tri thức nên thông đạt tất cả sách vở trong ngoài, và được kết quả thành tựu thịnh đức như vậy. Các ông nên tu học như vậy.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Quyển thứ hai mươi tám hết

 

--- o0o ---

 

Quyển thứ hai mươi chín

 

--- ooOoo ---

 

Tiếp theo trong tụng thứ tư trong biệt môn sáu.

 

Thuyết minh sự việc Đức Phật đi xuống từ cung trời.

 

* Một thời, tại thành Thất La Phiệt, Đức Phật hiện đại thần thông chiến thắng các ngoại đạo, làm cho vô lượng chúng sinh được lợi ích nên họ cùng nhau quy y. Tất cả trời người đều rất hoan hỷ. Có nhiều Bà-la-môn và thợ giỏi ở các thành phố làng xóm gần xa đến tập họp ở thành Thất La Phiệt, đều xuất gia với Thế Tôn. Để tìm họ, quyến thuộc của những người ấy cũng đến thành này. Gặp họ, quyến thuộc bảo:

 

- Quý ngài đã bỏ tục xuất gia, xin làm cho chúng tôi được sống như vậy.

 

Đáp:

 

- Nếu các vị ưa thích, hãy ở lại đây thọ lĩnh giáo pháp.

 

- Lành thay, tôi sẽ tu tập. Họ cùng nhau xuất gia.

 

Thấy vậy, các Bà-la-môn hiềm khích:

 

- Những người thợ này bỏ tục xuất gia, các công việc mà ta muốn làm phải nhờ ai đây?

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Do suy nghĩ rằng sau khi xuất gia, những người thợ giỏi còn giữ những đồ nghề lúc trước nên gây ra hiềm khích, Phật bảo các Bí-sô:

 

- Sau khi xuất gia, không nên cất chứa những đồ nghề làm thợ lúc trước nữa. Ai giữ như vậy, bị tội ác tác.

 

Sau khi Phật chế học giới, có thầy thuốc sau khi xuất gia, lần hồi du hành đến thành Thất La Phiệt. Có Bí-sô cựu trú bị bệnh nặng, thấy Bí-sô khách đến, bảo rằng:

 

- Cụ thọ xin trị bệnh cho tôi.

 

Đáp:

 

- Phật không cho phép người nào trước đây là y sĩ, nay được cất giữ y-cụ, vậy dùng vật gì để trị bệnh?

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Từ nay, Ta cho phép các Bí-sô nào trước đây là y-sĩ được cất giữ dụng cụ châm cứu. Người ghi chép được giữ bút mực. Thợ cạo tóc được giữ dao cạo.

 

* Duyên xứ như trước, sau khi hiện thần biến làm cho trời người hoan hỷ, đức Phật và Bí-sô được cúng nhiều vật dụng. Để đoạn trừ các lỗi về lợi dưỡng, đức Thế Tôn lên cõi trời Ba mươi ba, an cư ba tháng trong điện Ngọc Thạch gần cây Viên Sinh và thuyết pháp cho mẹ cùng các chư thiên khác.

 

Bấy giờ, Đại Mục Kiền Liên đang ở rừng Thệ Đa. Thấy không có Thế Tôn, bốn chúng đều đến gặp Đại Mục Kiền Liên lạy sát chân, ngồi qua một bên. Thấy họ đến, Tôn giả tùy theo căn cơ thuyết pháp làm cho họ hoan hỷ rồi im lặng. Khi ấy, bốn chúng đứng dậy, mặc y bày vai bên phải, chắp tay cung kính bạch tôn giả:

 

- Đại đức có nghe Như Lai đại sư đang an cư ở đâu không?

 

Tôn giả đáp:

 

- Tôi nghe Phật đến cõi trời Ba-mươi-ba, an cư trong điện Ngọc Thạch, gần cây Viên Sinh, thuyết pháp cho mẹ.

 

Đã nghe thuyết pháp lại được biết Thế Tôn đang ở đâu, bốn chúng rất hoan hỷ làm lễ Tôn Giả từ giã.

 

Sau mùa an cư, bốn chúng lại đến lạy sát chân Tôn giả rồi ngồi qua một bên. Sau khi nghe Tôn giả thuyết pháp xong, họ đứng dậy lạy sát chân và thưa:

 

- Đại đức, từ lâu mọi người không được gặp Phật nên rất khao khát. Chúng con mong muốn được gặp Thế Tôn. Lành thay đại đức, xin chịu khó nhọc vì chúng con mà đến gặp Thế Tôn, cho chúng con gửi lời đảnh lễ sát chân Ngài, thăm hỏi trong mùa hạ này Thế tôn sinh hoạtan nhàn, thân thể có khỏe mạnh không, đồng thời thưa rằng bốn chúng trong châu Chiêm-bộ mong muốn được diện kiến Thế Tônxa cách đã lâu. Chúng con không có thần thông để lên đến cõi trời Ba-mươi-ba mà thân cận cúng dường Thế Tôn nhưng chư Thiên ấy đến cõi này được, xin đức Phật từ bi thương xót chúng con.

 

Đại Mục Kiền Liên im lặng nhận lời. Biết tôn giả nhận lời, mọi người làm lễ từ giã.

 

Biết đại chúng đã đi khỏi, Tôn giả nhập vào thắng định, nhanh như thời gian người tráng sĩ co duỗi cánh tay, biến mất ở đây và hiện racõi trời Ba-mươi-ba. Trông thấy Thế Tôn đang thuyết giảng vi diệu pháp cho vô lượng vô biên chư Thiên vây quanh, bất giác Tôn giả Mục Kiền Liên mỉm cười suy nghĩ: "Thế tôn đến đây, chư Thiên vây chung quanh như vô số bốn chúng ở cõi Chiêm-bộä".

 

Biết ý nghĩ của Mục Kiền Liên, Thế Tôn bảo:

 

- Này Mục Liên, đại chúng này chẳng phải tự đến mà đều do uy lực của Ta nên đến đây.

 

Mục Kiền Liên đến gặp Thế Tôn, lạy sát hai chân Phật rồi ngồi qua một bên, quan sát khắp đại chúng rồi bạch Phật:

 

- Thế tôn! Con nghĩ rằng đại chúng này rất là đặc biệt hiếm có. Họ tập họp lại đây là do đời trước đối với Tam BảoThánh giới thanh tịnh đã thành tựu lòng tin kiên cố bất hoại, qua đời ở nơi ấy mà sinh đến đây.

 

Phật bảo Mục Liên:

 

- Đúng vậy! Đúng vậy! Do đời trước đại chúng này đã thành tựu lòng tin kiên cố bất hoại đối với Tam BảoThánh giới thanh tịnh, qua đời ở đó và sinh đến đây.

 

Thấy Đức PhậtTôn giả Mục Kiền Liên luận thuyết như vậy, ngay trước Phật, Thiên Đế Thích xác định lại sự việc trên với Tôn giả Mục Liên là do họ kính tín Tam BảoThánh giới thanh tịnh ... nên sinh đến đây.

 

Lại có vị Thiên tử xác định lại việc trên với Tôn giả Mục Kiền Liên là do họ kính tín Tam BảoThánh giới thanh tịnh nên sinh đến đây.

 

Lại có Thiên tử rời khỏi chỗ ngồi, mặc y bày vai phải, chắp tay cung kính bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Do tiền thân con rất tin Phật nên khi từ bỏ nơi ấy thì sinh đến đây.

 

Lại có vị Thiên khác thưa rằng do đời trước con có tâm tịnh tín Tam Bảothọ trì đầy đủ thánh giới thanh tịnh, qua đời nơi ấy sinh đến chỗ này.

 

Khi ấy, ngay trước đức Phậtvô lượng trăm ngàn vị Thiên chứng quả Tu-đà-hoàn, làm lễ Phật rồi biến mất.

 

Thấy đại chúng đã ra đi, Mục Kiền Liên rời chỗ ngồi, mặc y bày vai phải, chắp tay hướng Phật bạch:

 

- Thế Tôn! Bốn chúngChiêm Bộ Châu đều chí thành đến gặp con thưa rằng:

 

- Đại đức! Từ lâu không gặp Thế Tôn, chúng con đều rất khát ngưỡng, muốn được gặp Thế Tôn. Lành thay! Đại đức! Xin ngài chịu khó vì chúng con mà đi đến gặp Thế Tôn, truyền lại lời chúng con xin đảnh lễ dưới chân Phật, thỉnh vấn Đại-sư từ trong hạ đến nay sinh hoạtthoải mái mạnh khỏe an lạc không? - Bốn chúng chúng con không có thần thông để đến cõi trời Ba mươi ba làm lễ sát chân Thế Tôn và thân cận cúng dường nhưng chư Thiên cõi ấy có thể đến nơi này. Lành thay! Thế Tôn! Xin từ bi thương xót rời khỏi cõi Thiên ấy đi xuống Chiêm Bộ Châu.

 

Nghe thưa như vậy, Thế Tôn bảo Mục Liên:

 

- Ông hãy trở về Chiêm Bộ Châu nói với bốn chúng rằng bảy ngày sau Phật sẽ rời cõi trời đi xuống Chiêm Bộ Châu ngay bên cạnh cây Ô-đàm bạt-la, nơi đồng trống thanh-tịnh, thuộc thành Tăng Yết Xa.

 

Nghe Phật dạy xong, Đại Mục Kiền Liên lạy sát chân Phật, nhập định rồi như trong thời gian người tráng sĩ co duỗi cánh tay, biến mất ở cõi trời Ba mươi bahiện raChiêm Bộ Châu, bảo với bốn chúng rằng bảy ngày sau đức Phật từ cõi trời trở lại Chiêm Bộ Châu, gần nơi cây Ô-đàm bạt-la.

 

Khi ấy, bốn chúng đều mang hương hoa đi đến thành Tăng Yết Xa. Nghe đức Phật sắp trở lại, nhân dân trong thành rất hoan hỷ, dọn sạch các vật nhơ bẩn, quét sạch các ngã đường, dùng nước thơm hoa đẹp rưới rãi trên đất, trang trí bằng tràng phan cờ lọng khắp nơi như vườn Hoan hỷ rất đáng yêu mến, bố trí tòa cao đẹp ngay một nơi tốt nhất để chờ đón Như Lai.

 

Sau khi tùy cơ thuyết pháp làm cho chư Thiên cõi trời Ba mươi ba lợi ích hoan hỷ xong, Đức Như Lai biến mất ở đó, đem chư Thiên đến thuyết pháp cho cõi trời Dạ Ma. Thuyết pháp xong, Ngài biến mất ở đó đem chư Thiên đến thuyết pháp cho trời Đổ Sử Đa. Lần lượt như vậy, Ngài đến các cõi trời Hóa Lạc, Tha Hóa Tự Tại, Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại Phạm, Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Quang Âm, Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh, Vô Vân, Phước Sinh, Quảng Quả, Vô Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Kiến, Thiện Hiện, Sắc Cứu Cánh ... làm cho lợi ích hoan hỷ xong, lại trở xuống cõi trời Thiện Hiện cho đến trời Ba mươi ba.

 

Bấy giờ, Đế Thích bạch Phật:

 

- Hiện nay Thế Tôn sắp đi đến Chiêm Bộ Châu.

 

Đáp:

 

- Đúng vậy.

 

Bạch:

 

- Ngài dùng thần thông hay đi bộ?

 

Đáp

 

- Đi bộ.

 

Đế Thích ra lệnh cho thiên tử thợ giỏi:

 

- Ngươi hãy hóa làm cầu thang đi với ba đường báu là vàng ròng, lưu-ly, pha-lê.

 

Vị thiên này vâng lời và làm cầu thang đi có ba đường báu.

 

Trên cầu thang, Thế Tôn đi trong đường bằng lưu-ly. Đại-phạm Thiên vương chủ thế giới Tố Ha đi trên đường bằng vàng ròng bên phải, tay cầm phất trắng vi diệu giá trị trăm ngàn lạng vàng cùng chư Thiên cõi Sắc làm tùy tùng. Thiên Đề Thích đi trên đường bằng pha-lê bên trái, tay cầm lọng quý trân câu giá trị trăm ngàn lạng vàng che trên Thế Tôn, cùng chư Thiên cõi Dục làm tùy tùng.

 

Đức Phật suy nghĩ: "Nếu Ta chỉ đi bộ, e ngoại đạo chê bai rằng Sa-môn Kiều Đáp Ma dùng thần thông đến cõi trời Ba-mươi-ba, thấy các sắc vi diệu làm tâm sinh tham ái bị mất hết thần thông nên đi bộ về. Nếu Ta dùng thần thông thì uổng công cho thợ trời. Ta nên vừa dùng thần thông vừa đi bộ đến Chiêm Bộ Châu".

 

Khi Thế Tôn bước theo bậc cấp báu đi xuống vừa chừng hai mươi Du-thiện-na, hơi ngươi xông lên hôi thúi như tử thi làm cho chư Thiên không thể ngửi nổi.

 

Biết như vậy, Thế Tôn hóa ra rừng Chiên-đàn-ngưu đầu tỏa hương thơm ngát làm cho mọi người hoan hỷ. Biến hóa như vậy xong, Thế Tôn lại suy nghĩ: "Nếu người nam ở Chiêm Bộ Châu thấy Thiên nữ hay người nữ thấy Thiên nam tất bị ái nhiễm. Do tâm dục bùng cháy quá mạnh làm cho họ bị trào máu nóng chết ngất phải qua đời. Ta nên dùng thần lực làm cho người nam thấy Thiên nam, người nữ thấy Thiên nữ. Làm như vậy, khiến cho tâm họ không bị ái nhiễm quấy nhiễu.

 

Bấy giờ vào lúc ban ngày, đang ở yên tịnh dưới gốc cây, trông thấy đại chúng chư Thiên cung kính vây quanh, Thế Tôn với uy đức tôn trọng đang từ cõi trời Ba-mươi-ba xuống chốn này, cụ thọ Tu Bồ Đề suy nghĩ:

 

- Các vị đại đức chư Thiên kia rồi phải từ giã Phật trở lại thiên giới. Đại chúng này trong vòng trăm năm cũng sẽ qua đời hết. Sau khi hóa duyên đã mãn, đức Phật cũng nhập Niết-bàn. Những uy nghiêm như thế này đều bị tiêu diệt. Lành thay, Thế Tôn đã dạy như vầy khắp nơi: Các hành vô thường, thể chất luôn thay đổi, pháp sinh diệt này, thật là đáng ghét.Ta nên sinh tâm nhàm chán quán sát năm thủ ấm là Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Sau khi liễu tri như vậy, Tôn giả dùng chày trí tuệ kim-cương phá tan núi hai mươi thân kiến, chứng quả Dự-lưu, đắc bất hoại tín. Tôn giả liền xả kiết già, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính hướng về Thế Tôn chiêm ngưỡng lễ bái.

 

Khi ấy, Bí-sô ny Ôn Bát La (Liên Hoa) suy nghĩ: "Từ thiên thượng, đức Phật đi xuống cõi Chiêm-bộ, ta phải bằng cách nào để được làm lễ Phật đầu tiên. Đại chúng vân tập không còn chỗ xoay gót chân, nếu thấy ta với hình dáng Bí-sô ny, tất họ sẽ xem thường, làm sao ta tiến tới. Nay ta nên hiện thần thông lớn".

 

Ôn Bát La hóa thân thành vua Chuyển Luân với bảy báu dẫn đường, chín mươi chín ức quân binh vây quanh, đủ một ngàn người con uy hùng tuấn tú theo đội hình bán nguyệt đến chỗ Thế Tôn. Có vô lượng ức chúng Sa-môn, Bà-la-môn, ngoại đạo, nội đạo, vô số bốn chúng tùy tùng theo khen việc chưa từng có, trên cầm lọng trắng bay theo chiều gió, như mặt trời phóng ngàn tia sáng, mặt trăng tỏa rạng vượt trên ngân hà, trang sức tráng lệ khó tưởng tượng như vậy đi đến chỗ Thế Tôn.

 

Thấy như vậy, đại chúng đều thán phục chiêm ngưỡng quên cả mệt mỏi và lấy làm kỳ lạ suy nghĩ: "Ở đâu có vua cùng binh lính khả ái như vậy, đều là luân vương đế chúa ở nơi khác".

 

Sau khi thấy như vậy, mọi người đều có ý mong cầu làm sao cho ta được hưởng thụ sự thích thú này nên cùng nhau mở đường cho đoàn người kia tiến vào.

 

Đang ở trong chúng hội này, Bí-sô Ô Đà Di bảo mọi người:

 

- Đây chẳng phải Luân vương mà là Bí-sô ny Ôn Bát La hiện thần thông đến làm lễ Phật.

 

Đại chúng hỏi:

 

- Vì sao đại đức biết đó là Bí-sô ny Ôn Bát La?

 

Đáp:

 

- Hoa Ôn Bát La mùi thơm phưởng phất, sắc đẹp của hoa cũng vượt trên các loại khác, thế nên tôi biết là do vị ấy hiện thần biến.

 

Khi đến gặp đức Phật, Bí-sô ny này thu thần biến lại, đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng qua một bên.

 

Sau khi an tọa, Thế tôn bảo Ôn Bát La:

 

- Con hãy tránh qua một bên, Bí-sô ny không được đứng trước mặt Ta. Đối trước Đại-sư, ny hiện thần thông là việc không hợp lý.

 

Bị Phật quở trách, vị này bước qua một bên.

 

Đức Phật suy nghĩ: "Trước mặt Phật, ny hiện thần thông có lỗi như thế, vậy nên chế định chư ny không được hiện thần thông trước Đại sư".

 

Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Từ đây về sau, các Bí-sô ny không được hiện thần thông trước Đại sư. Ai làm như vậy, bị tội vượt pháp.

 

Thấy Luân vương này có uy thế lớn, đại chúng đều sinh tâm mong muốn cầu sinh vào cõi người. Thấy chư Thiên sáng rực khả ái, lại có người sinh tâm mong muốn cầu đến cõi trời.

 

Thấy sự việc như vậy, Thế Tôn muốn ngăn ý nguyện cầu sinh vào trời người kia nên tùy theo cơ duyên mà thuyết diệu pháp cho họ. Được nghe pháp, họ chứng quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, hoặc có người xuất gia đoạn trừ các phiền não chứng quả A-la-hán, hoặc phát tâm Thanh văn Bồ đề, hoặc phát tâm Độc Giác Bồ Đề, hoặc phát tâm Vô thượng đại Bồ đề, hoặc phát các thiện căn noãn, đảnh, hoặc phát tâm nhẫn thuộc trung hạ, làm cho khắp đại chúng đều quy y Tam Bảo.

 

Với nhân duyên như vậy, Thế Tôn nói kệ:

 

    Dù làm vua Chuyển luân,

    Hay sinh lên cõi trời,

    Tuy đắc được thắng định,

    Không bằng quả Dự-lưu.

 

Khi Thế Tôn dạy bảo giáo pháp vi diệu làm cho đại chúng lợi ích hoan hỷ xong, các Bí-sô đều có nghi ngờ, bạch Phật:

 

- Vì sao cụ thọ Ô Đà Dy nghe mùi hương Ôn Bát La biết ngay là vị ny ấy?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Không phải chỉ ngày nay nghe mùi hương là biết ngay mà thời quá khứ cũng từng nghe mùi hương thì biết rõ sự việc. Các ông hãy lắng nghe, vào thời quá khứ tại thành Ba La Ny Tư có một chủ buôn. Ông ta cưới vợ chưa lâu thì bà ấy có thai. Chủ buôn muốn vào biển lớn để tìm trân bảo nên bảo vợ:

 

- Hiền thủ! Ta sẽ đến nơi khác tìm kiếm tài sản quý báu. Em nên ở nhà, quan tâm trông coi nhà cửa.

 

Đáp:

 

- Thánh tử! Nếu như vậy, em cũng đi theo.

 

Hỏi:

 

- Ai sẽ phục vụ cho em?

 

Nghe vậy, người vợ khóc lóc. Thấy cô ta bi lụy, người bạn đồng hành hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

- Cô ta muốn đi theo, tôi không cho nên khóc lóc.

 

Hỏi:

 

- Ý cô ấy muốn đi, sao không chìu theo?

 

Đáp:

 

- Ai phục vụ cho?

 

Người bạn nói:

 

- Hãy cho cô ấy đi, tôi sẽ làm.

 

Cho vợ theo, khi vào biển lớn bị cá Ma kiệt phá tan thuyền, chủ buôn và mọi người đều chết. Người vợ trôi nổi, gặp một mảnh ván, may nhờ gió thổi đưa đến bờ biển. Có vua Kim Sí Điểu đang cư trú ở đó, đem cô này về làm vợ. Không bao lâu, do cái thai trước đây, người vợ sinh một bé trai hình dáng tuấn tú. Sau đó, cô ta lại sinh ra một chim con hình dáng như Sí Điểu.

 

Khi chim cha qua đời, bầy chim lập chim con lên ngôi vua. Mẹ bảo con:

 

- Con thừa kế tộc họ của cha mà lên ngôi. Đây là anh con, hãy đem về Ba La Ny Tư, lập làm vua giữa mọi người.

 

Đáp:

 

- Quốc mẫu, con sẽ làm như vậy.

 

Bấy giờ, vua nước Ba La Ny Tư là Phạm Thọ dùng pháp trị đời, làm cho an ổn giàu vui ... nói rộng như các nơi khác. Trong lúc vua đang lâm triều, ngồi giữa mọi người, bị vua Kim Sí Điểu dùng vuốt của hai chân vồ lấy hai tay vua, mang ném ra ngoài biển lớn, đem các anh lạc trang sức cho anh mình, mang vào trong thành, đặt ngồi trên tòa sư tử, bảo với mọi người:

 

- Đây là vua các ngươi, hãy hoàn toàn phục tùng, nếu ai chống lại sẽ bị chìm ngoài biển lớn.

 

Mọi người sợ hãi, tuân lệnh làm theo và không dám tiết lộ việc này ra ngoài nên dân chúng đều cho rằng đấy là vua Phạm Thọ.

 

Bấy giờ vua bảo Kim Sí Điểu:

 

- Em thường xuyên đến thăm anh nhé.

 

Đáp:

 

- Em đ?n.

 

Một thời gian sau, voi mẹ của vua khi đủ tháng sinh con nhưng chỉ ra phần đầu, phần thân không ra. Quan báo vua biết. Vua nói:

 

- Hãy đưa vào cung, bảo các cung nhân phát thệ bằng lời nói thật làm cho voi sinh con nhanh. Nên chú nguyện thế này:

 

- Nếu ngoài vua ra, ta không quan hệ với đàn ông khác, đúng như vậy thì voi con được sinh ra an ổn.

 

Khi đem voi mẹ vào cung, những cung nhân đều phát thệ:

 

- Ngoài vua ra, ta không quan hệ với người đàn ông nào, nếu là sự thật xin voi con ra ngoài.

 

Tuy đã thệ như vậy, voi mẹ hết sức khổ cực nhưng voi con vẫn không ra được. Mọi người kêu lớn không biết phải làm sao.

 

Khi ấy, có phụ nữ chăn bò, nhà ở gần đó, nghe tiếng kêu nên hỏi lý do:

 

- Vì sao trong cung có tiếng kêu lớn.

 

Nghe mọi người nói lại đầy đủ, mục nữ nói:

 

- Tôi sẽ phát thệ làm cho voi con được sinh an ổn.

 

Nghe như vậy, mọi người báo cho đại thần. Đại thần tâu vua cho gọi vào cung. Mục nữ liền dùng lời chân thật chú nguyện trước voi:

 

- Từ khi sinh ra đến nay, trừ chồng ra, ta không quan hệ với đàn ông khác. nếu lời này chân thật xin cho voi con được sinh an ổn.

 

Khi mục nữ phát thệ xong, voi con liền được ra ngoài an ổn nhưng còn dính lại phần đuôi.

 

Thấy vậy, mục nữ mỉm cười nói:

 

- Có chút lỗi mà cũng không tha cho.

 

Nội nhân hỏi:

 

- Người có lỗi gì?

 

Đáp:

 

- Trước đây, tôi bồng con trai của người, trẻ con ấy xón ra chảy xuống chỗ kín của tôi. Ngay khi ấy, hình như tôi có cảm thọ lạc. Do chút lỗi này nên đuôi không ra ngoài.

 

Khi mục nữ nói thật như vậy, đuôi liền ra ngoài.

 

Quan báo vua biết:

 

- Voi đã sinh con.

 

Vua hỏi:

 

- Ai làm cho sinh vậy?

 

Nghe đại thần đem sự việc trên tâu lên, vua than thở:

 

- Cung nữ của ta đều không trinh lương, chỉ riêng mục nữ là thanh bạch. Hãy mời mục nữ vào đây, ta cần hỏi.

 

Khi bà ấy vào, vua hỏi:

 

- Bà dùng lời nói thật làm cho voi sinh được phải không?

 

Đáp:

 

- Đúng vậy.

 

Vua suy nghĩ:

 

- Mẹ đã hiền thiện, con cũng như vậy, thử hỏi xem.

 

Vua hỏi:

 

- Bà có con gái không?

 

Đáp:

 

- Có.

 

Hỏi:

 

- Tên gì?

 

Đáp:

 

- Diệu Dung.

 

Hỏi:

 

- Đã gả cho ai chưa?

 

Đáp:

 

- Chưa.

 

Hỏi:

 

- Mẹ ơi, nếu như vậy, xin gả cho con.

 

Đáp:

 

- Xin theo ý vua.

 

Sau khi bày biện lễ nghi rước cô kia vào cung, nhà vua suy nghĩ:

 

- Cung nữ không trinh thuận làm hỏng cả lời thề, nếu cho cô ta ở đây tất làm việc phi pháp.

 

Một hôm, nhân có Kim Sí Điểu đến, vua kể lại sự việc trên, rồi bảo:

 

- Ban ngày em mang vợ anh đem đặt ở bờ biển, ban đêm đưa đến đây.

 

Đáp:

 

- Xin vâng.

 

Được vua giao vợ cho, Kim Sí Điểu theo đúng lời giao ước ngày đem đi, đêm đưa về lại.

 

Bên bờ biển ấy có cây hoa thơm đẹp tên là Khứ-y. Hằng ngày, người vợ kết vòng hoa này tặng cho Phạm-Thọ.

 

Thành Ba La Ny Tư có thanh niên Bà-la-môn đi hái củi khô nên vào trong núi, gặp thần nữ Khẩn Na La. Nữ thần liền bắt anh này bỏ vào động đá cùng nhau giao hợp rất là thích ý.

 

Khi ra ngoài hái hoa quả, thần nữ dùng đá lớn lấp cửa hang lại, sức người không dời đi được. Thời gian sau, nữ thần sinh một con trai. Khi đi, thân hình người con này rất nhẹ nhanh nên có tên là Rất Nhanh. Người cha thường bảo cho con biết:

 

- Thành Ba La Ny Tư là nơi tốt đẹp.

 

Hỏi:

 

- Quê cha ở đâu?

 

Đáp:

 

- Ba La Ny Tư là quê của ta.

 

Hỏi:

 

- Nếu vậy, sao không về quê?

 

Đáp:

 

- Khi ra ngoài hái hoa trái, mẹ con dùng đá lấp kín miệng hang; ta không đủ sức dời đi, làm sao ra được!

 

Người con nói:

 

- Con sẽ mở được.

 

Cha khen:

 

- Rất tốt.

 

Người con thường thường tập di chuyển thử đá cho đến khi đủ sức dời tảng đá lớn, bảo với cha:

 

- Đã mở cửa được rồi, cha con ta cùng chạy trốn.

 

Cha đáp:

 

- Mẹ con vừa đi hái trái một lúc lại về ngay, làm sao ta chạy thoát. Nếu trên đường gặp nhau tất ta bị hại.

 

Đáp:

 

- Con tạo điều kiện để mẹ về chậm.

 

Cha khen:

 

- Rất tốt.

 

Khi mẹ đem trái về, người con cắn vào rồi nhả ra.

 

Mẹ hỏi:

 

- Sao vậy, không ngon à?

 

Đáp:

 

- Mẹ biếng đi xa, chỉ tìm trái đắng ở gần, làm sao ăn được nên con phải nhả ra.

 

Mẹ nói:

 

- Nếu vậy, mẹ sẽ đi xa tìm trái ngon về.

 

Đáp:

 

- Lành thay, mong được trái ngon.

 

Vào buổi sáng, khi người mẹ đã đi xa, con báo với cha:

 

- Lúc này hãy chạy mau không nên để trễ.

 

Xô tảng đá ra, hai cha con cùng chạy về quê người cha ở Ba La Ny Tư.

 

Khi về lại, người mẹ thấy hang đá trống trơn, đấm ngực khóc to.

 

Thấy vậy, láng giềng hỏi:

 

- Vì sao khóc như vậy.

 

Nghe kể lại sự việc, láng giềng nói:

 

- Họ là loài người nên chạy về nhân gian, có gì phải buồn khổ?

 

Mẹ nói:

 

- Tôi không buồn vì sự biệt ly này, chỉ hận chưa dạy cho nó một nghề để nuôi sống.

 

Láng giềng nói:

 

- Tôi cũng thường đến Ba La Ny Tư. Nếu có vật để nuôi sống hãy đưa đây, khi gặp con bà, tôi sẽ giao cho nó.

 

Đưa cây đàn Không-hầu, người mẹ nói:

 

- Chị ơi! Xin đưa vật này tận tay con tôi, bảo nó có thể đàn cây Không-hầu này để nuôi sống nhưng không được xử dụng dây thứ nhất. Nếu ai xúc chạm vào, tất bị tổn hại.

 

Người kia mang đàn đi.

 

Bấy giờ, người Bà-la-môn kia đem Rất Nhanh đến giao cho thầy dạy học. Vị thầy liền dạy bảo ngay.

 

Nhân ngày rãnh rỗi, Rất Nhanh đi vào rừng hái củi, gặp người láng giềng. Người này hỏi:

 

- Hiện nay con ra sao?

 

Đáp:

 

- Thường bị đói khổ, biết làm thế nào.

 

Người kia nói:

 

- Mẹ con thương nhớ khóc lóc luôn luôn, sao không về lại?

 

Rất Nhanh đáp:

 

- Mẹ là Dạï-xoa, làm sao sống chung được.

 

Người kia nói:

 

- Nếu không về được, ta đưa cho con vật này để nuôi sống nhưng không được đưa cho người khác.

 

Đáp:

 

- Xin vâng.

 

Đưa cây đàn, người kia bảo:

 

- Dùng đàn này để sinh sống nhưng không được đụng đến dây thứ nhất. Ai chạm vào tất bị tổn hại.

 

Đáp:

 

- Lành thay! Con xin vâng lời.

 

Ôm cây đàn về đến học đường, Rất Nhanh bị các bạn cùng lớp hỏi:

 

- Sao bạn đến trễ vậy?

 

Đáp:

 

- Gặp bạn của mẹ tôi giao cho không hầu này.

 

Mọi người hỏi:

 

- Bạn có thể đàn không?

 

Đáp:

 

- Được.

 

Hỏi:

 

- Bạn hãy đàn đi cho chúng tôi nghe.

 

Rất Nhanh đàn nhưng không đụng đến dây thứ nhất. Bạn hỏi:

 

- Vì sao không đụng đến dây thứ nhất?

 

Đáp:

 

- Đụng vào tất sinh ra nguy hiểm.

 

Bạn bảo:

 

- Bạn chỉ chạm vào nào có hại gì?

 

Rất Nhanh chạm vào dây, các bạn học sinh không chủ động được cùng nhau nhảy múa nên kéo dài đến chiều. Khi họ đến, thầy dạy hỏi:

 

- Sao đi trễ vậy?

 

Nghe họ kể lại, thầy hỏi:

 

- Con có thể đàn không?

 

Đáp:

 

- Được.

 

Nếu vậy hãy đàn một khúc đi. Thầy bảo.

 

Rất Nhanh đàn nhưng không chạm vào dây thứ nhất.

 

Thầy hỏi:

 

- Vì sao không chạm vào dây thứ nhất?

 

Đáp:

 

- Nếu chạm vào sợ sinh ra tai họa.

 

- Con chỉ chạm vào, nào có hại gì. Thầy bảo.

 

Khi chạm vào, cả thầy và vợ cùng nhau nhảy múa không thể ngừng lại. Nhà cửa đều nghiêng ngã. Đồ vật bị phá tan không còn gì cả. Thầy nỗi giận, tóm cổ Rất Nhanh đuổi ra khỏi làng.

 

Sau khi bị đuổi, Rất Nhanh cô độc lang thang, chỉ sống nhờ vào cây Không-hầu.

 

Có năm trăm thương nhân sắp mang hàng hóa đi vào biển. Họ bàn nhau: "Mọi việc đã xong nhưng không có âm nhạc lấy gì làm vui. Khi vào biển rồi làm sao giải buồn?".

 

Một người nói:

 

- Thanh niên Bà-la-môn Rất Nhanh giỏi đánh đàn Không hầu, hãy đem anh ta theo.

 

Họ đem Rất Nhanh cùng đi theo thuyền. Đi vào biển, mọi người nói:

 

- Bạn hãy đánh đàn cho chúng ta vui vẻ.

 

Thấy Rất Nhanh này đánh đàn nhưng không đụng vào dây thứ nhất, mọi người hỏi:

 

- Sao không khảy vào?

 

Đáp:

 

- Nếu chạm vào sẽ gây họa.

 

Họ bảo:

 

- Chỉ chạm vào, làm sao gây tai họa.

 

Khi chạm vào dây đàn, chiếc thuyền liền nhào trộn trong biển đến nỗi tan vỡ. Tất cả khách buôn đều chết hết, chỉ còn một mình Rất Nhanh sống sót bám được tấm ván, laị nhờ gió thổi trôi dạt vào đảo Kim Sí Điểu. Trong khu vườn trên đảo, không có đàn ông, Rất Nhanh chỉ thấy Diệu Dung vợ vua Phạm Thọ. Sau khi thăm hỏi, họ tư thông với nhau. Ban ngày gần gủi, ban đêm lại chia tay, Rất Nhanh hỏi:

 

- Ban đêm nàng đi đâu vậy?

 

Đã tư thông nhau nên thiếu phụ kể hết sự việc. Rất Nhanh nói:

 

- Hiền thủ! Như vậy sao không đưa tôi về Ba La Ny Tư?

 

Đáp:

 

- Cùng nhau đi thật tốt, nhưng chàng tên gì?

 

- Tôi tên Rất Nhanh.

 

Hỏi:

 

- Nàng tên gì?

 

- Thiếp tên Diệu Dung.

 

Diệu Dung tìm cách mang theo đá nhỏ, dần dần bằng trọng lượng của một người, khi liệu chừng có thể đi được, bảo Rất Nhanh cùng cỡi Kim Sí Điểu đi về Ba La Ny Tư. Trên đường đi, Diệu Dung bảo:

 

- Hãy nhắm mắt lại, mở ra tất con ngươi bị hại.

 

Khi sắp đến thành, nghe tiếng người nói, Rất Nhanh suy nghĩ: "Sắp đến rồi, hãy mở mắt ra xem thử". Vừa mở ra, hai mắt bị mù ngay vì gió thổi quá mạnh. Do đó, Diệu Dung để Rất Nhanh sống trong khu vườn còn mình đi đến sống với vua.

 

Đến mùa xuân, trăm hoa đua nở, chim hót líu lo, vua cùng cung nhân vào vườn ngắm cảnh, trong nhóm này cũng có Diệu Dung. Nghe mùi hương hoa y của cô ta bay đến, Rất Nhanh nói kệ:

 

    Gió thoảng mùi y-hoa,

    Hương thơm thật đáng yêu,

    Như lúc trên bờ biển,

    Cùng sống với Diệu Dung.

 

Vua Phạm Thọ nghe kệ này, ra lệnh cho nội nhân:

 

- Hãy tìm kiếm xem ai nói kệ ấy.

 

Mọi người nói:

 

- Có người mù nói lên kệ ấy.

 

Gọi đến, nhà vua hỏi:

 

- Ngươi làm kệ phải không?

 

Đáp:

 

- Đúng vậy.

 

Hỏi:

 

- Ngươi hãy nói lại cho ta nghe thử xem.

 

Rất Nhanh suy nghĩ: "Có lẽ bài kệ hay nên vua thích nghe, ta nên đọc lại có thể được ban thưởng".

 

Nghe nhà vua hỏi, đảo ấy cách đây xa bao nhiêu. Rất Nhanh đáp:

 

    Nơi Diệu Dung cư trú,

    Cách đây có trăm dặm,

    Vượt qua khỏi biển lớn,

    Có đảo thật khả ái.

    Nghe như vậy, nhà vua nói kệ:

    Ngươi đã từng nghe thấy,

    Người yêu thương của ta,

    Nếu là thân Diệu Dung,

    Ngươi hãy nói hình tướng.

    Người mù nói kệ đáp:

    Giữa eo có chữ vạn,

    Trước ngực có lông xoắn,

    Thường kết vòng hoa y,

    Gửi đến cho vua chồng.

 

Nghe nói xong, vua suy nghĩ: "Cô này có hạnh xấu, tuy an trí ngoài hải đảo cũng vẫn tư thông, thật vô dụng, hãy gả cho người mù này".

 

Vua tức giận nói kệ:

 

    Cho Diệu Dung chuỗi ngọc,

    Rồi gả cho người mù,

    Cho đi bằng xe lừa,

    Đuổi ra khỏi thành phố.

 

Bị nhà vua đuổi đi, người mù được vợ dẫn đi khắp nơi, về chiều đi đến một tụ lạc lớn, tạm trú trong miếu hoang thờ trời.

 

Ban đêm, có năm trăm tên cướp đi đến làng này. Mọi người biết trước nên trừ diệt sạch chỉ còn tướng cướp chạy vào miếu đóng cửa lại trốn.

 

Mọi người chạy đến hỏi:

 

- Ai ở trong miếu?

 

Người mù đáp:

 

- Tôi là khách trú không liên hệ với cướp.

 

Mọi người nói:

 

- Nếu có tên cướp, hãy mau đuổi ra.

 

Khi ấy tướng cướp bảo Diệu Dung:

 

- Nàng cần gì ở kẻ mù này. Hãy đưa hắn ra ngoài rồi cùng sống với anh.

 

Diệu Dung đồng ý, đẩy người mù kia ra ngoài. Thấy vậy, dân làng chặt đầu người kia.

 

Sáng hôm sau, tướng cướp dẫn Diệu Dung ra đi. Đ?n một bờ sông, không có thuyền bè nên không qua được, tướng cướp bảo vợ:

 

- Hiền thủ nước sông rất lớn, không thể cùng qua được, em tạm ở đây tắm rửa, anh mang những chuỗi ngọc quý qua trước. Đem chúng qua bờ kia rồi, trở lại anh đưa em sang.

 

Vợ đồng ý cởi y phụcchuỗi ngọc quý trao cho tướng cướp rồi ngồi trong nước.

 

Sau đó, cô ta lại suy nghĩ rằng hay là người kia mang tài vật của ta chạy mất nên nói kệ vói theo:

 

    Nước sông đang dâng cao,

    Chàng mang anh lạc đi,

    Em có ý suy nghĩ,

    Sợ chàng mang đi luôn.

 

Nghe nói, tướng cướp nói kệ vói lại:

 

    - Người chồng vô tội, ngươi hại chết,

    Ai tin ngươi thật tâm với ta.

    Những chuỗi ngọc này ta mang theo,

    Sợ có điều kiện, ngươi hại ta.

 

Khi ấy, tướng cướp mang theo vật bỏ vợ lại, tiếp tục lên đường. Người vợ lộ hình ra khỏi nước, ẩn thân vào bụi cỏ rậm.

 

Cách đó không xa có con Dã Can già đang ngậm miếng thịt hôi, đi dọc theo bờ sông. Có con cá nhảy lên khỏi nước rơi nằm trên bờ. Thấy vậy, Dã-can nhả bỏ miếng thịt ra, muốn chụp lấy con cá. Con cá nhảy vào nước, miếng thịt lại bị diều hâu tha mất. Bị mất cả hai, Dã-can cụp tai buồn rầu. Trong bụi cỏ thấy vậy, Diệu Dung nói kệ:

 

    Thịt bị diều tha đi,

    Cá nhảy xuống sông rồi,

    Hai miếng mồi đều mất,

    Buồn khổ nào ích gì?

 

Nghe tiếng kệ, nhìn khắp bốn phía không thấy ai cả, Dã-can nói kệ:

 

    Ta không làm trò cười,

    Cũng không diễn ca múa,

    Kẻ nào trong bụi cỏ,

    Nói kệ trêu chọc ta?

 

Nghe nói, trong đám cỏ, Diệu Dung bảo với Dã-can:

 

- Ta là Diệu Dung.

 

Nghe tiếng nói, Dã can tức giận nói:

 

- Tội ngươi hơn cả súc vật, không tự xấu hổ lại còn trêu chọc.

 

Dã can nói kệ:

 

    Chồng cũ bị giết chết,

    Chồng mới lấy của đi,

    Chẳng biết đi về đâu,

    Núp trong cỏ buồn than.

 

Diệu Dung lại nói kệ:

 

    Ta trở về nhà cũ,

    Trinh tâm thờ một chồng,

    Sợ tổn hại thân tộc,

    Không làm việc dại nữa.

 

Dã can nói kệ:

 

    Dù sông Hằng chảy ngược,

    Chim quạ lông màu trắng,

    Tượng gỗ sinh đa-la,

    Ngươi không thể chính chuyên.

    Giả như quạ và cú,

    Cùng sống trên một cây,

    Cả hai hòa thuận nhau,

    Ngươi không thể chính chuyên.

    Giả như rắn và chuột,

    Cùng sống trong một hang,

    Chúng có thể yêu nhau,

    Ngươi không thể chính chuyên.

    Giả như dùng lông rùa,

    Dệt thành áo tốt đẹp,

    Mặc ấm khi mùa lạnh,

    Ngươi không thể chính chuyên.

    Giả như dùng chân muỗi,

    Xây dựng thành lầu đài,

    Kiên cố không lay động,

    Ngươi không thể chính chuyên.

    Giả sử dùng cọng sen,

    Làm cầu cho người đi,

    Voi lớn cũng qua được,

    Ngươi không thể chính chuyên.

    Giả như giữa biển lớn,

    Trong nước, lửa cháy to,

    Mọi người đều nhìn sững,

    Ngươi không thể chính chuyên.

 

Nói kệ xong, Dã can nói với Diệu Dung:

 

- Ta chỉ nói đùa với ngươi vậy thôi, chứ ta có thể làm cho ngươi phục hồi vị trí cũ làm phu nhân của đất nước, vậy ngươi đền đáp vật gì?

 

Đáp:

 

- Này bạn, nếu có thể làm cho tôi trở lại được như cũ, tôi sẽ cung cấp thịt tươi hằng ngày không để thiếu thốn.

 

Dã-can nói:

 

- Nếu như vậy, hãy nghe lời ta, đi xuống sông Hằng cho nước vừa đến cổ, chắp tay hướng về mặt trời cầu nguyện chư Thiên. Ta sẽ báo cho vua.

 

Dã can đi đến chỗ vua có thể nghe được sủa to lên rằng Diệu Dung đang ngâm mình trong nước sông Hằng để tẩy tâm tu luyện, hãy mau gọi về đưa vào hậu cung.

 

Đã từng học tiếng Dã-can, vua nghe như vậy, bảo đại thần:

 

- Khanh hãy đi đến bờ sông Hằng. Ta nghe Diệu Dung đang ở đó cần khổ sửa đổi tâm tánh, hãy mau đem về đây cho ta gặp.

 

Khi gặp Diệu Dung, các đại thần liền đem chuỗi anh lạc y phục trang sức cho cô ta rồi đem về cho vua. Gặp lại, vua rất vui mừng, phong cho cô ta làm đại phu nhân như cũ.

 

Hằng ngày, cô ta đem thịt ngon cung cấp cho Dã can, nhưng sau đó lại ngưng. Đi đến gần vương cung, Dã can sủa lên:

 

- Này Diệu Dung! Ngươi không chịu đem thịt cung cấp, ta sẽ làm cho vua đánh ngươi nhừ tử, không khác ngày xưa.

 

Nghe như vậy, phu nhân rất sợ hãi nên cung cấp thịt cho Dã can lại như cũ.

 

- Này các Bí-sô, chớ có phân vân, Diệu Dung ngày xưa nay là Bí-sô ny Ôn Bát La. Rất Nhanh nay là Ô Đà Dy. Ngày xưa, nghe mùi hương hoa y, biết ngay là Diệu Dung; nay nghe mùi hương hoa Ôn-bát-la biết ngay là cô ny ấy. Tất cả sự việc đều do tập nghiệp liên kết làm nhân duyên cho nhau cả.

 

Đại chúng nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

 

 

Nhiếp tụng năm trong biệt môn sáu:

 

    Độ ny bát kỉnh pháp,

    Ny dục y thứ tọa,

    Nhị bộ sự các thù,

    Hoàn tục ny bất độ.

 

* Phật ở vườn Đa Căn Thọ, thành Kiếp Tỷ La. Đại Thế Chủ và năm trăm Thích-nữ đi đến gặp Phật lạy sát hai chân, ngồi qua một bên. Đức Phật thuyết diệu pháp làm cho họ được lợi ích hoan hỷ.

 

Sau khi nghe pháp với thâm tâm hoan hỷ, Đại Thế Chủ rời khỏi chỗ, chắp tay hướng về Phật, bạch rằng:

 

- Thế Tôn! Nếu có người nữ xuất gia trong Phật pháp, thọ Cận viên thành tựu tánh Bí-sô ny, kiên trì phạm hạnh, được chứng quả Sa-môn thứ tư không?

 

Phật dạy:

 

- Này Đại Thế Chủ, bà nên sống tại gia mặc y phục trắng, tu các phạm hạnh thuần nhất viên mãn thanh tịnh vô nhiễm. Như thế cũng được luôn luôn an ổn lợi ích hỷ lạc.

 

Sau ba lần thưa thỉnh nhưng không được Phật cho phép, Đại Thế Chủ đảnh lễ sát chân Phật rồi từ giã.

 

Bấy giờ, Thế Tôn mặc y mang bát ra khỏi thành Kiếp Tỷ La đến trú ở tụ lạc Phiến Vi.

 

Nghe đức Phật đã ra đi, Đại Thế Chủ và năm trăm Thích-nữ tự cạo tóc, mặc y Tăng-già-chi màu đỏ sẩm, đi theo sau Phật, đêm nghỉ cách xa.

 

Khi Thế Tôn đến trú trong rừng Tương Tư, Đại Thế Chủ lội bộ mệt nhọc bụi phủ đầy thân, đến gặp Thế Tôn, ngồi qua một bên. Thế Tôn thuyết giảng diệu pháp làm cho bà ấy được lợi ích hoan hỷ.

 

Sau khi nghe pháp, Đại Thế Chủ rời khỏi chỗ ngồi, chắp tay bạch:

 

- Thế Tôn! Nếu có người nữ xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của Phật, thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô ny, kiên trì tu tập phạm hạnh chứng được quả sa môn thứ tư không?

 

Phật dạy:

 

- Này Đại Thế Chủ! Chỉ cần cạo tóc mặc y man điều cho đến trọn đời kiên trì tu tập phạm hạnh thuần nhất viên mãn thanh tịnh vô nhiễm. Như vậy cũng được luôn luôn an ổn lợi ích hỷ lạc.

 

Đại Thế Chủ thưa như vậy ba lần nhưng không được đức Phật cho phép. Biết Đ?c Phật Thế Tôn không đồng ý dù đã nhiều lần thưa thỉnh, Đại Thế Chủ đứng ngoài cửa khóc lóc.

 

Thấy vậy, cụ thọ A Nan Đà hỏi:

 

- Này Kiều Đàm Di! Vì sao đứng khóc vậy?

 

Đáp:

 

- Tôn giả ơi! Con khóc vì Thế Tôn không cho nữ nhân chúng con được xuất gia làm Bí-sô ny ...

 

A Nan Đà bảo:

 

- Này Kiều Đàm Di hãy đứng đây, tôi sẽ hỏi Như Lai.

 

Đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân, đứng qua một bên, A Nan Đà bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Nếu có người nữ xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của Phật, thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô ny, kiên trì phạm hạnh, chứng được quả Sa-môn thứ tư không?

 

Phật nói:

 

- Được.

 

- Nếu như vậy, xin cho phép người nữ được xuất gia. A Nan Đà thưa.

 

Phật dạy:

 

- Này A Nan Đà! Ông không nên xin phép cho người nữ xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của Ta, thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô ny. Vì sao? Nếu cho người nữ được xuất gia, Phật-pháp không trường tồn. Ví như trong nhà nào nam ít nữ nhiều thì bị kẻ ác phá hoại nhà ấy. Người nữ xuất gia phá hoại chánh pháp cũng như vậy.

 

Lại nữa, này A Nan! Như nhà làm ruộng, ruộng lúa vừa chín lại bị hư hại vì gió mưa sương mưa đá. Người nữ xuất gia phá hoại chính pháp cũng như vậy.

 

Lại nữa, này A Nan! Như ruộng mía vừa đúng lúc thu hoạch, gặp phải bệnh đỏ lóng nên hư hoại không còn gì. Nếu cho người nữ xuất gia, chánh pháp bị phá hoại sẽ mau diệt tận không được trường tồn cũng như vậy.

 

Cụ thọ A Nan Đà lại bạch Phật:

 

- Đối với Thế Tôn, Đại Thế Chủ có ân lớn. Khi Phật mẫu qua đời, người đã nuôi dưỡng Thế Tôn đến lớn, lẽ nào Thế Tôn không từ bi bảo hộ hay sao?

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Thật có việc ấy, di mẫu đối với Ta có ân nhưng Ta đã báo đáp. Nhờ Ta nên di mẫu biết đến Tam bảo, quy y Phật Pháp Tăng, thọ năm học xứ, không còn nghi hoặc với lý bốn Thánh-đế, đắc quả Dự lưu, sẽ không còn khổ, chứng quả vô sinh. Với ân như vậy, mới thật khó báo đền, không thể đem thức ăn y phụcso sánh ví dụ được.

 

Thế Tôn lại bảo A Nan Đà:

 

- Ông cầu xin cho người nữ được xuất gia thành Bí-sô ny. Vì việc này, Ta chế định tám pháp tôn kính, trọn đời tu tập không được vượt qua. Ta chế ra pháp này như người làm ruộng, vào cuối mùa hạ đầu mùa thu, ngay nơi bờ sông sửa sang bờ đê chắc chắn không cho nước chảy tràn để tưới ruộng lúa sung túc khắp nơi. Tám kính pháp cũng như vậy.

 

Tám kính pháp là:

 

    1) - Này A Nan Đà, các Bí-sô ny phải tùy theo Bí-sô cầu xuất gia thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô ny. Đây là kính pháp thứ nhất không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

    2) - Này A Nan Đà, mỗi nữa tháng các Bí-sô ny phải tùy theo Bí-sô cầu giáo thọ. Đây là kính pháp thứ hai không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

    3) - Này A Nan Đà! Các Bí-sô ny không được an cư nơi vùng không có Bí-sô. Đây là kính pháp thứ ba không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

    4) - Này A Nan Đà! Các Bí-sô ny không được cật vấn, ức niệm Bí-sô về những lỗi lầm như là hủy giới, kiến, uy nghi, chánh mạng. Này A Nan Đà! Nếu Bí-sô ny thấy về giới, kiến, nghi, mạn của Bí-sô có chỗ hủy phạm thì không được cật vấn, chê trách. Bí-sô thấy ny có chỗ hủy phạm nên phải cật vấn chê trách. Này A Nan Đà, đây là kính pháp thứ tư không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

    5) - Này A Nan Đà! Các Bí-sô ny không được mạ lỵ, phẫn nộ, chê trách Bí-sô. Đối với ny, Bí-sô được làm những việc ấy. Đây là kính pháp thứ năm không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

    6) - Này A Nan Đa! Các Bí-sô ny tuy thọ cân viên đã trăm tuổi hạ nếu thấy Bí-sô mới thọ cận viên, cần phải tôn trọng, chắp tay, nghênh tiếp, cung kính, đảnh lễ. Đây là kính pháp thứ sáu không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

    7) - Này A Nan Đà! Các Bí-sô ny nào phạm pháp chúng giáo (tăng tàn) phải hành pháp Ma-na-đỏa trong nữa tháng giữa hai bộ chúng. Đây là kính pháp thứ bảy không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

    8) - Này A Nan Đà! Các Bí-sô ny sau khi an cư mùa hạ, phải đem ba việc thấy, nghe và nghi tác pháp tùy ý sự giữa hai bộ chúng. Đây là kính pháp thứ tám không được vượt qua. Các Bí-sô ny phải chuyên cần tu học như vậy đến trọn đời.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Quyển thứ hai mươi chín hết

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12443)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10312)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12294)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11591)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28752)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11989)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12954)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11399)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12316)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17382)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52927)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35427)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21320)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10647)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19175)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12371)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25954)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13285)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14328)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16040)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13683)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16800)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17504)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13095)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12493)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11568)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11557)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14466)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20379)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18915)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19503)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18571)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12149)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12270)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13808)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14943)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15005)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13945)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15483)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11357)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17126)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14909)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20123)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14579)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13798)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11670)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15008)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12956)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22825)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14523)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11605)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13129)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16835)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18307)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11914)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11470)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15809)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12832)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18859)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18359)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant