Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 38 đến 39

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 8584)
Quyển 38 đến 39

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

Quyển thứ ba mươi tám

 

--- ooOoo ---

 

Tiếp tục nói về Bát Niết Bàn.

 

Khi ấy, tại thành Câu Thi Na có vị xuất gia theo ngoại đạo tên Thiện Hiền (Phạn ngữ: Tu Bạt Đà La), một trăm hai mươi tuổi, thân thể già yếu. Đối với Thiện Hiền, bộ tộc Tráng sĩ ở thành Câu Thi La đều cung kính, tôn trọng cúng dườngxem như bậc A-la-hán. Gần chỗ Phạm chí Thiện Hiền thường ở, có một ao hoa lớn tên là Mạn Đà Chỉ Nhĩ. Trên bờ ao có cây Ô Đàn Bạt.

 

Ngày xưa, khi còn ở cung Đổ Sử Đa, lúc Bồ-tát hóa hình voi trắng đi vào thai mẹ thì mầm nụ hoa cây Ô-Đàm Bạt mới nhú ra; lúc đản sinh, cây phát ra ánh sáng; lúc làm đồng tử, hoa ấy mọc ra; lúc nhàm chán lão, bệnh, tử, đi sâu vào núi, hoa ấy mới lớn dần như mỏ chim thứu; khi tu khổ hạnh hoa hiện tướng sum sê; khi từ bỏ khổ hạnh, ăn uống trở lại ... như nói ở trước cho đến khi chứng Đẳng Chánh Giác, thì hoa nở ra; khi Phạm Vương thỉnh Phật đến Bà La Ny Tư chuyển Pháp Luân thì cây và hoa có ánh sáng tươi tốt rực rỡ với hương thơm ngào ngạt tỏa khắp nơi. Với lòng đại bi độ khắp cả hữu tình có duyên ở thế giới này rồi, khi Đức Phật đi đến thành Câu Thi Na nằm nghỉ lần cuối cùng thì hình dáng màu sắc của cây hoa khô héo, trông thấy ai cũng kinh ngạc than thở.

 

Thấy cây ấy thay đổi như vậy, Thiện-Hiền suy nghĩ: "Tại thành Câu Thi Na chắc có tai họa".

 

Khi ấy, thiên thần hộ quốc nói lớn với mọi người:

 

- Vào giữa đêm nay, đức Như Lai nhập Vô-dư Niết-bàn.

 

Nghe như vậy, Thiện-Hiền suy nghĩ: "Suy tàn thay! Khổ não thay! Vị Đại Sa-môn họ Kiều Đáp Ma chắc chắn nhập Niết-bàn vào giữa đêm nay. Nhưng, ta còn hoài nghi về pháp mà mình đã đắc nên thường suy nghĩ đến bao giờ, bằng cách gì được gặp vị ấy để thưa hỏi những điều chưa tỏ ngộ. Tiếc thay, Pháp-nhãn không bao lâu nữa sẽ không còn. Vậy ngay bây giờ, ta phải đích thân đến thưa hỏi vị ấy. Nếu được Đ?c Đại-bi thương xót giải nghi cho thì ta được hiểu rõ những điều còn phân vân".

 

Sau khi suy nghĩ như vậy, Thiện Hiền ra khỏi thành Câu Thi Na, đến rừng Song Lâm.

 

Thấy mặt trời Phật sắp lặn, với tâm trạng buồn rầu A-Nan Đà đi kinh hành nơi đất trống trước cổng chùa. Thấy vậy, Thiện Hiền đến hỏi:

 

- Thưa ngài A Nan Đà! Tôi nghe Sa-môn Kiều Đáp Ma đầy đủ Nhất-thiết-trí, tế độ chúng sinh một cách bình đẳng nhưng tôi còn những phân vân về pháp mà mình đã đắc, nên thường mong muốn được nghe những điều chưa biết, đến nay vẫn chưa toại nguyện.

 

Hôm nay, nghe tiếng chư Thiên báo cho chúng tôi biết rằng đêm nay chắc chắn Như Lai vào Niết-bàn, đại-đức có thể xin phép cho tôi được gặp Phật để thưa hỏi sự nghi ngờ ấy. A Nan Đàø bảo Thiện Hiền:

 

- Ông không nên nói như vậy, vì làm phiền Thế Tôn. Hiện nay, Đại-sư của tôi đang mỏi mệt, không được khỏe.

 

Sau ba lần thưa thỉnh như vậy nhưng không được chấp thuận, Thiện Hiền thưa:

 

- Tôn giả A Nan Đà, trước đây tôi có nghe vị tiên nhân phạm chíđức độ lễ nghĩa nói:- Chư Phật ra đời như hoa ô-đàm, ức trăm vạn kiếp mới xuất hiện một lần. Hôm nay, chắc chắn Như Lai vào Niết-bàn, tôi còn mê muội xin được thưa hỏi với Ngài, mong đại-đức xin phép cho tôi được gặp Phật, thật là may mắn. A Nan Đà nói:

 

- Này Thiện Hiền, hiện nay thân thể Đại-sư của tôi rất mệt mỏi, không được an ổn, chớ nên làm phiền.

 

Ba lần Thiện Hiền tha thiết cầu xin như trước nhưng vẫn không được tôn giả chấp thuận. Khi A Nan ĐàThiện Hiền bàn luận trước chùa, Thế Tôn với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân nghe rõ từng câu nên bảo A Nan Đà:

 

- Thầy không nên ngăn trở Thiện-Hiền, hãy cho phép gặp Ta để tùy ý thưa hỏi. Vì sao? Thiện Hiền này là người ngoại đạo cuối cùng được Ta thuyết pháp làm cho sinh lòng tin thanh tịnh, đích thân Ta gọi đến chào mừng và nhận làm đệ tử. Nghe Phật từ bi cho phép, tâm ý Thiện Hiền hoan hỷ vô bờ bến, đến gặp Thế Tôn, cùng nhau chào hỏi rồi ngồi qua một bên, thưa:

 

- Này Kiều Đáp Ma, xin cho phép tôi hỏi và Ngài giải đáp cho.

 

Phật bảo:

 

- Này Phạm chí, ông hãy hỏi đi.

 

Hỏi:

 

- Thưa Kiều Đáp Ma! Tôi từng nghiên cứu các loại ngoại đạo. Họ đều thành lập tôn chỉ riêng cho mình như Bộ Kích Noa, Ca Nhiếp Ba Tử, Mạt Tắc Yết Lỵ Cù Lỵ Tử, San Thệ Di Tỳ Bích Tri Tử, A Thị Đa Kê Xá Cam Bạt La Tử, Ny Yết Lan Đà Thận Nhã Đề Tử ... Những vị thầy này, ai cũng trình bày sự đặc thù về tông chỉ của mình, vậy chẳng biết người nào đúng?

 

Thế Tôn nói kệ bảo Thiện Hiền:

 

    - Ta, năm hai chín tuổi,

    Xuất gia cầu thiện pháp,

    Trong hơn năm mươi năm,

    Thực hành Giới, Định, Tuệ,

    Nhất tâm không tán loạn,

    Chỉ tìm cầu chân lý,

    Ngoài chánh pháp này ra,

    Ngoại đạo không Sa-môn.

 

Nói kệ xong, Thế tôn bảo Thiện Hiền:

 

- Đây là thánh đạo tám chi do chư Phật thuyết giảng, rất khó có, rất khó gặp, ngoài pháp này ra mà cầu quả Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư thì không thể được. Thế nên, cần phải cầu đạo quả Sa-môn từ nơi tám chi thánh đạo trong pháp luật thuyết giảng toàn thiệnchắc chắn đạt được.

 

Lại nữa, này Thiện Hiền, vì xa rời pháp tám thánh đạo nên các ngoại đạo Sa-môn Bà-la-môn đều bị lệ thuộc vào kiến chấp của mình nên cho rằng ba đời không nhân quả, những phúc đức do tu tập đều hư dối vô ích. Thế nên, giữa chúng Sa-môn Bà-la-môn, Ta đã rống lên tiếng rống sư tử rằng những sự tu tập theo chánh pháp đều chứng đắc đạo quả.

 

Khi Phâït thuyết giảng pháp này, phạm-chí Thiện Hiền viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh, được tín tâm bất hoại với pháp chân thật, vượt qua sông ái, phá tan lưới nghi, thông đạt pháp vi-diệu, rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục, chắp tay hướng về tôn giả A Nan Đà Nan Đà thưa:

 

- Thật khó được thưa hỏi bậc Đại sư tôn quý, con nhờ đại đức nên được lợi ích hoàn toàn, may mắn gặp được đấng Pháp-vương vô thượng, là bậc Quán đảnh tối thượng trong các vị thầy, nhờ vào sức Ngài nên con được chứng đắc, con lại muốn được xuất gia thọ cận viên trong pháp luật thiện thuyết, thành tựu tánh Bí-sô, tu tập hạnh Sa-môn.

 

Cụ thọ A Nan Đà bạch Phật:

 

- Thế Tôn, hiện nay Thiện Hiền nghe pháp nên được liễu ngộ, tâm muốn xuất gia ... thành tựu tánh Bí-sô; xin Thế tôn từ bi tế độ cho.

 

Thế Tôn bảo Thiện-Hiền:

 

- Lành thay! Bí-sô hãy đến đây tu tập phạm hạnh.

 

Ngay sau lời nói của Phật, Thiện Hiền đầy đủ cả uy nghi, được xuất gia, thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô, nhất tâm dũng mãnh không phóng dật, với suy nghĩ về lý do vì sao các thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, chánh tín xuất gia, tu tập phạm hạnh trong đạo pháp vô thượng, ngay trong pháp ở đời này tự chứng ngộ: "Ta sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau".

 

Khi phát tâm quán sát thấu triệt như vậy, Thiện Hiền liền chứng quả A-la-hán. Sau khi chứng đắc tâm giải thoát, Thiện Hiền suy nghĩ: "Hiện nay, ta không nỡ nào nhìn Phật nhập Niết-bàn được, vậy nên nhập diệt trước".

 

Sau khi suy nghĩ như vậy, Thiện Hiền đến lạy sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

 

- Đại đức Thế Tôn! Con xin nhập Niết-bàn trước.

 

Phật bảo Thiện Hiền:

 

- Ông nhập Niết-bàn ngay lúc này hay sao?

 

Đáp:

 

- Thưa vâng.

 

Sau khi hỏi đến ba lần, Phật bảo:

 

- Tất cả các hành đều vô thường, ông đã định liệu thời gian cho việc làm của mình, Ta còn biết nói gì.

 

Khi sắp nhập Niết-bàn,Thiện Hiền suy nghĩ: "Ta nên làm năm pháp gia-trì rồi mới diệt độ. Đến xem thân ta, mọi người đều thấy ta cạo bỏ râu tóc, mặc Tăng-già-chi, chớ để họ thấy hình thức ngoại đạo. Khi ngoại đạo đến khiêng, không thể di động thi thể của ta, đồng phạm hạnh mới có thể khiêng đi. Khi để vào nước để tắm rửa thân ta, chân ngoại đạo không thể bước được vào đáy nước; các vị đồng phạm hạnh có thể rửa thân thể ta. Khi các ngoại đạo đi vào nước sẽ bị cá rùa quấy nhiễu không an, nhưng các vị đồng phạm hạnh không bị gây hại. Các ngoại đạo không thể hỏa thiêu di thân ta nhưng đồng phạm hạnh có thể làm cho lửa cháy".

 

Sau khi tác ý về năm pháp gia-trì xong, vị này nhập Niết-bàn.

 

Nghe phạm chí Thiện Hiền đã nhập Niết-bàn, các ngoại đạo đem các loại âm nhạc, cờ phướn, tàng lọng đi đến thành Câu Thi Na. Tại ngã tư đường, ngoại đạo bảo với mọi người:

 

- Quý vị nên biết! Vị Đại Sa-môn Kiều Đáp Ma thường nói rằng chỉ trong giáo pháp của Ta mới có tám chi Thánh đạo với quả Sa-môn, trong ngoại đạo không có ... nói đủ như trước ... cho đến rống lên tiếng sư-tử nhưng vị đồng phạm hạnh trong pháp của tôi là đại sư Thiện Hiền cũng đắc Niết-bàn nào khác gì họ.

 

Các Bí-sô nói:

 

- Nếu các vị nói người ấy là bạn cùng nhóm với mình thì hãy tự ý mang đi.

 

Nhiều ngoại đạo đến cùng nhau nâng lên nhưng vẫn không di động được huống gì mang đi. Bí-sô bảo:

 

- Nếu các vị không thể làm thì để cho chúng tôi.

 

Đáp:

 

- Tùy ý.

 

Khi các Bí-sô khiêng đi, ngoại đạo đành im lặng.

 

Lại nữa, khi các ngoại đạo đến ao nước rửa, các Bí-sô nói:

 

- Các vị hãy tắm rửa thân thể cho người đồng phạm hạnh của mình.

 

Bước xuống nước nhưng chân ngoại đạo không thể chạm vào đáy ao lại còn bị cá rùa quấy nhiễu còn các Bí-sô thì không bị như vậy.

 

Bí-sô lại nói:

 

- Nếu vị này là đồng phạm hạnh với các người, hãy tự mình hỏa thiêu đi.

 

Được ngoại đạo đốt, lửa vẫn không bắt cháy được.

 

Khi ấy, bị mọi người cùng nhau chê bai, ngoại đạo xấu hổ cúi đầu bỏ đi.

 

Thấy sự việc hy kỳ như vậy, đối với Thế Tôn, những tráng sĩ ở thành Câu Thi Na càng thêm kính ngưỡng phát tâm tịnh tín, luyến mộ, nói thế này:

 

- Đức Đại bi Thế Tôn nằm nghỉ lần cuối cùng, hiện thân có bệnh, chi tiết không an mà còn thuyết pháp cho Thiện Hiền, làm cho mau được chứng quả A-la-hán, lại còn làm cho các tráng-sĩ thành Câu Thi Na lợi ích tốt đẹp.

 

Khi ấy, các Bí-sô đều có nghi ngờ, thưa Thế Tôn:

 

- Như lai đang hiện thân có bệnh, chi tiết bất an mà còn làm cho phạm chí Thiện Hiền ra khỏi biển sinh tử chứng quả A-la-hán, cứu cánh Niết bàn, chấm dứt hết khổ.

 

Phật bảo Bí-sô:

 

- Các ông nên biết, việc này chưa hy hữu vì hiện nay Ta đã đoạn trừ ba độc căn bản, giải thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử, sầu ưu khổ não, đủ Nhất-thiết-trí, tự do hoàn toàn trong tất cả các cảnh giới mà làm cho Thiện Hiền thoát khỏi biển sinh tử, đến chỗ tận cùng, đạt đến Niết-bàn, chưa phải là khó. Thời quá khứ, khi Ta còn trong sinh tử, đủ cả tham, sân, si, chưa đoạn trừ được sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não, không có trí tuệ trong thân bàng sinh mà còn xả bỏ thân mạngphạm chí Thiêïn Hiền và các tráng sĩ thành Câu Thi Na. Các thầy hãy lắng nghe Ta kể ... Ngày xưa, trong vùng núi đầm lớn, có một nai chúa nhiều trí tuệ dự đoán được thời cơ, cùng bầy nai ngàn con sống trong rừng. Gặp nơi nai sống, thợ săn đến báo cho vua. Nhà vua cho binh lính đến bao vây để bắt. Nai chúa suy nghĩ: "Nếu ta không cứu bầy nai này thì chắc chắn chúng bị thợ săn sát hại".

 

Nhìn khắp bốn hướng, nai chúa suy nghĩ: "Ta nên làm cách gì để cứu bầy nai thoát nạn này". Nai chúa thấy tận dưới núi có khe nước chảy xiết ra ngoài cốc núi. Vì sức yếu, bầy nai không thể lội qua. Nai chúa bước xuống đứng ngang qua dòng nước rồi kêu lớn: - Các ngươi mau đến đây, từ bờ này leo lên lưng ta chạy qua bờ kia thì thoát chết, nếu không như vậy tất bị giết hại. Như vậy, bầy nai tuần tự đạp trên lưng nai chúa, vượt qua dòng nước chảy xiết, được thoát nạn. Bị móng chân bầy nai đạp, da thịt trên lưng nai chúa tan nát hết, phơi bày xương sống ra. Rất đau đớn nhưng tâm nai chúa vẫn kiên trì chịu đựng, để cho bầy nai đi qua an toàn mà vẫn lưu luyến nhìn lại xem còn con nào sót lại không. Trong bầy, có một nai con không thể vượt qua. Tuy rất đau đớn nhưng vì lòng thương yêu không nghĩ đêùn thân mình, nai chúa ra khỏi khe nước, đỡ lấy nai con đặt lên lưng của mình, vượt qua bờ bên kia. Xem khắp nơi, biết bầy nai đã qua hết, nai chúa đã kiệt lực sắp qua đời nên phát nguyện:

 

- Tôi cứu bầy nai và nai con này vượt qua tai ách mà không tiếc thân mạng, xin cho trong đời tương lai khi chứng quả Chánh-đẳng-giác, tôi sẽ độ cho họ thoát khỏi lưới sinh tử đến nơi tối hậu Niết-bàn vi diệu.

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Ýù các ông nghĩ sao, chớ sinh ý nghĩ khác. Nai chúa thời quá khứ chính là thân ta, bầy nai nay là các tráng sĩ thành Câu Thi Na, nai con nay là Thiện Hiền.

 

Lại nữa, này các Bí-sô, như khi Ta còn mang thân bàng sinh vô trí, lúc hơi thở không còn ổn định, chịu các đau khổ, da thịt thân thể phân tán mà còn cứu độ Thiện Hiền đến chỗ bình an. Các thầy hãy lắng nghe, ngày xưa tại Bà La Ny Tư có quốc vương tên Phạm Thọ dùng pháp trị đời rộng như kinh thuyết. Vua có Trí Mã biết trước việc sắp xảy ra nên được các nước bên cạnh đến triều cống. Khi Trí Mã qua đời, các tiểu vương sai sứ đến báo:

 

- Này vua Phạm thọ hãy thu thuế chia cho chúng ta, bằng không thì không được ra khỏi thành. Nếu trái lệnh, chúng ta cùng nhau đến tiêu diệt nước của ngươi.

 

Vua bảo sứ giả:

 

- Ta không nộp thuế cũng không xuất thành.

 

Ở trong nước, vua tìm kiếm và sau đó được một Trí Mã ở nơi khác. Vào đầu xuân, cây cối mọc xum suê, chim hót vang lừng rất đáng yêu thích. Cỡi Trí-Mã, vua cùng các thể nữ đi du ngoạn vườn hoa, hoan hỷ hưởng lạc.

 

Nghe vua Phạm Thọ cùng các quan và thể nữ đang du ngoạn bên ngoài không còn e sợ, chưa vào thành ngay, các tiểu vương bàn nhau rồi dẫn bốn loại binh kéo đến cửa thành.

 

Đại thần tâu vua:

 

- Các tiểu vương không kính mệnh ngài, dám hưng binh làm loạn, đến gõ cửa thành, xin hãy chuẩn bị.

 

Nghe tâu, vua ra lệnh Trí Mã:

 

- Hãy dẫn bốn loại binh, ta đích thân thảo trừ giặc.

 

Khi ấy, vua dẫn quân, thề với mọi người chiến đấu với giặc. Ỷ vào uy lực của mình, một mình vua tiến tới trước nên ngựa bị trúng giáo của giặc, lòi ruột ra ngoài rất đau đớn khổ sở không thể chịu nỗi, sắp tuyệt mạng. Ngựa suy nghĩ: "Vua bị nguy khốn, ta không cứu thì thật trái đạo, vậy cố chịu đau khổ để cứu vua thoát nạn về đến cửa thành vào nơi an ổn".

 

Sau khi suy nghĩ như vậy, ngựa nhìn khắp nơi không thấy có đường vào thành, nhưng ngoài thành có hào nước lớn tên Diệu Phạm gần cung vua. Trong ao này có bốn loại hoa sen xanh vàng đỏ trắng mọc khắp nơi. Khi ấy, Trí Mã không kể đến thân mạng mình, nhảy xuống ao chạy trên lá sen, cõng vua vượt nạn, vào thẳng trong cung. Vua vừa bước xuống thì ngựa qua đời.

 

Khi các tiểu vương tranh nhau vào khu vườn, tìm khắp nơi nhưng không gặp được vua, kéo quân cướp bóc rồi trở về nước mình.

 

Vua Phạm Thọ thoát nạn, bảo tồn được tính mạng, bảo các đại thần và nhân dân nước Bà La Ny Tư:

 

- Nếu ai cứu được tính mạng vua Sát Đế Lợi quán đảnh thì báo ân như thế nào?

 

Quần thần tâu nên chia cho họ nữa đất nước. Vua bảo:

 

- Trí Mã này cứu ta toàn mạng, nay đã chết vậy báo đáp thế nào đây?

 

Quần thần tâu:

 

- Nên vì Trí Mã tổ chức hội Bạch-liên-hoa bất thường, bố thí rộng rãi, tu các phước nghiệp để tư trợ cho đường âm hồn của Trí Mã.

 

Vua đáp:

 

- Rất hay, hãy mau thi hành.

 

Khi ấy vua ra lệnh cho thái tử, thể nữ trong cung, các quan ra lệnh cho dân chúng trang hoàng các ngã đường, bài trí hương hoa, cờ lọng, đèn sáng treo la liệt khắp nơi tại chỗ hội như vườn hoan-hỷ rất đáng ưa thích. Vua sai đánh trống báo khắp gần xa:

 

- Ngày mai, vì Trí Mã, ta sẽ tổ chức hội Bạch-liên-hoa bất thường tại ngã tư đường, hãy bảo nhau biết cùng nhau tập trung ở hội trường để nhận sự cúng dường của ta.

 

Đúng lúc, mọi người vân tập, được cung cấp vừa ý tùy theo nhu cầu. Này các Bí-sô, các thầy nghĩ sao? Trí Mã lúc ấy chính là thân Ta. Vì vua ấy, Ta đang chịu các sự khổ sở, thân thể tan nát, vẫn không nghĩ đến mạng sống, cứu được vua thoát nạn.

 

Khi ấy, các Bí-sô lại có nghi ngờ, thưa Thế Tôn:

 

- Bạch Đại đức, cụ thọ Thiện Hiền đã tạo nghiệp gì mà nay được làm đệ tử cuối cùng của Đại sư?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy nên biết, hiện nay thầy ấy ưởng thọ quả báo do nghiệp đã tạo ... nói rộng như các nơi khác, cho đến nói bài kệ ... Này các Bí-sô, thời quá khứ, trong kiếp Hiền này khi loài người thọ hai vạn tuổi, có Phật ra đời hiệu Ca Nhiếp Ba đủ mười hiệu ở trong rừng Thi Lộc, Tiên-nhân-đọa-xứ thuộc Ba La Ny Tư. Đức Thế Tôn có người cháu bên họ ngoại tên Vô Ưu xuất gia cầu giải thoát. Vì cho rằng quả giải thoát tự nhiên chứng đắc nên vị ấy không chuyên cần tu tập tám chánh-đạo. Do đó, tuy xuất gia đã lâu nhưng không chứng quả gì, vị ấy du hành nhân gian tùy ý nhập hạ.

 

Bấy giờ, đức Như Lai ấy đã độ kẻ có duyên xong, việc làm đã hoàn mãn như củi hết lửa tắt nên sắp nhập Niết-bàn vào lúc nữa đêm ấy. Lúc ấy, Bí-sô kia đang ở dưới gốc cây Vô Ưu. Nghe đức Như Lai Ca Nhiếp Ba sẽ vào Niết-bàn, thần cây này buồn bã khóc lóc nên nước mắt rơi ướt thân cây. Nhìn lên, Bí-sô hỏi thần ấy:

 

- Vì sao khóc lóc như vậy?

 

Thần cây đáp:

 

- Vào nữa đêm nay, đức Phật Ca Nhiếp Ba sẽ nhập Niết-bàn.

 

Nghe nói như vậy, Bí-sô ấy rất đau buồn khổ sở như bị tên bắn vào tim, khóc lóc kêu gào lớn tiếng.

 

Thần cây hỏi:

 

- Vì sao buồn khóc như vậy?

 

Đáp:

 

- Đức Ca Nhiếp Ba Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là cậu ruột của tôi. Tuy nương nhờ Ngài nhưng tôi không chuyên cần tu tập, cách nơi ấy quá xa, thật khó lễ kính. Là kẻ phàm phu, tôi không đủ năng lực đến đó nhanh chóng nên buồn khóc.

 

Thần cây bảo:

 

- Tôi có năng lực đưa ngài mau đến đó nhưng không biết gặp Phật có lợi ích gì?

 

Bí-sô đáp:

 

- Tôi rất dũng mãnh, nếu được gặp Phật, tất tu tập theo lời dạy mà chứng quả.

 

Dùng thần lực của mình, thần cây đưa Bí-sô ấy đến gặp Phật một cách mau lẹ. Sau khi gặp Phật, Bí-sô sinh tâm thanh tịnhphát nguyện lớn. Tùy theo căn tính, Thế Tôn thuyết diệu pháp làm cho vị ấy chứng quả A-la-hán nhưng vì không nỡ nhìn Phật vào Niết bàn nên nhập diệt trước.

 

Thấy Thế Tôn và Bí-sô ấy nhập diệt như vậy, thần cây có tâm luyến mộ suy nghĩ: "Vị cụ thọ này chứng đắc thắng quả là nhờ ta, nguyện đem công đức này trong đời tương lai như Phật Ca Nhiếp Ba thọ ký cho Ma Nạp Bà lúc loài người sống 100 tuổi, thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ny, khi Phật ấy sắp Niết-bàn, ta được chứng quả Vô học của bậc Thanh văndiệt độ trước.

 

Này các Bí-sô, các thầy nghĩ sao, vị thiên thần ấy nay là Thiện Hiền, do ý nghĩa ấy nên bất cứ lúc nào cũng nên xa lánh bạn xấu ác, thân cậïn bạn lành; nên học như vậy.

 

Bấy giờ, tôn giả A Nan Đà bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Tại nơi yên tịnh, con suy nghĩ rằng thiện-tri-thức là một nữa phần phạm-hạnh. Những người tu hànhthành tựu là nhờ vào năng lực của bạn thiện, có bạn thiện thì xa lìa bạn ác. Vì ý nghĩa này mới được biết bạn thiện là nữa phần phạm-hạnh.

 

Phật dạy:

 

- Này A Nan Đà, chớ nói rằng thiện tri thức là nữa phần phạm hạnh. Vì sao? - Thiện tri thứctoàn phần phạm hạnh. Nhờ họ nên được xa lìa ác tri thức, không tạo các điều ác, thường tu tập các điều thiện thuần nhất thanh bạch đầy đủ viên mãn tướng phạm-hạnh. Do nhân duyên ấy, ai được gặp và sống chung với bạn lành thì dễ đạt được Niết-bàn, nên gọi là toàn phần phạm-hạnh. Vì sao? - Này A Nan Đà! Ta nhờ thiện tri thức nên làm cho các hữu tình đều được giải thoát khỏi sinh lão bệnh tử ưu bi khổ não. Nếu xa rời thiện tri thức thì không có việc ấy. Này A Nan Đà, cần phải tu học lời Ta dạy bảo.

 

Đức Phật lại bảo các Bí-sô:

 

- Do ý nghĩa trên, từ nay về sau không nên vội vàng độ cho ngoại đạo xuất gia thọ cận-viên, trừ người họ Thíchngoại đạo bện tóc thờ lửa. Họ mặc y phục ngoại đạo đến cầu xuất gia và thọ cận-viên, nếu hỏi không có các chướng pháp thì thu nhận. Vì sao? Đó người thân tộc của Ta, có cơ duyên vậy. Người thờ lửa nói có tác dụng của nghiệp, có nhân có duyên, có quả báo của sự siêng năng. Với những người ấy, không cần phải cộng trú, nên cho họ xuất gia và thọ cận viên ngay. Với các ngoại đạo khác đến cầu xuất gia và thọ cận viên, thân giáo sư của họ nên cho y phục, ăn thức ăn hằng ngày của Tăng, cộng trú bốn tháng. Khi quán sát tánh hạnh người ấy đã nhu thuận có thể hóa độ được thì mới cho họ xuất gia và thọ cận viên; nên biết như vậy.

 

Lại nữa, này các Bí-sô, pháp nào có thể sinh trưởng lợi lạc trong hiện tại và tương lai, các thầy nên thọ trì đọc tụng, giảng thuyết cho người khác, chớ cho quên mất, sẽ khiến cho phạm hạnh được tồn tại lâu dài ở đời, an lạc cho trời người, lợi ích cho các chúng sinh. Pháp ấy là khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, nhân duyên, bản sự, bản sinh, phương quảng, hy hữu, thí dụ, luận nghị. Với mười hai phần giáo này, ai thọ trì đọc tụng tu hành đúng như thuyết thì làm cho hiện tại và tương lai được lợi lạc ... cho đến ... từ mẫn quần sinh làm cho Phật pháp trú thế lâu dài.

 

Này các Bí-sô, sau khi Ta Niết bàn, Bí-sô nào suy nghĩ hiện nay ta không còn bậc Đại sư, thì hãy bỏ nhận thức ấy đi. Ta đã chế định các thầy cứ mỗi nữa tháng thuyết giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Đó chính là Đại sư của các thầy, là chỗ nương tựa của các thầy, đó không khác gì Ta còn ở thế gian.

 

Lại nữa, kể từ hôm nay, các Bí-sô hạ tọa đối với các vị trưởng túc, không được gọi bằng tên họ mà nên gọi là Đại-đức hay Cụ-thọ. Bí-sô trưởng lão gọi Bí-sô nhỏ là Cụ thọ. Đối với vị nhỏ, Bí-sô lớn nên thương yêu che chở với tâm từ ái, cung cấp y, bát, túi bát, dây nịt lưng không để thiếu thốn, hoặc dạy bảo đọc tụng, thiền quán ngày càng lợi ích; như vậy làm cho giáo pháp của Ta ngày càng phát triển, ngược lại giáo pháp sẽ mau tiêu diệt.

 

Lại nữa, này các Bí-sô, trên mặt đất này có bốn chỗ, nếu người nam nữ nào có lòng tin thanh tịnh thì trọn đời nên luôn luôn ghi nhớ giữ tâm cung kính. Bốn nơi ấy là:

 

    Một: Nơi Phật Đản sinh.

    Hai: Nơi Phật thành Chánh giác.

    Ba: Nơi chuyển Pháp-luân.

    Bốn: Nơi nhập đại Niết-bàn.

 

Người nào thường đến bốn nơi này, đích thân kính lễ hay hướng về kính lễ chánh niệm chí thành, sinh lòng tin thanh tịnh và luôn giữ như vậy, sau khi qua đời chắc chắn sinh Thiên.

 

(ngài Nghĩa Tịnh đích thân bái kiến những nơi cư trú suốt hơn năm mươi năm trong một đời của đức Như Lai. Có tám chỗ là: Một: Nơi đản sinh; Hai: Nơi thành đạo; Ba: Nơi chuyển pháp-luân; Bốn: Núi Thứu-phong; Năm: Thành Quảng-nghiêm; Sáu: Nơi từ cõi trời đi xuống; Bảy: Vườn Kỳ-thụ; Tám: Nơi Niết-bàn rừng Song-lâm. Bốn nơi là định xứ, còn lại là bất định.

 

    Nhiếp tụng:

 

    Sinh thành pháp thứu,

    Quảng hạ kỳ-lâm,

    Kiền thành nhất tưởng,

    Phước thắng thiên kim.)

 

Này các Bí-sô, nếu các thầy có gì nghi ngờ hãy thưa hỏi. Đối với Phật Pháp Tăng bảo, hay là đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Bốn thánh đế, ai có nghi ngờ, Ta sẽ giải đáp.

 

Khi ấy, Cụ thọ A Nan Đà bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Như con hiểu lời Phật dạy là bảo các Bí-sô còn nghi ngờ nên hỏi, nhưng trong chúng này không có một vị nào còn nghi ngờ đối với Phật Pháp Tăng bảo, Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế để cần phải thưa hỏi.

 

Phật dạy:

 

- Lành thay, lành thay! Này A Nan Đà, thầy hiểu biết thật đúng nên nói như vậy. Ta dùng trí tuệ quán sát trong chúng này thấy không còn ai nghi ngờ về Tam bảo và Tứ-đế.

 

Sau đây là việc làm cuối cùng của Như Lai. Với lòng đại bi, đức Như Lai vén thượng y bày thân thể ra, bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy hãy quán sát thân Phật, các thầy hãy quán sát thân Phật. Vì sao? Vì đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khó được gặp như hoa Ô-đàm-bát-la.

 

Khi ấy, trong sự im lặng của các Bí-sô, Phật dạy:

 

- Các pháp đều như vậy vì các hành vô thường. Đây là lời giáo huấn tối hậu của Ta.

 

Sau khi dạy như vậy, Thế Tôn an tâm chánh niệm vào tịnh-lự thứ nhất, rồi xuất khỏi định này thuận chiều vào tịnh-lự thứ hai ... cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ ... đến diệt-thọ-tưởng-định thì tịch nhiên yên lặng.

 

Khi ấy, A Nan Đà hỏi tôn giả A Ny Lư Đà:

 

- Hiện nay Đại-sư của tôi đã vào Niết-bàn hay chưa?

 

Đáp:

 

- Phật chưa Niết-bàn chỉ đang trú diệt-thọ-tưởng-định.

 

Hỏi:

 

- Chính tôi được nghe Phật dạy rằng nếu Phật Thế Tôn nhập vào định cuối cùng tịch nhiên bất động thì ngay sau đó Mắt thế gian khép lại, chắc chắn vào Niết-bàn.

 

Khi ấy, Thế Tôn xuất khỏi diệt-thọ-tưởng-định nghịch chiều lần lượt vào phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ, xuất phi-phi-tưởng-xứ vào vô-sở-hữu-xứ ... vào vô-sở-hữu-xứ ... vào thức-vô-biên-xứ ... vào không-vô-biên-xứ ... vào tịnh-lự thứ tư ... vào thứ ba ... vào thứ hai ... vào thứ nhất, xuất khỏi sơ thiền nhập vào thứ hai, thứ ba, tịnh-lự thứ tư, tịch nhiên bất động vào cảnh giới vô-dư diệu-Niết-bàn.

 

Sau khi Thế Tôn Niết-bàn, mặt đất chấn động, sao xẹt giữa ban ngày các phương rực sáng. Trên không trung, chư Thiên đánh trống.

 

Bấy giờ, đang ở trong vườn Trúc Lâm, hồ Yết Lan Đắc Ca, thành Vương-xá, thấy mặt đất chấn động nên chánh niệm quán sát xem sự việc gì, liền thấy Như Lai vào đại Viên-tịch, cụ thọ đại Ca Nhiếp Ba suy nghĩ: "Bây giờ, ta không còn đức Đại-sư nữa, chỉ còn sống dựa vào pháp, các hành là như vậy, biết làm sao nữa. Vua Vị Sinh Oán con vua Thắng Thân mới có tín-căn, nếu nghe đức Phật nhập Niết-bàn tất thổ huyết mà chết, vậy ta nên dự bị phương cách trước".

 

Nghĩ như vậy xong, Đại Ca Nhiếp Ba bảo đại thần Hành Vũ trong thành:

 

- Ngài biết không, đức Phật đã vào Niết-bàn. Vua Vị Sinh Oán mới phát tín-căn. Nếu nghe Phật vào Niết bàn, tất nhà vua thổ huyết ra chết. Ta nên dự bị tạo phương tiện trước, tuần tự nói cho vua nghe. Ngài hãy mau đi vào một khu vườn, theo như pháp vẽ bản sinh của Phật ở tòa nhà đẹp.

 

Khi Bồ-tát ở thiên cung Đổ-sử, lúc sắp giáng sinh quán sát năm việc; thiên tử ở Dục-giới làm sạch thân người mẹ ba lần; hiện hình voi trắng đi vào thai mẹ; sau khi đản sinh, vượt thành xuất gia, khổ hạnh sáu năm, ngồi tòa kim-cương dưới gốc cây Bồ-đề mà thành Đẳng Chánh Giác, sau đó đến nước Bà La Ny Tư vì năm Bí-sô mà chuyển Pháp luân Tư đế ba lần mười hai hành, thứ đến thành Thất-La Pạt hiện đại thần thông cho trời người, thứ đến lên cung trời Ba-mươi-ba tuyên thuyết pháp yếu cho thân mẫu Ma Da rồi đi bằng ba đường cầu thang báu xuống Chiêm Bộ Châu vì nhân dân tại thành Tăng Yết Xa rất khát ngưỡng, giáo hóa quần sinh ở khắp nơi các nước, lợi ích viên mãn khi sắp viên-tịch thì đi đến rừng Sa La song thọ ở thành Câu Thi La, nằm quay đầu về hướng Bắc mà vào Đại Niết-bàn. Sau khi vẽ sự tích hóa độ một đời của Như Lai, lại làm tám cái hộp to vừa bằng người, đặt bên cạnh tòa nhà ấy. Bảy hộp đầu chứa đầy sinh-tô. Trong cái thứ tám đựng đầy nước thơm ngưu-đầu chiên đàn. Nếu khi vua đi ra, nên tâu rằng xin long xa tạm thời hạ cố đến vườn hoa để xem các tranh vẽ. Khi trông thấy như vậy, vua sẽ hỏi Hành Vũ rằng tranh này thuật lại việc gì. Ngài nên tuần tự trình bày từng sự việc theo các bức họa. Bắt đầu từ cung Đổ-sử, Bồ-tát giáng thần vào thai mẹ ... cuối cùng đến rừng Song-thọ nằm quay đầu về hướng Bắc. Nghe nói như vậy, nhà vua sẽ bất tỉnh ngã lăn ra đất. Hãy mau đặt vua vào trong hộp thứ nhất, như vậy hai ba bốn cho đến hộp thứ bảy; cuối cùng đặt vào hộp nước thơm, vua sẽ an nghỉ.

 

Sau khi tuần tự chỉ dẫn xong, tôn giả đi về thành Câu Thi Na. Theo lời dạy của tôn giả, Hành Vũ thi hành. Khi vua ra ngoài, đại thần tâu:

 

- Xin long xa tạm thời hạ cố đến vườn hoa để xem các tranh vẽ.

 

Khi đến vườn hoa, trông thấy các tranh vẽ mới lạ trong nhà, bắt đầu từ đản sinh cho đến nằm nơi rừng Song-lâm, vua hỏi đại thần rằng lẽ nào Thế Tôn đã vào Niết-bàn hay sao?

 

Hành Vũ im lặng không đáp. Thấy vậy, biết Phật đã vào Niết-bàn nên vua kêu thất thanh ngất xỉu ngã lăn ra đất. Các quan vội đặt vua vào hộp đựng tô cho đến cái thứ bảy, rồi mới đặt vào nước thơm. Từ đó vua nằm an nghỉ.

 

Khi Như Lai vào Niết-bàn, hoa thơm Sa-la tự rụng xuống phủ lên khắp kim-thân.

 

Thấy như vậy, có Bí-sô nói kệ:

 

    Khi Thế Tôn Niết-bàn,

    Rừng Sa-la tối thắng,

    Rũ cành che phủ kín,

    Tung rãi các hoa thơm.

 

Thiên Đế-thích nói kệ:

 

    Các hành vô thường,

    Là pháp sinh diệt,

    Sinh diệt diệt rồi,

    Tịch-diệt là vui.

 

Phạm Thiên Vương nói kệ:

 

    Tất cả pháp trong đời,

    Đã sinh đều phải tử,

    Đao vô-thường vĩ đại,

    Phá tan hết các hành,

    Đại-sư Mắt-thế-gian

    Đấng Thập-lực vô thượng,

    Duyên hóa độ viên mãn,

    Tịch diệt tại song-lâm.

 

Tôn giả A Ny Lư Đà nói kệ:

 

    Phật không thở ra vào,

    Nội tâm Ngài tịch tịnh,

    Mắt-thế-gian đã nhắm,

    Vào tịch nhiên bất động,

    Thế Tôn đủ mười lực,

    Hóa độ xong nhập Diệt.

    Chúng sinh nào thấy nghe,

    Tâm sợ hãi, lông dựng,

    Tâm ngươi chớ hôn mê,

    Cũng chớ nên ưu buồn,

    Phật chứng chân mộc-xoa,

    Cũng như ngọn đèn tắt.

 

Thấy đức Phật đã nhập Niết-bàn, các Bí-sô đều rất bi cảm. Có người mê muội lăn lộn đất, đấm ngực kêu gào thảm não. Có người tư duy về pháp lý nên nói rằng hiện nay chúng ta nên nhẫn nại; Thế Tôn thường dạy tất cả những sự việc rực rỡ, khả ái, hỷ lạc, tuy thật tôn trọng nhưng cuối cùng đều trở về vô-thường, đều phải bị biệt ly.

 

Tôn giả A Ny Lư Đà bảo với A Nan Đà:

 

- Cụ thọ nên khuyên nhủ đại chúng, hãy tự ức chế, chớ trái uy nghi, không nên buồn khóc quá đáng. Vì sao? Tại đây hiện nay đang có chư Thiên Trường Thọ đã sống trăm ngàn kiếp, đều bất mãn nói rằng vì sao các Bí-sô xuất gia trong pháp luật thiệân thuyết của đức Thế Tôn lại không thể quán sát chính xác về việc vô thường nên sinh buồn khổ như vậy?

 

A Nan Đà thưa:

 

- Chư Thiên ấy có bao nhiêu?

 

Đáp:

 

- Từ thành Câu Thi Na này đến sông Kim và rừng Sa-la đến tháp Thiên Quan của bộ tộc Tráng-sĩ, trong phạm vi mười hai du-thiện-na này, khắp nơi đều có chư Thiên đại uy đức ấy, không còn một chỗ trống để đủ dựng một cây gậy. Thấy Phật đã Niết bàn, chư Thiên này đều bi cảm đấm ngực áo não ngã lăn trên đất ... cũng như trước cùng nhau khuyên giải hãy cố ức chế cho đến ... phải trở về vô-thường, đều phải ly biệt.

 

Khi ấy, tôn giả A Ny Lư Đà giảng thuyết rộng pháp yếu cho A Nan Đàđại chúng đến rạng sáng. Các Bí-sô im lặng lắng nghe.

 

A Ny Lư Đà lại bảo A Nan Đà:

 

- Thầy hãy đến thành Câu Thi Na, bảo với các Tráng-sĩ rằng Như Lai Đại-sư đã nhập cảnh giới vô dư diệu Niết-bàn vào nữa đêm hôm qua. Các vị hãy mau làm những gì cần phải làm chớ để sau này hối hận. Đức Như Lai đại-sư đã nhập Niết-bàn ngay trong thành ấp của các vị, sao lại không cùng nhau cúng dường để báo ân Phật!

 

Sau nghe khi nói như vậy, A Nan Đà liền đưa đại y cho một Bí-sô thị giả, cùng đi đến ngôi nhà hội họp của bộ tộc Tráng-sĩ. Khi ấy có năm trăm người đang có mặt ở đó. Tôn giả bảo họ:

 

- Này quý vị Tráng-sĩ và mọi người, đức Như Lai Đại-sư đã vào cảnh giới vô dư y diệu Niết-bàn vào giữa đêm qua. Quý vị hãy mau làm những gì nên làm, chớ để sau này hối hận.

 

Lại nữa, đức Như Lai Đại sư đã nhập Niết bàn tại thành ấp của các vị, vì sao các vị không tạo sự cúng dường để báo đáp từ ân của Phật?

 

Nghe nói như vậy, có tráng sĩ bất tỉnh ngã lăn ra đất, đấm ngực kêu lớn, thân thể run rẫy không còn tự chủ được; có người kêu lớn rằng chính tôi từng nghe Phật dạy thế gian vô thường tất phải ly biệt.

 

Các Tráng-sĩ nói với nhau:

 

- Hãy mau mau đem các loại vòng hoa, hương dầu, hương bột, hương đốt, các vật xinh đẹp, kèn trống âm nhạc đến rừng Sa-la để đích thân cúng dường.

 

Họ cùng với đại thần phụ tướng và quyến thuộc, nam nữ lớn nhỏ, bạn thân người quen ra khỏi thành Câu Thi La đến rừng Song-lâm. Đến nơi, ngay trước tòa sư tử đức Phật đang nằm, họ hết sức than thở cảm thương rồi đem các loại hoa đẹp hương thơm tối thượng cùng vô số tràng phan cờ xí, thức ăn uống trân kỳ cùng các loại âm nhạc tấu lên cúng dường.

 

Sau đó, họ bạch A Nan Đà:

 

- Đấng Pháp-vương vô thượng đã trở về viên-tịch, không biết hiện nay phải tẩm liệm thi thể Ngài như thế nào?

 

Tôn giả đáp:

 

- Trước đây tôi đã vâng lệnh dạy của Phật, pháp tẩm liệm làm như vua Chuyển-luân.

 

Hỏi:

 

- Pháp ấy thế nào?

 

Đáp:

 

- Trước tiên dùng vải tơ trắng bọc thi thể lại, sau đó dùng 1000 tấm bạch điệp quấn kín khắp bên ngoài rồi đặt vào kim quan chứa đầy dầu thơm, dùng nắp vàng đậy lại, chất gỗ thơm chiên-đàn và hải-ngạn bên ngoài rồi hỏa thiêu. Sau đó, dùng sữa bò rưới cho lửa tắt. Xá-lỵ còn lại được đặt vào bình bằng vàng. Ngay ngã tư của đại lộ, xây dựng tháp, treo phướn lọng chung quanh, thoa hương, đốt hương, tấu các loại âm nhạc cung kính cúng dường, tổ chức hội bố thí lớn. Đ?y là pháp hỏa thiêu vua chuyển luân. Đối với đức Như Lai đại sư còn làm hơn thế nữa.

 

Nghe nói như vậy, các tráng-sĩ thưa với tôn giả:

 

- Con xin nhận lời nhưng một hai ba ngày làm sao hoàn tất việc ấy, nếu đến bảy ngày thì có thể làm xong được việc trên.

 

Đáp:

 

- Có thể được.

 

Khi ấy, theo như pháp táng vua Chuyển luân đã nói ở trước, mọi người thực hiện đầy đủ không thiếu sót. Trong chu vi mười hai du-thiện-na quanh thành Câu Thi Na cho đến tháp Hệ Quan, có vô lượng chúng sinh ngưỡng mộ đồng vân tập đến mang theo hương hoacác loại nhạc cụ để cúng dường. Thân quyến tráng sĩ đều ra khỏi thành đến rừng Sa-la đến trước giường sư-tử thành tâm dâng lên các vật cúng dường. Có một vị tráng sĩ kỳ túc bảo mọi người:

 

- Trong đại chúng hiện diện này, người nữ thì cầm tràng phan, nam thì đẩy xe, chúng ta cùng nhau mang các loại hoa, lụa, hương xoa, hương bột, hương đốt, và các loại âm nhạc đi vào cửa Tây thành Câu Thi Na rồi đi ra cửa Đông, vượt qua sông Kim Sa, đến tháp Hệ-Quan, an trí nơi tốt nhất để hỏa thiêu.

 

Nghe nói như vậy, mọi người tranh nhau ra trước để đỡ kim-quan lên. Tuy cùng nhau cố gắng hết sức nhưng họ không lay chuyển kim quan được.

 

Bấy giờ, cụ thọ A Nan Đà thưa với tôn giả A Ny Lư Đà:

 

- Các tráng-sĩ ở thành Câu Thi Na tuy cố hết sức nhưng vẫn không di chuyển được kim-quan của Phật, tôi không hiểu vì sao như vậy?

 

Tôn giả đáp:

 

- Vì chư Thiêný nghĩ rằng sẽ cùng tráng-sĩ và nhân dân với nữ cầm tràng phan, nam đẩy xe tôn quý, uy nghi nghiêm túc tùy tùng theo Như Lai, chư Thiên chúng ta cùng cầm hoa, lụa ngũ sắc, đốt các hương thơm, tấu thiên nhạc, dâng lên nhiều sự cúng dường vào cửa Tây thành rồi ra cửa Đông, vượt qua sông Kim Sa đi đến tháp Hệ Quan. Nhưng vì họ chưa được tham dự với đủ nghi lễ ấy nên chưa di chuyển được Kim Quan.

 

Tôn giả A Nan Đà thưa:

 

- Nếu như vậy hãy tùy thuận theo ý chư Thiên.

 

Sau khi các tráng-sĩ tùy thuận ý nguyện chư Thiên, chuẩn bị đầy đủ như đã nói rồi mới đến đỡ xe. Họ nâng nhẹ kim quan lên, đặt trên vai và tiến hành. Khi ấy, trên không trung, trời mưa hoa sen xanh vàng đỏ trắng, rắc bột thơm trầm thủy, chiên đàn, đa-yết-la-đa-ma-la, hoa mạn-đà-la. Trăm ngàn loại âm nhạc của chư thiên đồng thời được tấu lên. Lọng hoa của chư Thiên hộ vệ theo nhiều như mây và rãi vô số thiên y. Các tráng-sĩ ở thành Câu Thi Na bảo nhau:

 

- Chư Thiên đã cúng dường, đến lượt chúng ta.

 

Khi ấy, các tráng sĩ cùng tất cả nam nữ sang hèn khác bày biện hương hoa với uy nghi nghiêm túc, đem trăm ngàn vạn đồ vật không thể kể hết ra cúng dường, đi theo kim-quan ra khỏi thành, vượt qua sông Kim Sa đến tháp Hệ Quan. Hoa được tung rãi nhiều ngập đến tận đầu gối.

 

Bấy giờ, nghe Phật diệt độ, một ngoại đạo phạm chí đến rừng Sala, lấy vài cành hoa đi về tụ-lạc Ba ba. Giữa đường, người này gặp Đại Ca Nhiếp Ba cùng năm trăm đệ tử với uy nghi nghiêm túc đang đi về Song-lâm để làm lễ Đại-sư.

 

Gặp ngoại đạo, Ca Nhiếp Ba hỏi:

 

- Ông từ đâu đến và sẽ đi về đâu?

 

Đáp:

 

- Tôi từ thành Câu Thi Na đến và sẽ đến tụ lạc Ba Ba.

 

Tuy biết nhưng Ca Nhiếp Ba cố hỏi:

 

- Từ đó đến đây vậy ông có biết bốn đại của Đ?i sư Thích Ca Mâu Ny Như Lai chúng tôi còn khỏe mạnh không?

 

Đáp:

 

- Từ nơi ấy đến đây, chính tôi thấy Đại-đức Kiều Đáp Ma đã vào Niết-bàn được bảy ngày rồi, có các trời người đang đem hương hoacác loại nghi lễ cùng nhau cúng dường di-thân xá-lỵ. Tôi được hoa này từ lễ hội ấy.

 

Trong năm trăm đệ tử do Đại Ca Nhiếp Ba đưa đi, có một Bí-sô già bẩm tính ngu si không rõ thiện ác, nghe ngoại đạo nói, liền phát ra lời ác:

 

- Vui thay, sướng thay, từ nay chúng ta không còn bị quản thúc bởi các Giới luật dạy bảo điều này nên làm, điều này không nên làm. Việc này không còn nữa vậy từ nay về sau giữ hay không giữ đều do nơi ta, có thể làm thì làm, không cần thì vứt bỏ.

 

Khi Bí-sô già nói như vậy, chư Thiên trên không trung nghe lời phi pháp ấy liền dùng thần lực che mất âm thanh không cho mọi người nghe chỉ trừ Ca Nhiếp Ba biết rõ.

 

Vì giáo giới Bí-sô ấy nên tôn giả tạm thời nghỉ lại bên đường cùng ngồi với đại chúng và bảo rằng:

 

- Này Các cụ thọ! Các hành trong thế gian đều vô thường, bản chất không bền vững, không đáng tin tưởng, không trường tồn, đều trở về sự tiêu diệt vậy nên nhàm chán chớ có tham luyến. Thôi tạm gác việc này qua, chúng ta hãy mau lên đường để gặp toàn thân của Phật.

 

Sau đó, mọi người cùng nhau tiến bước.

 

Các Tráng sĩ và bốn chúng ... trước đó đã dùng vải bọc thi thể Như Lai, quấn lại bằng một ngàn tấm bạch điệp rồi đặt vào kim quan chứa đầy dầu thơm, đậy lại bằng nắp vàng. Họ cùng nhau đem gỗ thơm đến theo pháp mà hỏa thiêu kim quan nhưng lửa không bắt cháy. Tôn giả A Ny Lư Đà bảo A Nan Đà:

 

- Tuy họ muốn đốt nhưng lửa không sao cháy được.

 

Hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

- Vì chư Thiên không cho lửa cháy.

 

Hỏi:

 

- Tại sao?

 

Đáp:

 

- Đại Ca Nhiếp Ba cùng năm trăm đệ tử đang trên đường đi đến, muốn thấy toàn thân kim sắc của Như Lai và đích thân xem hỏa thiêu, vì đợi vị ấy nên chư Thiên không cho lửa cháy.

 

A Nan Đà lại đem việc này báo cho mọi người biết rằng một lúc nữa tôn giả Đại Ca Nhiếp Ba và đệ tử sẽ đến đây.

 

Trông thấy tôn giảđại chúng đến, nhân dân thành Câu Thi La cùng nhau mang hương hoa, các loại âm nhạc đến nơi, lạy sát chân tôn giã.

 

vô lượng trăm ngàn đại chúng đi theo tôn giả đến chỗ Thế Tôn, lấy gỗ thơm, giở nắp kim quan, mở cả ngàn lớp vải và bạch điệp ra, cùng chiêm ngưỡng dung nhan, đầu mặt lạy sát chân Thế Tôn. Ngay khi ấy, có bốn vị đại Thanh văn kỳ túc là cụ thọ A-nhã Kiều-Trần Như, cụ thọ Nan Đà, cụ thọ Thập Lực Ca Nhiếp Ba, cụ thọ Ma Ha Ca Nhiếp Ba nhưng chỉ riêng Đại Ca Nhiếp Ba có phúc đức lớn được nhiều lợi dưỡng về giá trị y bát thuốc trị bệnh nên cần gì cũng có thừa. Tôn giả suy nghĩ: "Ta hãy tự dâng lễ vật để cúng dường Thế Tôn".

 

Đem đến một ngàn tấm bạch điệp và vải trắng, tôn giả quấn Thế Tôn bằng vải trắng sau đó dùng bạch điệp quấn bên ngoài, đặt vào kim quan, châm dầu cho đầy, đậy bằng nắp vàng, chất gỗ thơm lên rồi lui qua một bên.

 

Do uy lực còn lại của Phật và năng lực của chư Thiên, tự nhiên lửa từ trong gỗ thơm cháy ra.

 

A Nan Đà đi nhiễu bên phải giàn hỏa và đọc kệ:

 

    Tướng hảo Như Lai đã viên tịch,

    Tự nhiên lửa cháy thiêu thân Ngài,

    Chỉ còn xá lỵ ở bên trong.

    Ngàn lớp vải ngoài đều cháy hết.

 

Khi ấy những tráng sĩ ở thành Câu Thi Na muốn dùng sữa dập tắt lửa nhưng chưa kịp rưới thì ngay trong lửa bỗng sinh ra bốn cây là cây sữa màu vàng kim, cây sữa màu đỏ, cây bồ-đề, cây ô-đàm-bạt. Sữa tự nhiên chảy ra trong bốn cây này làm cho lửa tắt. Những người sang hèn trong trong thành Câu Thi Na cùng nhau thu lấy xá-lỵ đặt vào bình bằng vàng rồi đặt trên xe bảy báu, bày biện các loại hoa thơm, hương chiên-đàn trầm thủy, hương bột, hương đốt, cờ lọng tràng phan, tấu lên các âm nhạc để cúng dường, khiêng đi vào trong thành, đặt vào giữa tòa nhà tráng lệtiếp tục cúng dường trọng thể như trước.

 

Các tráng sĩ ở tụ lạc Ba Ba nghe Thế tôn nhập Niết-bàn ở thành Câu Thi Na đã trải qua bảy ngày, có vô lượng trời người tổ chức lễ cúng dường vĩ đại. Họ tập họp bốn loại binh tượng mã xa bộ trong tụ lạc của mình, đều trang bị các loại binh khí, cùng nhau kéo đến thành Câu Thi Na, muốn phân chia Xá-lỵ. Đến nơi, họ bảo mọi người:

 

- Đối với Đức Vô-thượng Pháp-vương, Từ-phụ của chúng sinh, tất cả chúng tôi từ lâu đã cúng dường cung kính và được dạy bảo thọ trì chánh pháp, nay Ngài đã diệt độ còn để lại xá-lỵ. Chúng tôi muốn nhận đem về tụ lạc Ba Ba, xây tháp, tôn trí xá lỵ vào để cúng dường.

 

Nghe nói như vậy, Những người trong thành đều lên tiếng:

 

- Thế Tôn Đại sư là Đấng Từ phụ đích thân dạy bảo chúng tôi, đã nhập Niết-bàn trong xứ của chúng tôi, vậy phải lưu lại toàn bộ xá-lỵ lại đây để cúng dường mãi mãi, không thể nào phân chia cho người ngoài ấp được.

 

Khi ấy, người Ba Ba sai sứ đến nói:

 

- Nếu chia cho thì tốt bằng không chia, chúng tôi sẽ đem sức lực ra đoạt l?y.

 

Nghe vậy, người trong thành đáp:

 

- Đánh cũng uổng công, không thể lấy được đâu!

 

Khi ấy, ấp Giá Lạc Ca, ấp Đô Lỗ Ca, ấp A La Ma, ấp Phệ Suất Nô, các Thích-tử thành Kiếp Tỷ La, các Cô Lật Tỳ Tử ở thành Bích Xá Ly cùng tập trung đến. Vua Vị Sinh Oán nước Ma Yết Đà đã nghe Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn tại thành Câu Thi Na, tất cả trời người đang tổ chức cúng dường to lớn, nên rất buồn khổ, bảo với đại thần Hành Vũ:

 

- Khanh biết không, ta nghe Thế Tôn đã vào Niết-bàn, tại thành Câu Thi Na đang tổ chức cúng dường lớn. Vì tranh giành nên các nơi đua nhau đến muốn chiếm lấy xá-lỵ. Ta cũng nên đến đó để xin nhận xá-lỵ.

 

Đáp:

 

- Đúng vậy! Nên chỉnh đốn binh sĩ đi đến thành Câu Thi Na.

 

Vua Vị Sinh Oán muốn cỡi voi trắng đến chỗ Phật. Vừa leo lên lưng voi, nhớ đến ân sâu của Phật, vua bất tỉnh ngã lăn xuống đất. Một lúc sau tỉnh dậy, lên ngựa đi, nhớ đến ân sâu của Phật, không tự kềm chế nỗi, vua lại ngã xuống đất. Hồi lâu tỉnh lại, vua bảo đại thần Hành Vũ:

 

- Ta không thể đích thân đến chỗ Phật được, các khanh hãy thống lĩnh bốn loại binh đến thành Câu Thi Na, truyền lại lời dạy của ta thăm hỏi các tráng sĩ ít bệnh, ít phiền não, sinh hoạt khỏe mạnh, sốâng an lạc không? Khi còn tại thế, Thế Tôn luôn luôn ân cần tiếp dẫn chúng tôi, là Đại sư của ta. Hiện nay, Ngài đã nhập Niết-bàn tại tụ lạc của quý vị, có để lại xá-lỵ, xin cho nhận một phần đem về thành Vương-xá xây tháp để đích thân ta tôn kính đem các loại hương hoa âm nhạc cúng dường.

 

Hành Vũ tâu:

 

- Xin tuân lệnh vua.

 

Vị này thống lĩnh bốn loại binh đi đến thành Câu Thi Na, bảo các tráng-sĩ:

 

- Các vị hãy nghe cho, vua Vị Sinh Oán nước Ma Yết Đà thăm hỏi các vị ... như trước. Đối với chúng tôi, Đại sư Thế Tôn thường làm cho lợi ích an lạc, thật đáng tôn kính. Hiện nay, Ngài đã nhập Niết-bàn trong tụ lạc của quý vị, còn để lại xá-lỵ, xin chia cho một phần đem về thành Vương-xá xây tháp cúng dường.

 

Các tráng-sĩ nói:

 

- Đúng là Thế Tôn làm lợi ích an lạc cho tất cả quần sinh, đáng tôn đáng kính nhưng hiện nay Ngài nhập Niết-bàn tại tụ lạc chúng tôi, có để lại xá-lỵ mà nhà vua muốn được có phần thì thật khó được.

 

Hành vũ bảo các tráng sĩ:

 

- Nếu quý vị đem cho thì tốt, bằng không chia phần thì tôi đem binh lực đến đoạt lấy mang đi.

 

Đáp:

 

- Tùy ý.

 

Khi ấy, mọi người đều tập trung đến vây kín làm vang dậy cả góc thành. Những nam nữ thuộc bộ tộc tráng-sĩ trong thành đều thông thạo bắn cung, cùng tập trung cả tượng mã xa bộ cả bốn loại binh quyết cùng chiến đấu với binh lính của bảy nhóm kia.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Quyển thứ ba mươi tám hết.

 

--- o0o ---

 

Quyển thứ ba mươi chín

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo phần Niết-bàn và thuyết minh sự việc năm trăm vị kết tập)

 

Tụng mười trong biệt môn tám.

 

Khi ấy, thấy mọi người vì muốn tranh giành xá-lỵ nên chiến đấu với nhau, sợ họ bị tổn thương trái lời Phật dạy, nên trong chúng có vị Bà-la-môn tên Đột Lộ Noa cầm cây cờ lớn thay mặt đại chúng bảo với các tráng sĩ thành Câu Thi Na:

 

- Quý vị hãy tạm ngừng lại, tôi xin vì các vị trình bày sự lợi hại. Tôi từng nghe đức Đại Sa-môn Kiều Đáp Ma này thương yêu tất cả các loại hữu tình, đã hùng dũng tinh tấn chịu đựng các việc oán hại trong vô lượng kiếp, chịu khổ lâu dài như vậy mà còn tán thán việc nhẫn nhục, nhờ vậy nên chứng thành Vô-thượng-giác, tâm hành bình đẳng cũng như hư không, tế độ khắp cả các hữu tình, chúng sinh hết phước xả bỏ Niết-bàn nên Ngài vừa an nghỉ mới được bảy ngày thì đã hưng binh đánh nhau, thật là trái nghịch. Xin các vị chớ nên cạnh tranh nhau, tôi sẽ chia đều, làm cho mọi người hoan hỷ, đem xá-lỵ thân Phật phân làm tám phần, mỗi đoàn đem về cúng dường làm lợi cho quần sinh, bình chia xá-lỵ xin cho tôi được thỉnh đưa về nước mình xây tháp thờ phụng.

 

Nghe nói như vậy, các tráng sĩ thành Câu Thi Na nói:

 

- Rất đúng, vì đức Thế Tôn Đại sư luôn luôn tu tập nhẫn nại, không nên vì Ngài mà sát hại ... nói rộng như trước. Ngài hãy thuận theo pháp mà phân chia cho chúng tôi, đây là việc tốt.

 

Được chấp nhận rồi, Bà-la-môn ấy chia xá-lỵ Phật ra làm tám phần:

 

    Phần thứ nhất trao cho các tráng sĩ thành Câu Thi Na để cúng dường trọng thể.

 

    Phần thứ hai trao cho các tráng sĩ ấp Ba Ba.

 

    Phần thứ ba trao cho ấp Giá La- Bác.

 

    Phần thứ tư trao cho xứ A La Ma.

 

    Phần thứ năm trao cho ấp Phệ Suất Noa.

 

    Phần thứ sáu trao cho các Thích-tử thành Kiếp Tỷ La.

 

    Phần thứ bảy trao cho các vị Lật Cô Tỳ thành Phệ Xá Ly.

 

    Phần thứ tám trao cho đại thần Hành Vũ nước Ma-Gia Đà.

 

Sau khi được phân chia xá-lỵ, những người này thỉnh về nước mình xây tháp cung kính tôn trọng, đem hương hoa âm nhạc cúng dường trọng thể.

 

Bà-la-môn Đột Lộ Noa đem cái bình chia xá-lỵ về tụ lạc của mình xây tháp cúng dường.

 

Trong đại chúng, có thanh niên tên Tất Bát La bảo mọi người:

 

- Ân đức của Phật Thích Ca ban bố khắp nơi, Ngài đã nhập Niết-bàn nơi tụ lạc quý vị. Không được chia xá-lỵ của Thế Tôn, vậy tôi xin phần tro tàn, đem về xứ Tất Bát La xây tháp cúng dường.

 

Như vậy, tại Chiêm Bộ Châu, có tám tháp xá-lỵ của Thế Tôn; tháp thứ chín thờ bình; tháp thứ mười thờ tro. Xá-lỵ của Như Lai gồm có sáu đấu lớn, phân làm tám phần. Bảy phần thờ tại Chiêm Bộ Châu. Phần thứ tư do xứ A La Ma nhận lấy, đem cúng dườngLong Cung.

 

Lại nữa đức Phật có bốn răng xá-lỵ, một ở cõi trời Đế Thích; một ở nước Kiền Đà La; một ở nước Yết Lăng Già; một ở cung long vương dưới biển thuộc ấp A Ma La, đều có xây tháp cúng dường.

 

Sau này, vua Vô ưu ấp Ba Tra Ly, khai quật bảy tháp ra, lấy xá-lỵ ấy, xây tám vạn bốn ngàn tháp uy linh cúng dường khắp cả cõi Chiêm Bộ Châu. Do uy đức của tháp làm trang nghiêm thế gian nên trời, rồng, dược-xoa, nhân loại thần Thánh ... đều cung kính tôn trọng cúng dường, làm cho chánh pháp được sáng rực không bị tiêu diệt, ai có cầu mong điều gì cũng được toại ý.

 

(Từ đây về sau nói về việc Ngũ-bá kết-tập ở thành Vương-xá).

 

Đức Thích Ca Như Lai sinh trong giòng họ Thích, thành Chánh Đẳng Giác tại nước Ma Kiệt Đà, chuyển Diệu-pháp-luân tại Bà La Ny Tư, nhập Diệt tại vùng đất của bộ tộc Tráng-sĩ thuộc thành Câu Thi Na. Tôn giả Xá-Lợi Tử cùng chúng tám vạn đại Bí-sô đồng nhập Niết-bàn. Tôn giả Đại Mục Liên cùng bảy vạn Bí-sô cũng nhập Niết-bàn. Thế Tôn cùng một vạn tám ngàn Bí-sô cũng nhập Niết-bàn. Khi ấy, có chư Thiên sống lâu nhiều kiếp (Đa kiếp trường thọ thiên) thấy Phật Niết-bàn nên cùng nhau bi thương, lại thấy các vị Thánh đều diệt độ nên hiềm trách rằng Kinh Luật Luận pháp tạng chân chánh của Thế Tôn nói ra đều chưa được kết tập, lẽ nào để cho chánh giáo thành tro tàn hay sao?

 

Biết ý của chư Thiên ấy, tôn giả Đại Ca Nhiếp Ba bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy nên biết rằng cụ thọ Xá Lợi Tử, cụ thọ Đại Mục Kiền Liên cùng rất nhiều chúng đại Bí-sô không nỡ nhìn Phật vào Đại Niết-bàn nên đã viên-tịch trước. Hiện nay, Thế Tôn và một vạn tám ngàn Bí-sô cùng vào Niết-bàn nên có vô lượng chư Thiên trường thọ nhiều kiếp cùng nhau than tiếc, lại hiềm trách rằng vì sao không kết tập Tam-tạng Thánh giáo, lẽ nào để cho diệu pháp thậm thâm của Như Lai thành ra tro tàn hay sao. Hãy báo cho mọi người biết nên cùng nhau kết tập, đây là đại sự.

 

Đại chúng đồng thanh:

 

- Rất tốt! Chúng ta cùng làm.

 

Khi ấy, Ca Nhiếp Ba thưa với Tăng già:

 

- Trong chúng Tăng này, ai nhỏ nhất?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ Viên Mãn.

 

Đại Ca Nhiếp Ba bảo:

 

- Này Viên Mãn! Thầy hãy đánh kiền-chùy ra lệnh Tăng già tập họp lại hết.

 

Nghe xong, Viên Mãn đến nơi yên tịnh nhập vào tứ thiền, theo định lực của mình chánh niệm quán sát, sau khi quán sát, xuất định đi đánh kiền-chùy.

 

Bấy giờ, có bốn trăm chín mươi chín vị đại A-la-hán từ các phương vân tập đến và an tọa vào chỗ ngồi. Tôn giả Ca Nhiếp Ba bạch:

 

- Thưa các cụ thọ, Bí-sô Tăng già đã tập họp hết chưa, hãy quan sát kỹ xem vị nào chưa đến?

 

Sau khi cùng nhau xem xét, các Bí-sô báo với đại Ca Nhiếp Ba:

 

- Bí-sô ở các nơi đều đã tập họp hết, chỉ riêng cụ thọ Ngưu Chủ chưa đến.

 

Khi ấy, Bí-sô Ngưu Chủ đang ở yên tịnh tại cung Thi Lợi Sa.

 

Đại Ca Nhiếp Ba bảo tôn giả Viên Mãn:

 

- Thầy hãy đến chỗ ở của cụ thọ Ngưu Chủ nói với thầy ấy rằng Bí-sô Tăng già với đại Ca Nhiếp Ba là thượng thủ có lời thăm hỏi sức khỏe tôn giả. Tăng già đang có việc cần, thầy hãy mau đến.

 

Nghe xong, tôn giả Viên Mãn nhập định thậm thâm, với định lực lực ấy biến mất khỏi thành Câu Thi Na, xuất hiện ở cung Thi Lợi Sa.

 

Đến nơi, Viên Mãn đảnh lễ sát chân tôn giả Ngưu chủ và bạch rằng:

 

- Bí-sô Tăng già với đại Ca Nhiếp Ba là thượng thủ chúc sức khỏe tôn giả và báo rằng Tăng già đang có việc cần làm hãy mau đến.

 

Tuy đã thoát ly các dục nhưng tập khí luyến ái cũng còn, tôn giả nói với Viên Mãn:

 

- Chào cụ thọ mới đến, có phải Đại sư Thích Ca Mâu-Ny Như Lai đi giáo hóathế giới khác phải không; hay là Tăng già xảy ra tránh-sự; vì sự chuyển pháp luân vô thượng của đức Như Lai nên các ngoại đạo phỉ báng phải không; hay là ngoại đạo kết bè đảng gây tai nạn cho Thanh-văn đệ tử của Như Lai; hay là các đệ tử của Như Lai do phiền não bốc lên nên khinh chê nhau; hay là có Sa-môn Bà-la-môn trái nghịch lại lời Phật dạy; hay là những kẻ ngu si sắp phá Tăng; hay là kẻ ác kiến định đem những văn từ tương tợ pháp để gây loạn chánh pháp của Phật; hay là có nhiều vị đồng phạm hạnh bỏ phế hạnh nghiệp thù thắngtụng KinhThiền quánưa thích bàn luận việc thế sự vô ích; hay là có tâm nghi ngờ do dự hai đường, phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, phi luật nói là luật, luật nói là phi luật; hay là có các Bí-sô bị tâm tham lam cấu uế quấy loạn nên vứt bỏ sáu pháp hòa-kính, thấy có khách đến cùng đồng phạm hạnh thì không yêu mến nhau; hay là có Bí-sô với ác tính làm cho các tín tâm trưởng giả Bà-la-môn quay lưng lại chánh pháp mà hướng về ngoại đạo; hay là có Bí-sô sống theo tà mạng cày ruộng mua bán, nịnh hót, phục vụ vua, xem tướng họa phúc, tận lực tích trữ tài sản bất tịnh; hay là có Bí-sô ít sống chánh hạnh, nhận lấy ngọa cụ xấu thì sinh ra khinh chê, không thật là Sa-môn tự xưng Sa-môn, gây phiền não cho đồng phạm hạnh; cho nên thầy Viên Mãn từ xa phải đến đây, lẽ ra thầy nói rằng Đại đức Thế Tôn an ổn vô sự mà lại nói Ca Nhiếp Ba là thượng thủ; hay là đức Đại-bi Thế Tôn đã xả bỏ hàm-thức vĩnh viễn vào cảnh giới vô-dư đại-Niết-bàn, hay là bị mất vị Thầy-lái-thuyền nên thế gian kinh sợ; hay là đức Thập Lực Vô Úy bị quỷ Vô-thường nuốt mất, hay là Đấng làm cho tất cả hữu tình thức tỉnh vì lợi ích nên ngủ không thức nữa; hay là ánh sáng mặt trời Phật đã lặn; hay là mặt trăng Như Lai tròn sáng bị A-tu-la ghét nên che mất ánh sáng; hay là đại thọ thù thắng như ý Đại sư tối tôn trong ba ngàn thế giới, được trang sức bằng hoa giác-ngộ, trái là quả bốn bậc Thanh-văn, với hương thơm khả ái, bị voi điên vô-thường xô ngã, hay là đèn trí tuệ Như Lai bị gió vô-minh thổi tắt phải không?

 

Nghe hỏi như vậy, cụ thọ Viên Mãn nói kệ:

 

    Chúng Thanh-văn đã tập,

    Trí tuệ đều sáng suốt,

    Để chánh pháp trường tồn,

    Chỉ còn chờ tôn giả,

    Thuyền Phật pháp đã chìm,

    Núi trí tuệ cũng sụp,

    Chúng thù thắng của Phật,

    Đều sắp về viên-tịch,

    Xin ngài mau gặp họ,

    Cùng kết tập pháp-Phật,

    Việc này rất trọng đại,

    Nên sai con gặp ngài.

 

Cụ thọ Ngưu Chủ bảo Viên Mãn:

 

- Thôi đừng nói nữa, hãy nghe kệ:

 

    Đèn sáng Vô-thượng còn ở đời,

    Tôi xin đến đó lễ Tôn-nhan,

    Nay đã hết duyên, vào Niết-bàn,

    Có người trí nào lại đến đó.

    Thầy hãy đem y bát của tôi,

    Đưa cho đại chúng ứng-cúng ấy,

    Tôi vào diệt độ, không tái sinh,

    Xin thánh chúng từ bi tha thứ.

 

Nói kệ xong, tôn giả rời khỏi tòa ngồi, vọt lên hư không hiện mười tám pháp biến hóa, phóng các loại ánh sáng, hóa ra lửa thiêu thân, tự diệt độ. Từ thân tôn giả chảy ra bốn dòng nước.

 

Dòng thứ nhất nói kệ:

 

    Chúng sinh chúng ta hết phúc đức,

    Hiện nay bỗng nhiên bị bỏ rơi,

    Mặt trời trí tuệ đã lặn rồi,

    Tất cả quần-mê, không ai cứu.

 

Dòng nước thứ hai nói kệ:

 

    Các hành bị diệt từng sát-na,

    Từ sinh đến diệt đều khổ não,

    Chỉ do phàm phu chấp hư vọng,

    Kẻ tạo người nhận đều không thật.

 

Dòng nước thứ ba nói kệ:

 

    Bậc trí không để tâm phóng dật,

    Gắng tu thiện-pháp mau thành tựu,

    Tuổi trẻ xinh đẹp cũng phải chết,

    Bị quỷ vô-thường nuốt tất cả.

 

Dòng nước thứ tư nói kệ:

 

    Tôi xin đảnh lễ đệ tử Phật,

    Việc cần phải làm, đã thành tựu,

    Kính thuận Đại sư vào viên tịch,

    Như trâu chúa đi, trâu nhỏ theo.

 

Sau khi cúng dường di thân xá-lỵ của tôn giả Ngưu-Chủ xong, Viên Mãn cầm y bát vị ấy, nhập vào định thậm thâm, biến mất khỏi cung Thất Lỵ Sa, hiện ra tại rừng Song Lâm thành Câu Thi Na, đến chỗ Đại Ca Nhiếp Ba và năm trăm Bí-sô, sau khi kính lễ tùy từng vị, đặt y bát của Ngưu Chủ trước thượng tọa, nói kệ:

 

    Vị ấy nghe Phật đã viên-tịch,

    Tất cả phước nghiệp đều đi theo,

    Đây là y bát, con đem về,

    Cầu xin được Tăng già tha thứ.

 

Tôn giả Đại Ca Nhiếp Ba bảo các Bí-sô:

 

    - Các vị đồng phạm hạnh hãy nghe nói.

    Vị theo thánh giáo đã nhập diệt,

    Nhiều Ứng-cúng khác đã Niết-bàn,

    Hiện tại, Tăng hòa hợp đồng tâm,

    Khắp vì trời người mà kết tập.

 

Tôn giả Ca Nhiếp Ba lại nói kệ bảo đại chúng hãy kiên quyết chí niệm, đừng nhập Niết-bàn:

 

    Các vị đừng làm theo Ngưu Chủ,

    Viên tịch tại cung Thất Lỵ Sa,

    Không nên vội vã vào Niết Bàn,

    Hãy làm lợi ích cho quần sinh.

 

Bấy giờ, cụ thọ Ca Nhiếp Ba và năm trăm Bí-sô cùng lập quy chế:

 

- Quý vị hãy nghe tôi nói, mặt trời Phật đã lặn, sợ pháp cũng mất theo, nên nay muốn cùng nhau tập họp lại để kết tập Pháp-tạng. Mới an táng Đại sư xong nên mọi người đều buồn khổ, nếu kết tập tại đây ngay thì Tăng già bốn phương đến làm cho phiền phức. Tâm đã không an thì việc khó thành tựu. Nhưng đức Phật Thế Tôn thành Chánh Đẳng Giác dưới gốc Bồ-đề tại nước Ma Yết Đà, pháp thân đã đi qua. Hiện nay, chúng ta nên đến đó kết tập.

 

Có vị nói rất tốt, có vị nói chúng ta nên đến dưới cây Bồ-đề.

 

Đại Ca Nhiếp Ba nói:

 

- Vua Vị Sinh Oán con vua Hắng Thân nước Ma-yết-đà, mới phát tín tâm, có thể đem bốn loại vật dụng cần thiết cho đời sống cúng dường đầy đủ đến chúng Tăng. Chúng ta nên đến đó kết tập.

 

Đại chúng đều khen phải, có người nói rằng tất cả chúng ta đều chứng quả A-la-hán, chỉ trừ A Nan Đà còn ở địa vị hữu học nhưng khi Phật còn tại thế, cụ thọ này đích thân làm thị giả nên thọ trì hết pháp tạng của Phật mà quả vị chưa viên mãn, vậy phải làm sao đây?

 

Đại Ca Nhiếp Ba nói:

 

- Nếu như vậy, hãy làm pháp lựa chọn vì sợ vị hữu học khác sinh khó chịu, nên sai A Nan Đà làm người cấp nước, người khác tự ra ngoài.

 

Đại chúng đều tán đồng.

 

Trước đại chúng, cụ thọ Ca Nhiếp Ba bảo A Nan Đà:

 

- Thầy có thể làm người cung cấp nước cho đại chúng không?

 

Đáp:

 

- Làm được.

 

Ca Nhiếp Ba bạch nhị yết-ma để sai:

 

- Đại đức Tăng lắng nghe, cụ thọ Bí-sô A Nan Đà này đã từng đích thân phục vụ đức Phật nên thọ trì khắp các pháp tạng. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng sai Bí-sô A Nan Đà làm người cung cấp nước cho chúng Tăng. Đây là lời tác bạch.

 

Đại đức Tăng lắng nghe, cụ thọ Bí-sô A Nan Đà này đã từng đích thân phục vụ đức Phật nên thọ trì khắp các pháp tạng. Nay Tăng sai Bí-sô A Nan Đà làm người cung cấp nước cho chúng Tăng. Nếu cụ thọ nào đồng ý Bí-sô A Nan Đà làm người cung cấp nước cho chúng Tăng thì im lặng, vị nào không đồng ý thì nói ra.

 

Tăng già đã sai Bí-sô A Nan Đà làm người cung cấp nước cho chúng Tăng. Tăng đã đồng ýim lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy.

 

Đại Ca Nhiếp Ba lại bảo A Nan Đà:

 

- Thầy cùng đại chúng du hành nhân gian, hãy đi đến nước Ma Yết Đà, còn tôi đi đường thẳng.

 

Khi A Nan Đà cùng đại chúng đi đến thành Vương-xá thì Đại Ca Nhiếp Ba đã đến trước rồi. Vua Vị Sinh Oán rất tin tưởng Phật, khi cỡi voi lớn mà trông thấy Ngài thì bước ngay xuống đất nhưng nhờ vào uy thần của Phật nên không bị thương tổn. Đang cỡi voi, trông thấy Ca Nhiếp Ba, vua nhớ đến Như Lai, liền nhảy xuống ngay.

 

Dùng thần lực đỡ vua xuống đất nên không bị thương tổn, Tôn giả bảo:

 

- Đại vương biết cho, Đại-sư Như Lai, tâm luôn chánh định còn các Thanh văn đệ tử thì không được như vậy. Nếu không nhiếp niệm quán sát thì không biết việc ở trước rõ hay không rõ, thế nên từ nay tôi cùng vua quy định, nếu khi vua đang cỡi voi ngựa mà thấy đệ tử Thanh văn của Như Lai thì không được vội vàng nhảy xuống, phải bảo trọng thân thể.

 

Vua thưa:

 

- Xin vâng lời tôn giả dạy, Thánh giả biết cho, khi Phật tại thế, con đích thân cúng dường, nay đã Niết-bàn vậy bày tỏ sự cung kính ở đâu; tôn giả chính là nơi để con tôn kính Thế tôn. Vì sao, giáo pháp Như Lai đều ủy thác cho tôn giả.

 

Sau khi thưa như vậy, vua lại bảo đại thần:

 

- Hãy luôn cúng dường bốn vật cần dùng đến tôn giả không được thiếu sót.

 

Tôn giả nói:

 

- Đại vương nên biết, đức Phật chứng đại Bồ-đề thành tựu pháp thân tại đất nước này, vậy nên ngày nay dựng ngọn cờ pháp kết tập tam tạng tại xứ của nhà vua. Đại chúng Bí-sô đang trên đường đi đến.

 

Vua thưa:

 

- Lành thay, con xin cung cấp tất cả những vật cần dùng cho Thánh chúng.

 

Không bao lâu, các Thánh chúng đều đến đại thành Vương-xá. Nghe vậy, muốn đến gặp, vua ra lệnh cho đại thần:

 

- Tất cả nhân dân xa gần sang hèn đều phải trang hoàng thành phố, quét dọn đường sá.

 

Mang hoa hương đẹp tràng phan lọng quý cùng trăm ngàn các loại âm nhạc, vua cùng phi hậu, thái tử, thể nữ trong cung, nhân dân trong nước đồng thời xuất thành nghênh đón Thánh chúng. Sau khi vào thành, đại chúng an tọa. Trước thượng tọa, nhà vua cung kính quỳ rạp chắp tay thưa:

 

- Đại đức Đại Ca Nhiếp Ba, hôm nay Thánh chúng đều đến đây làm lợi ích lớn cho chúng sinh, con xin cung cấp tất cả những gì cần dùng. Hiện nay, con không biết có thể tổ chức đại hội kết tập ở nơi nào?

 

Tôn giả nói:

 

- Nếu tổ chức kết tập tại vườn Trúc Lâm trong thành này, chư Tăng các nơi đến gây huyên náo, sợ bị gián đoạn. Nếu trên núi Thứu Phong cũng không yên tịnh, dưới hang Tất Bát La có thể kết tập được nhưng không có ngọa cụ.

 

Nghe nói như vậy, vua rất vui mừng, thưa với Ca Nhiếp Ba:

 

- Nếu xác định kết tập tại chỗ ấy, con xin cúng dường tất cả các loại ngọa cụ theo nhu cầu.

 

Ca Nhiếp Ba nói với đại chúng:

 

- Vì Thánh chúng đến hang Tất Bát La để kết tập, vị đại vương này xin phục vụ tất cả những nhu cầu cần dùng không để thiếu thốn. Đại chúng các vị hãy mau đến đó.

 

Vua bạch với Tôn giả Ca Nhiếp Ba:

 

- Khi đại giác Thế Tôn nhập Niết-bàn mà không báo cho con biết, cầu xin tôn giả ở mãi thế gian, nếu sắp viên tịch xin cho con biết trước.

 

Tôn giả im lặng nhận lời. Tôn giả lại suy nghĩ: "Trong mùa hạ này, tiền an cư nên sắm sửa phòng nhà và ngọa cụ và khi hậu an cư thì kết tập".

 

Tôn giả quán sát tâm của A Nan Đà rồi bảo cụ thọ A Ny Lư Đà:

 

- Trong đại chúng được Thế Tôn tán thán này, thầy biết ai còn là hữu học có tham, sân, si, còn đủ ái thủ, việc làm chưa hoàn tất?

 

Nhập vào định thứ tư, A Ny Lư Đà quán sát trong chúng, thấy chỉ có tôn giả A Nan Đà còn địa vị hữu học, bị phiền não trói, việc làm chưa xong. Sau khi quán sát, tôn giả nói với Ca Nhiếp Ba:

 

- Thưa tôn giả! Trong chúng đại Thanh văn này đều thanh tịnh không còn các phần hư mục chỉ có cốt lõi, đầy đủ phúc đức, việc đã làm xong, đáng nhận sự cúng dường của trời người, chỉ riêng A Nan Đà còn là hữu học, còn bị phiền não trói, việc làm chưa xong.

 

Tôn giả Ca Nhiếp Ba quán sát xem A Nan Đà cần được điều phục bằng khuyên nhủ hay quở trách. Thấy cần dùng cách quở trách vị này mới được điều phục nên giữa đại chúng, tôn giả lớn tiếng bảo A Nan Đà:

 

- Thầy hãy ra ngoài, không được cùng kết tập với đại chúng thù thắng này.

 

Nghe nói lớn tiếng như vậy, như bị tên bắn vào tim, toàn thân run rẩy sợ hãi, A Nan Đà thưa:

 

- Đại đức Ca Nhiếp Ba, hãy bỏ qua việc ấy, xin dung thứ cho, tôi không phá giới, phá kiến, phá uy nghi, phá chánh mạng, không phạm lỗi với Tăng này, vì sao bỗng nhiên bị đuổi ra ngoài?

 

Tôn giả bảo:

 

- Chính thầy thân cận hầu Phật, làm sao phá kiến giới uy nghi chánh mạng, việc ấy nào có gì lạ; nhưng nói không phạm lỗi trong Tăng thì hãy đem thẻ ra đây để tôi nêu lên để cho thầy biết.

 

Tôn giả A Nan Đà liền rời chỗ ngồi. Khi tôn giả đứng dậy, ba ngàn thế giới chấn động ba cách; đó là chấn nhỏ, vừa và lớn; lay nhỏ, lay vừa, lay lớn; động nhỏ, động vừa, động lớn. Trên hư không, có chư Thiên trợn mắt, nói rằng: "Than ơi, Đại Ca Nhiếp Ba, làm sao nói lên được lời đúng đắn, lời chân thật như vậy. A Nan Đà này gần rời Thế Tôn rồi."

 

Nói như vậy xong, họ cùng nhau than thở, chê trách.

 

Ca Nhiếp Ba bảo A Nan Đà:

 

- Thầy nói không phạm lỗi trong Tăng nhưng làm sao mà thầy không phạm lỗi với Tăng được? Thầy biết Thế Tôn không cho phép người nữ với tánh kiêu mạn dối trá được xuất gia. Như Phật bảo rằng này A Nan Đà, ông đừng cầu xin việc cho người nữ xuất gia và thọ cận viên. Vì sao? Nếu cho người nữ xuất gia trong pháp của Ta thì chánh pháp không trường tồn như ruộng lúa tốt bị sương muối mưa đá thì không còn hạt chắc.

 

Như vậy này A Nan Đà! Nếu cho người nữ xuất gia, giáo pháp bị tổn giảm không trường tồn. Vậy mà thầy thỉnh Phật độ họ, chẳng phải là lỗi hay sao?

 

A Nan Đà thưa:

 

- Đại đức hãy bỏ qua, xin dung thứ cho, tôi không có ý riêng xin độ cho người nữ, chỉ vì Đại-thế-chủ là di mẫu của Phật. Khi sinh Phật được bảy ngày thì phu nhân Ma-Da qua đời, đích thân di mẫu dưỡng dục cho bú mớn, với ân sâu như vậy sao lại không báo đáp.

 

Lại nữa, nghe chư Phật quá khứ đều có bốn chúng nên tôi muốn Thế Tôn cũng như vậy. Một là báo ân sâu của di mẫu, hai là nghĩ đến tình thân tộc, do đó nên thỉnh Phật độ người nữ xuất gia; xin tha lỗi này cho tôi.

 

Ca Nhiếp Ba bảo:

 

- Này A Nan Đà! Việc này không phải là báo ân, chính là phá hoại thân chánh pháp, cho sương muối mưa đá lớn rơi xuống ruộng Phật. Đúng ra, chánh pháp trụ thế đủ 1000 năm, do thầy nên thời gian tồn tại bị giảm xuống. Lại nữa, thầy nói nghĩ đến tình thân tộc thật là phi lý, vì người xuất gia vĩnh viễn từ bỏ ân ái. Thầy lại nói rằng tôi nghe chư Phật trong quá khứ đều có bốn chúng nên mong Thế Tôn đồng như vậy, trong thời xa xưa ấy loài người đều thiểu dục, đối với tham sân siphiền não đều cạn mỏng nên họ xuất gia được. Nay không phải như vậy nên Thế Tôn không cho phép. Vậy mà thấy họ cố sức cầu khẩn nên thầy xin Phật cho phép. Đây là lỗi thứ nhất của thầy, hãy bỏ một thẻ xuống.

 

Ca Nhiếp Ba lại nói:

 

- Này A Nan Đà! Có lỗi khác nữa, người nào tu tập nhiều bốn thần túc thì được trú thế một kiếp hay hơn một kiếp. Thầy không vì chúng sinhthỉnh Phật Thế Tôn trú thế một kiếp.

 

A Nan Đà thưa:

 

- Tôn giả! Tôi không có ý riêng, chỉ vì ngay lúc ấy bị Ma ngăn che.

 

Hỏi:

 

- Đây là lỗi lớn! Làm sao tha thứ được. Thầy thân cận Thế Tôn, tập khí trần lao đều hết vậy mà còn để Ma La Ba Tỳ ngăn che. Đây là lỗi thứ hai, hãy bỏ xuống một thẻ nữa.

 

Ca Nhiếp Ba nói:

 

- Thầy còn có lỗi, khi còn tại thế, Thế Tôn nói ví dụ, ngay trước Phật, thầy lại nói rõ việc ấy ra. Đây là lỗi thứ ba, hãy bỏ xuống một thẻ nữa.

 

Thầy lại có lỗi khác, có lúc Thế Tôn đưa nội y màu hoàng kim cho thầy giặt, thầy dùng chân đạp lên y để vắt nước, không phải là lỗi hay sao?

 

A Nan Đà thưa:

 

- Lúc ấy không có người khác, thế nên tôi dùng chân đạp lên y, chứ không có ý khinh mạn.

 

Tôn giả nói:

 

- Nếu không có người, sao thầy không ném lên trên, chư Thiênhư không sẽ hỗ trợ cho thầy. Đây là lỗi thứ tư, hãy bỏ xuống một thẻ nữa.

 

Thầy lại có lỗi khác, khi sắp đến rừng Song Lâm để Niết-bàn, Thế Tôn khát nước. Thầy đem nước đục dâng lên Phật, chẳng phải là lỗi hay sao?

 

A Nan Đà nói:

 

- Tôi lấy nước tại cuối sông Câu Đà, khi ấy có năm trăm chiếc xe đi qua sông nên không thể tìm được nước trong chứ không phải lỗi của tôi.

 

Ca Nhiếp Ba bảo:

 

- Đây là lỗi của thầy, bấy giờ sao không đưa bát lên không trung, chư Thiên sẽ rót nước tám công đức vào bát ấy. Đây là lỗi thứ năm, hãy bỏ xuống một thẻ.

 

Thầy lại có lỗi khác, như Thế Tôn dạy Ta bảo các Bí-sô cứ mỗi nữa tháng thuyết kinh Biệt Giải Thoát. Có những giới nhỏ thuộc chi tiết, Ta muốn bỏ đi để các Bí-sô Tăng già sinh hoạt an lạc. Thầy đã không thưa hỏi nên không biết trong số đó giới nào gọi là giới nhỏ thuộc chi tiết, nay không còn nơi nào để hỏi vậy phải làm sao đây.

 

Hiện nay, nếu chỉ nói bốn pháp Ba-la-thị-ca, mười ba pháp Tăng-già-phạt-thi-sa, hai pháp Bất-định, ba mươi pháp Ny-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, chín mươi pháp Ba-dật-để-ca, bốn pháp Ba-la-để-đề-xá-ny, các pháp chúng học, ngoài ra gọi là giới nhỏ thuộc chi tiết. Có người nói từ pháp Tha-thắng đến bốn pháp Đối-thuyết, ngoài ra gọi là giới nhỏ thuộc chi tiết. Có người nói từ bốn pháp Tha-thắng đến chín mươi tội đọa, ngoài ra gọi là giới nhỏ thuộc chi tiết. Có người nói từ đầu đến ba mươi Xả-đọa, ngoài ra gọi là giới nhỏ thuộc chi tiết. Có người nói từ đầu đến hai Bất-định, ngoài ra là Giới nhỏ thuộc chi tiết. Có người chỉ nói bốn pháp Tha-thắng, ngoài ra là giới nhỏ thuộc chi tiết.

 

Bấy giờ, các Bí-sô không biết giới nào là giới nhỏ thuộc chi tiết. Nếu nơi ấy, có ngoại đạo nghe biết, tìm được sơ hở nên nói rằng Sa-môn Kiều Đáp Ma quy định nghiêm ngặt, khi vị ấy còn sống, các đệ tử Thanh văn thi hành toàn bộ giáo pháp, vị ấy qua đời, sau khi hỏa thiêu, giáo pháp cũng diệt theo. Với những giới cấm, ai thích thì giữ, không thích thì bỏ, phần lớn không còn phụng hành. Tại sao thầy không vì chúng sinh đời vị lai mà thưa hỏi đức Thế Tôn, như vậy đáng bị tội truy hối.

 

A Nan Đà đáp:

 

- Đại đức! Chẳng phải tôi có ý khác lên không thưa hỏi, chỉ vì khi ấy bị chia lìa Như Lai nên tôi rất đau khổ ưu buồn.

 

Ca Nhiếp Ba nói:

 

- Như vậy cũng có lỗi, thầy thân cận với Phật, sao không biết các hành vô thường mà lại buồn khổ đến như thế, đó là lỗi lớn. Đây là lỗi thứ sáu, hãy bỏ xuống một thẻ nữa.

 

Thầy lại có lỗi, giữa những người thế tục, hiện tướng âm tàng của Phật ra trước các người nữ.

 

Đáp:

 

- Đại đức! Tôi không có ý khác, chỉ vì những người nữ ấy bị dục nhiễm cường thịnh, phiền não bao vây, nếu thấy được âm tàng của Thế Tôn thì dục nhiễm chấm dứt.

 

Tôn giả nói:

 

- Thầy không có tuệ nhãn tha tâm trí làm sao biết được phụ nữ thấy được âm tàng của Phật thì hết dục nhiễm? Đây là lỗi thứ bảy, hãy bỏ xuống một thẻ nữa.

 

Thầy lại có lỗi nữa, tự tiện bày thân kim sắc của Như Lai cho các người nữ. Trông thấy Phật, họ khóc rơi nước mắt làm ướt bẩn tôn-nghi Phật; đây là lỗi của thầy.

 

A Nan Đà nói:

 

- Chẳng phải tôi không ngại ngùng nhưng nghĩ rằng có những chúng sinh nếu thấy được thân kim sắc của Phật, đều nói rằng nguyện cho thân tướng của tôi sẽ được như Phật.

 

Ca Nhiếp Ba nói:

 

- Thầy không có tuệ nhãn tha tâm trí làm sao biết chúng sinh phát nguyện như vậy. Đây là lỗi thứ tám của thầy, hãy bỏ xuống một thẻ nữa.

 

Lại nữa, thầy chưa ly dục mà ở giữa chúng Tăng ly dục thì không được. Thầy hãy đi ra, Thánh chúng thù thắng không thể kết tập cùng thầy được.

 

Bị tôn giả Ca Nhiếp Ba kết tám tội ác tác ấy, A Nan Đà nhìn khắp bốn phía trong lòng buồn bã than thở, nói:

 

- Than ơi khổ thay, tại sao ta đến nỗi như thế này, mới rời xa Như Lai thì đã không còn nơi nương tựa giúp đỡ, mất ánh sáng lớn rồi, sẽ nói với ai đây!

 

Khi tôn giả Ca Nhiếp Ba kết tội ấy, chư Thiên trên không cùng nhau thán phục bảo:

 

- Đại tiên nên biết, Thiên chúng tăng thịnh, A-tu-la suy giảm. Chánh pháp của Thế Tôn sẽ trường tồn. Đạo lực của đại Thanh văn này gần bằng Phật, nên đem tám sự việc ra kết tội tôn giả kia. Đức của Thanh văn kia chỉ dưới Phật, thế nên ta biết Phật Pháp bất diệt.

 

Khi ấy, A Nan Đà lại bạch tôn giả:

 

- Đại đức hoan hỷ bỏ qua cho, tôi xin như pháp sám hối tội ấy, không dám tái phạm. Nhưng khi Phật Thế Tôn sắp Niết bàn, có dạy: - Này A Nan Đà! Sau khi Ta diệt độ, chớ có ưu sầu khóc lóc; Ta giao thầy cho Đại Ca Nhiếp Ba. Vậy lẽ nào tôn giả thấy tôi có chút lỗi nhỏ mà không dung nạp, xin hoan hỷ phụng hành lời dạy của Đại sư.

 

Ca Nhiếp Ba nói:

 

- Thầy chớ buồn khóc, thiện pháp do nơi thầy mà được phát triển không bị tiêu diệt. Chúng tôi cần phải kết tập Thánh giáo của Như Lai, thầy hãy đi khỏi nơi này, Thánh chúng không thể cùng thầy kết tập.

 

Tôn giả A Ny Lư Đà thưa với Ca Nhiếp Ba:

 

- Không có A Nan Đà, chúng tôi làm sao kết tập?

 

Đáp:

 

- Tuy A Nan Đà có đủ các đức nhưng chưa thoát ly dục nhiễm sân si, hữu học chưa làm xong việc, nên không thể cùng vị ấy kết tập.

 

Ca Nhiếp Ba lại bảo A Nan Đà:

 

- Hãy mau ra ngoài, phải nổ lực đối với việc cần phải làm, khi chứng quả A-la-hán rồi Thánh chúng sẽ cùng thầy kết tập.

 

Vừa ly biệt Đại sư nên trong lòng đang buồn bã thương nhớ, lại bị kết tội đuổi ra, A Nan Đà càng thêm áo não, đi đến thôn Tăng Thắng kết hạ an cư, lấy đồng tử trong thôn làm thị giả. Trong thời gian ấy, cụ thọ A Nan Đà hết sức chuyên cần, thường thuyết diệu pháp cho bốn chúng. Đồng tử suy nghĩ: "Bổn sư của ta là bậc hữu học ly dục hay vô học ly dục, ta hãy nhập định tương ứng để quán sát tâm vị ấy".

 

Sau khi nhập định quán sát, đồng tử thấy tâm tôn giả là bậc hữu học ly dục. Sau khi xuất định, đồng tử đến gặp tôn giả, đứng qua một bên nói kệ:

 

    Nên ở yên tịnh dưới bóng cây,

    Nhất tâm chánh niệm Niết-bàn-cung,

    Thầy nên cẩn thận chuyên cần tu,

    Vào đường viên-tịch không lâu nữa.

 

Nghe đồng tử nói yếu nghĩa rồi, suốt ngày đêm dù ngồi hoặc đi lại, tôn giả hết sức chuyên chú mài dũa tâm tư, trừ các chướng pháp. Vào đầu đêm, luôn luôn đi hoặc ngồi, tôn giả hết sức kiên tâm trừ sạch các chướng pháp. Vào giữa đêm, tôn giả rửa chân vào phòng, nằm nghiêng bên phải, hai chân gác lên nhau, tưởng đến ánh sáng, nghĩ đến lúc thức dậy. Khi tác ý như vậy, đầu chưa đụng gối, tôn giả đã đoạn trừ hết tâm hữu lậu, được giải thoát, chứng quả A-la-hán, hưởng thụ an lạc của giải thoát, liền đi đến đại chúng ở thành Vương Xá.

 

Biết tôn giả đã chứng quả, đại chúng đều tán thán là bậc đại trượng phu. Khi ấy, Đại Ca Nhiếp Ba cùng năm trăm A-la-hán cùng đến hang Tất Bát La. Sau khi tập họp, tôn giả nói với đại chúng:

 

- Quý vị biết cho, trong đời tương lai sẽ có những Bí-sô độn căn tán loạn, nếu không có tụng tóm lược thì không thể đọc tụngthọ trì Kinh Luật Luận. Thế nên, trong buổi sáng, chúng ta nên kết tập kệ tụng tóm lược tương ứng theo sự việc, sau khi ăn sẽ kết tập Kinh Luật và Luận.

 

Nghe như vậy, các Bí-sô bạch với tôn giả:

 

- Bây giờ, có thể kết tập kệ tụng trước.

 

Sau khi ăn trưa, họ lại bạch:

 

- Kết tập phần nào trước?

 

Tôn giả bảo:

 

- Nên kết tập Kinh trước.

 

Khi ấy, năm trăm trăm vị A-la-hán cùng nhau thỉnh Đại Ca Nhiếp Ba lên tòa sư tử. Sau khi an tọa, tôn giả bảo A Nan Đà:

 

- Cụ thọ có thể chọn lựa kết tập những kinh mà Như Lai đã thuyết không?

 

Đáp:

 

- Được.

 

Tôn giả tác bạch:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe, Cụ thọ A Nan Đà này có thể chọn lựa kết tập những kinh phápNhư Lai đã dạy. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng sai Cụ thọ A Nan Đà sẽ chọn lựa kết tập những kinh phápNhư Lai đã dạy. Đây là lời tác bạch.

 

Thứ đến tác yết-ma

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe, Cụ thọ A Nan Đà này có thể chọn lựa kết tập những kinh phápNhư Lai đã dạy. Nay Tăng sai cụ thọ A Nan Đà sẽ chọn lựa kết tập những Kinh phápNhư Lai đã dạy. Nếu các Cụ thọ đồng ý A Nan Đà này sẽ chọn lựa kết tập những kinh phápNhư Lai đã dạy thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Tăng đã đồng ý A Nan Đà này sẽ chọn lựa kết tập những Kinh phápNhư Lai đã dạy rồi. Tăng đã đồng ýim lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy.

 

Khi Cụ thọ A Nan Đà sắp thuyết lại pháp, năm trăm A-la-hán đều lấy Tăng-già-chi trải lên tòa ấy. A Nan Đà nhìn khắp bốn phía, phát tâm thương mến các loại hữu tình, với tâm rất tôn trọng chánh pháp, sinh tâm cung kính với các vị đồng phạm hạnh, đi nhiễu bên phải tòa cao ấy, cúi đầu kính lễ, y theo pháp kính lễ ngay trước thượng tọa, tưởng đến vô thường, dùng tay vịn tòa, ngồi yên ngay thẳng, thứ đến quán sát kỹ, thấy chư Thánh chúng cũng như biển lớn sâu thẳm yên tịnh, nên suy nghĩ: "Ta đích thân nghe Kinh ấy từ Phật, hoặc nghe nói lại, hoặc nói ở cung rồng, hoặc nói ở trên trời, đều thọ trì hết không quên gì cả, vậy ta nên nói ra".

 

Khi ấy, chư Thiên bảo nhau:

 

- Các vị nên biết! Thánh giả A Nan Đà sắp tuyên thuyết kinh phápNhư Lai đã dạy, hãy nhất tâm lắng nghe.

 

thiên tử nói kệ:

 

    Ai kiến lập diệu-pháp,

    Lợi ích ba ngàn cõi,

    Pháp bậc thánh không sợ,

    Cũng như sư-tử rống,

    Các vị hãy chí thành,

    Nghe thuyết vi-diệu-pháp,

    Người muốn sự an lạc,

    Hãy biết nghĩa thật này.

 

Tôn giả Ca Nhiếp Ba nói kệ bảo A Nan Đà:

 

    Cụ thọ hãy tuyên thuyết lời Phật,

    Là pháp tối thượng trong các pháp,

    Những pháp Đại sư đã giảng dạy,

    Đều làm lợi ích khắp quần sinh.

 

Nghe nói đến danh hiệu của Đại sư, tôn giả A Nan Đà sinh tâm luyến mộ, quay đầu hướng về chỗ Niết-bàn, chí thành chắp tay dùng ngữ âm phổ thông nói rằng:

 

- Như vầy tôi nghe. Một thời tại rừng Thi Lộc, Tiên-nhân-đọa-xứ, thuộc Ba La Ny Tư, đức Thế Tôn bảo năm Bí-sô:

 

- Đây là Khổ thánh đế, đối với pháp được nghe này mà suy nghĩ đúng lý thì sinh mắt, trí, sáng suốt, giác ngộ ... nói đầy đủ như trong Kinh Ba lần chuyển pháp luân ở trên.

 

Bấy giờ, cụ thọ A Nhã Kiều Trần Như nói với Đại Ca-Nhiếp Ba:

 

- Pháp vi diệu này, chính tôi được nghe từ nơi Phật. Thế Tôn từ bi giảng dạy cho tôi. Do năng lực của Kinh làm cho chúng tôi khô cạn biển lớn máu lệ không bờ, vượt qua núi xương, đóng bít cửa đường ác Vô-gián, khéo mở con đường thiên cung và giải thóat. Khi được nghe thuyết Kinh vi diệu thậm thâm này, đối với tất cả pháp, tôi được xa lìa trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh, tám vạn chư Thiên đều được lợi ích.

 

Khi nghe những lời như vậy, chư Thiên trên hư không và các Bí-sô chưa ly dục rất đau khổ như bị ngàn mũi tên bắn vào tim, kêu gào khóc lóc, đồng thanh nói:

 

- Khổ thay, khổ thay.

 

Họ nói kệ:

 

    Tai họa thay đời này,

    Vô thường không phân biệt,

    Phá hoại kho trân bảo,

    Làm khô biển công đức,

    Chính tôi ở chỗ Phật,

    Nghe pháp giải thóat này,

    Nay lại ở nơi khác,

    Truyền lại lời Như Lai.

 

Khi nghe thuyết Kinh, đại chúng đều than thở:

 

- Khổ thay! Tai họa thay! Sức rất mạnh của vô thường không chừa gì cả, phá hoại con mắt của thế gian như vậy.

 

Khi ấy, Kiều Trần Như rời khỏi tòa, ngồi xổm lên. Thấy như vậy, các La-hán khác đều cung kính rời tòa, ngồi xổm lên và nói:

 

- Khổ thay! Tai họa thay, sức rất mạnh của vô thường, vì sao chính chúng ta đích thân nghe Thế Tôn thuyết pháp, nay chỉ còn nghe nói lại.

 

Họ nói kệ:

 

    Chí tôn tám bộ đã đi rồi,

    Vì sao chúng ta không nhập diệt,

    Phật đã không còn, đời trống rỗng,

    Ai sẽ đưa cuộc sống đi lên.

 

Khi ấy, các vị A-la-hán đều nhập vào đệ tứ thiền, dùng nguyện lực quán sát thế gian, rồi xuất định, bảo cụ thọ A-Nan Đa :

 

- Thầy đến vì pháp?

 

Đáp:

 

- Đại đức! Tôi đến vì pháp, các vị cũng đến vì pháp?

 

Đáp:

 

- Đúng vậy.

 

Khi ấy, Ma Ha Ca Nhiếp Ba suy nghĩ: "Ta đã kết tập Kinh điểnđức Phật thuyết đầu tiên, không bị các vị đồng phạm hạnh chống đối, không bị chê bai, như vậy biết là Kinh này thật đúng là lời Phật dạy".

 

Tôn giả lại bảo A Nan Đà:

 

- Thế Tôn thuyết kinh thứ hai ở đâu?

 

Bằng âm thanh rõ ràng, A Nan Đà đáp:

 

- Thế tôn cũng thuyết tại Bà La Ny Tư.

 

Hỏi:

 

- Thuyết cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho năm Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Thuyết như thế nào?

 

Đáp:

 

- Thuyết giảng như vầy: Này các Bí-sô, nên biết có Bốn thánh đế. Bốn đế là gì?

 

- Đó là Khổ, Tập, Diệt, Đạo thánh đế.

 

Khổ thánh đế là gì?

 

- Đó là Sinh khổ, Bệnh khổ, Lão khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tắng hội khổ, Cầu bất đắc khổ, tóm lại khổ vì chạy theo năm uẩn nên gọi là khổ.

 

Khổ Tập thánh đế là gì?

 

- Nghĩa là Hỷ và Ái câu hữu khắp nơi sinh ra nhiễm trước nên gọi là Tập.

 

Khổ Diệt thánh đế là gì?

 

- Đó là đối với hỷ ái câu hữu khắp nơi sinh nhiễm trước để tiếp tục nhận lấy hậu hữu, đều trừ diệt vứt bỏ hết. Nhiễm ái diệt hết thì chứng diệu Niết-bàn.

 

Con đường đưa đến diệt khổ thánh đế là gì?

 

- Nghĩa là tám chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định; gọi là con đường đưa đến Diệt khổ thánh đế. Khi pháp này được thuyết ra, cụ thọ A Nhã Kiều Trần Như tâm giải thóat khỏi các phiền não, bốn Bí-sô kia lìa các trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh.

 

Bấy giờ, Cụ thọ A Nhã Kiều Trần Như bảo với cụ thọ Ca Nhiếp Ba:

 

- Những pháp như vậy, đích thân tôi được nghe Phật dạy. Nghe pháp xong, tâm tôi giải thóat khỏi các phiền não. Bốn Bí-sô kia lìa các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh.

 

Tôn giả suy nghĩ:

 

- Ta đã kết tập Kinh giáo thứ hai mà Thế Tôn đã thuyết, không bị các vị đồng phạm hạnh chống đối, chê bai, thế nên biết rằng Kinh này đúng là lời Phật dạy.

 

Tôn giả lại hỏi A Nan Đà:

 

- Thế Tôn thuyết Kinh thứ ba nơi nào?

 

Bằng âm thanh trong trẻo rõ ràng, A Nan Đà đáp:

 

- Thế Tôn cũng thuyết tại Ba La Ny Tư.

 

Hỏi:

 

- Thuyết cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho năm Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Thuyết những gì?

 

Đáp:

 

- Thuyết như thế này: Như vầy tôi nghe. Một thời tại rừng Thi Lộc, thuộc Ba La Ny Tư, Thế Tôn bảo năm Bí-sô: Này các Bí-sô nên biết, sắc không phải là ta, nếu sắc là ta thì sắc không bị bệnh và chịu những khổ não. Ta muốn sắc như thế này, ta không muốn sắc như thế này, sắc đã không hoạt động theo ý mình như vậy. Thế nên biết rằng sắc không phải là ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy ... nói đủ như trước.

 

Phật bảo năm Bí-sô:

 

- Ý các ông thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

 

Đáp:

 

- Đại đức, sắc là vô thường.

 

Phật dạy:

 

- Sắc đã là vô thường thì tức là khổ, hoặc khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Như vậy, đệ tử Thanh văn đa văn của Ta chấp có ngã hay không, sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc về ngã, ngã ở trong sắc không?

 

- Bạch Thế Tôn! Không.

 

Như vậy, các ông nên biết, thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường ... cũng như vậy. Những sắc nào hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài, thô tế, hơn kém, xa gần, tất cả đều vô ngã.

 

- Này các Bí-sô, nên quán sát thật kỹ sắc ấy bằng chánh trí. Như vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức, nào hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, đều nên quán sát kỹ bằng chánh trí tuệ như trước. Nếu Thanh văn thánh đệ tử của Ta quán sát năm thủ uẩn này không có ngã hay ngã sở, quán sát được như vậy rồi thì biết thế gian không có chủ thể và đối tượng để chấp thủ và cũng không bị chuyển biến theo, tự giác ngộ như vậy nên chứng Niết bàn: Ta sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thân sau.

 

Khi Phật thuyết pháp này, tâm năm Bí-sô giải thóat các phiền não.

 

Khi ấy, các vị la-hán đều suy nghĩ:

 

- Ta đã kết tập Kinh thứ ba của Phật dạy mà không bị đồng phạm hạnh chống đối và chê bai, vậy nên biết Kinh này chính là lời Phật dạy.

 

Những kinh pháp khác mà Thế Tôn thuyết giảng tại nơi vương cung, tụ lạc, thành ấp, đều được A Nan Đà nói lại hết. Các vị A La Hán cùng nhau kết tập, những Kinh tương ưng với năm uẩn thì xếp vào phẩm Uẩn; Kinh nào tương ưng với sáu xứ, mười tám giới thì xếp vào phẩm Xứ giới; Kinh nào tương ưng với duyên khởi thánh đế thì xếp vào phẩm Duyên khởi; Kinh nào do Thanh văn nói thì xếp vào phẩm Thanh văn; Kinh nào do Phật nói thì xếp vào phẩm Phật; Kinh nào tương ưng với niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác, đạo phần thì xếp vào phẩm Thánh đạo; Kinh nào tương ưng với kệ tụng thì gọi là Tương ưng A Cấp Ma (Tương ưng xưa dịch theo nghĩa là Tạp); Kinh dài, nói dài thì gọi là Trường A Cấp Ma; Kinh trung bình, nói trung bình thì gọi là Trung A Cấp Ma; Kinh nói một vấn đề, hai vấn đề cho đến mười vấn đề thì gọi là Tăng nhất A Cấp Ma.

 

Khi ấy, Đại Ca Nhiếp Ba nói với A Nan Đà:

 

- Kinh tạng chỉ có những kinh A Cấp Ma (Agama, A-hàm) ấy, ngoài ra không có Kinh khác nữa.

 

Sau khi nói như vậy xong, tôn giả xuống khỏi tòa cao và nói với đại chúng:

 

- Các vị nên biết, đã cùng nhau kết tập xong những Kinh mà Phật đã thuyết, tiếp theokết tập Tỳ Nại Da (Vinaya - Luật).

 

Nghe nói như vậy, mọi người đều khen:

 

- Lành thay!

 

Bấy giờ, trong chúng chỉ có cụ thọ Ô Ba Ly là rất thông thạo duyên khởi của luật. Ca Nhiếp Ba lại lên tòa cao thưa với đại chúng:

 

- Các vị nên biết, cụ thọ Ô Ba Ly thông suốt hết về Luật, được Thế Tôn thọ ký là bậc trì luật đệ nhất, cho nên tôi thỉnh làm người kết tập Luật.

 

Đại chúng nói:

 

- Xin vâng.

 

Khi ấy, Ca Nhiếp Ba nói với Ô Ba Ly:

 

- Cụ thọ, thầy có thể chọn lựa kết tập Luật do Như Lai thuyết giảng không?

 

Đáp:

 

- Được.

 

Tôn giả tác bạch:

 

- Đại đức Tăng lắng nghe, cụ thọ Ô Ba Ly này có thể chọn lựa kết tập về Luật do Như Lai nói ra. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng sai cụ thọ Ô Ba Ly sẽ chọn lựa kết tập về Luật do Như Lai nói ra. Đây là lời tác bạch.

 

Thứ đến tác yết ma, chuẩn theo văn bạch.

 

Sau khi tác yết-ma xong, cụ thọ Ca Nhiếp Ba xuống tòa. Tôn giả Ô Ba Ly bước lên tòa sư tử.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ ba mươi chín hết.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10250)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12233)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11927)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12900)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52696)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21212)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10587)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19088)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12306)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15957)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17402)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12433)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11472)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20259)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18815)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12101)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15421)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11297)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17018)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11630)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14935)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12884)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14475)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18239)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11412)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15714)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant