Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển 40

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 9604)
Quyển 40

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

Quyển thứ bốn mươi

 

--- ooOoo ---

 

Tiếp theo tụng mười trong biệt môn tám, nói về sự việc Năm trăm vị kết tập và Bảy trăm vị kết tập.

 

Khi ấy, Ca Nhiếp Ba hỏi Ô Ba Ly:

 

- Thế Tôn chế học xứ thứ nhất ở đâu?

 

Bằng âm thanh rõ ràng, Ô Ba Ly đáp:

 

- Thế Tôn chế tại Ba La Ny Tư.

 

Hỏi:

 

- Nói cho ai?

 

Đáp:

 

- Nói cho năm Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Việc ấy thế nào?

 

Đáp:

 

- Mặc y nội cho tề chỉnh, không quá cao, không quá thấp; nên học như vậy.

 

Nghe nói như vậy xong, các vị A La Hán đều nhập vào Định Biên Tế, dùng định lực quán sát thế gian xong, rồi lại xuất định. Ma Ha Ca Nhiếp Ba suy nghĩ: "Ta đã kết tập học xứ đầu tiên của Phật chế, không bị các vị đồng phạm hạnh chống lại hay chê bai; thế nên biết rằng Luật này chính Phật chế ra.

 

Tôn giả lại bảo Ô Ba Ly:

 

- Thế Tôn chế học xứ thứ hai ở đâu?

 

Bằng âm thanh rõ ràng, Ô Ba Ly đáp:

 

- Tại Ba La Ny Tư.

 

Hỏi:

 

- Nói cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho năm Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Việc ấy thế nào?

 

Đáp:

 

- Mặc ba y tề chỉnh; nên học như vậy.

 

Nghe nói xong, các vị A-la-hán đều nhập vào định Biên Tế, dùng nguyện lực quán sát thế gian rồi xuất khỏi định.

 

Ca Nhiếp Ba suy nghĩ: "Ta đã kết tập học xứ thứ ba của đức Thế Tôn ... như trên".

 

Tôn giả lại hỏi Ô Ba Ly:

 

- Thế Tôn chế học xứ thứ ba ở đâu?

 

Bằng âm thanh rõ ràng, Ô Ba Ly đáp:

 

- Tại thôn Yết Lan Đạc Ca.

 

Hỏi:

 

- Nói cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho Bí-sô Tô Trần Na con của Yết Lan Đạc Ca.

 

Hỏi:

 

- Sự việc ấy thế nào?

 

Đáp:

 

- Bí-sô nào đã thọ cấm giới như các Bí-sô khác mà hành dâm cho đến loài súc sinh, bị phạm tội ba-la-thị-ca, không được sống chung.

 

Nghe nói thế rồi, các vị la-hán đều nhập vào Định Biên Tế rồi xuất định. Ca Nhiếp Ba suy nghĩ: "Ta đã kết tập ... như trước".

 

Các học xứ khác, Thế Tôn chế cho các Bí-sô ở tại vương cung hay thôn xóm ... đều được cụ thọ Ô Ba Ly nói lại hết. Các vị A La Hán đã kết tập xong, gọi đây là pháp Ba La Thị Ca, đây là pháp Tăng-già-phạt-thi-sa, đây là pháp Hai bất-định, ba mươi pháp Xả-đọa, chín mươi pháp Ba-dật-đề-ca, bốn pháp Ba-la-để-đề-xá-ny, pháp chúng học, bảy pháp Diệt tránh, đây là chế lần đầu, đây là chế thêm, đây là định chế, đây là tùy khai, như vậy là pháp xuất gia, như vậy là pháp thọ cận viên, như vậy là pháp Đơn-bạch Bạch-nhị Bạch-tứ yết ma, như vậy nên độ, như vậy không nên độ, như vậy là pháp Bao-sái-đà, như vậy là pháp An cư, như vậy là pháp Tùy-ý, v.v ... cho đến tạp sự. Đây là Ny-đà-na Mục-đắc-ca ...

 

Sau khi kết tập Luật tạng, cụ thọ Ô Ba Ly xuống tòa. Tôn giả Ca Nhiếp Ba nghĩ: "Người đời sau trí kém căn độn, theo văn để hiểu thì không đạt được ý nghĩa sâu xa, vậy ta nên tự thuyết minh Ma-thất-lý-ca (Luận - Matika) sẽ làm cho rõ ý nghĩa của Kinh Luật vậy."

 

Sau khi suy nghĩ như vậy, Tôn giả bạch Nhị yết ma thưa cho Tăng biết. Sau khi Tăng đồng ý, Tôn giả lên tòa cao thưa với các Bí-sô:

 

- Tôi xin bắt đầu thuyết minh về Luận tạng, theo sự hiểu biết làm cho sáng tỏ ý nghĩa. Đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ-đề phần, tám Thánh đạo phần; bốn Vô úy, bốn Vô ngại giải, bốn Sa-môn quả, bốn Pháp cú, trí Vô-tránh-nguyện, định Biên tế, Không, Vô tướng, Vô nguyện, tạp tu các Định, chánh nhập hiện quán, thế tục Trí Chiêm-ma-tha (Thiền định - Samatha), Tỳ-bát-xá-na (Minh sát tuệ - Vipassana), pháp tập, pháp uẩn, như vậy gọi chung là Luận tạng.

 

Sau khi nghe thuyết minh như vậy, các vị La-hán đều nhập vào định Biên tế, tuần tự quán sát xong lại xuất định ... như nói ở trước. Như vậy đây là Tô Hằng La (Kinh - Sutta), đây là Tỳ Nại Da (Luật - Vinaya), đây là A Tỳ Đạt Ma (Luận - Abhidhamma) chính là những lời dạy của Phật được kết tập xong.

 

Khi ấy, Dạ-xoa trên đất đều kêu to lên rằng quý vị nên biết, Thánh giả Ca Nhiếp Ba làm thượng thủ và năm trăm vị A-la-hán cùng nhau kết tập tam tạng Thánh giáo của Như Lai. Vì vậy, chư Thiên phát triển, A-tu-la suy giảm.

 

Nghe như vậy, dạ xoa ở trên không lại gọi to lên tận trời Tư Thiên Vương ... Tam Thập Tam Thiên, Da Ma, Đổ-Sử Đa, Lạc Biến Hóa, Tha Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại, Phạm Chúng, Phạm Phụ, Đại Phạm, Thiểu Quang, Vô-Lượng Quang, Cực Quang, Tịnh, Thiểu Tịnh, Vô Lượng-Tịnh, Biến Tịnh, Vô Vân, Phước Sinh, Quảng Quả, Vô-Phiền, Vô Nhiệt, Thiện Hiện, Thiện Kiến ... trong chốc lát âm thanh ấy truyền lên tận trời Sắc-cứu-cánh. Chư Thiên ấy đồng thanh nói rằng chư Thiên phát triển, A-tu-la suy giảm.

 

Khi năm trăm vị A-La-Hán kết tập xong, đại hội kết tập này gọi là năm trăm vị kết tập. Đại Ca Nhiếp Ba nói kệ:

 

    Các vị kết tập pháp pháp-vương,

    Đều vì thương yêu các chúng sinh,

    Lời lẽ Phật dạy nhiều vô lượng,

    Nay đều kết tập không bỏ sót,

    Vì kẻ phàm ngu không hiểu biết,

    Nên làm đèn sáng trừ bóng tối.

 

Cụ thọ Đại Ca Nhiếp Ba suy nghĩ: "Ta kết tập xong ba tạng thánh giáo, bằng định lực quan sát thì những giáo phápThế Tôn đã thuyết, đã được làm cho tồn tại lâu dài trong đời. Những điều cần làm theo lời Như lai dạy đều đã làm xong. Ta đã phụng hành theo đúng chánh đạođức Thế Tôn đã dạy, vậy là ta đã báo đáp một phần nhỏ từ ân của Phật. Những lời dạy để lại làm lợi ích quần sinh của Thế Tôn Đại sư, đều đã được kết tập, từ nay xa mãi Thế Tôn, không còn nơi nương cậy, gánh vác thân năm uẩn hôi hám này thật mệt nhọc, giờ Niết-bàn đã đến không nên kéo dài nữa."

 

Sau khi suy nghĩ, Tôn giả nói kệ:

 

    Ta đã kết tập giáo pháp Phật,

    Để cho chánh-pháp được tăng trưởng,

    Tồn tại làm lợi ích thế gian,

    Giúp ích chúng sinh thoát phiền não,

    Chiến thắng những kẻ không tàm quý,

    Hộ trợ những người biết tàm quý,

    Việc làm lợi ích đã viên mãn,

    Lúc này, ta nên hướng Niết-bàn.

 

Đại Ca Nhiếp Ba bảo A Nan Đà:

 

- Thầy có biết không, Thế Tôn đem giáo pháp phó chúc cho ta rồi nhập Niết-bàn. Hiện nay, ta sắp vào Niết-bàn nên chuyển đại pháp này phó chúc cho thầy, hãy hết sức hộ trì. Sau khi ta diệt độ, tại thành Vương xá có vợ thương chủ sẽ sinh một bé trai. Khi mới sinh ra, bé trai được bọc trong tấm vải xa-nạch-ca, vì vậy tên là Xa Nạch Ca (một loại cây bố gai, xứ này trước đây không có, cao bằng con người, có thể dệt làm vải; xưa dịch Thương Na Hòa Tu là không chuẩn). Sau đó, nhân người ấy đi vào biển tìm hàng hóa trân bảo, được trở về an ổn nên thiết lập đại hội Phật đà năm năm, sau đó xuất gia, nên đem Phật pháp phó chúc cho người ấy.

 

Sau khi nói xong, Ca Nhiếp Ba lại suy nghĩ: "Thế Tôn đại bi tu tập các hạnh khổ, đó là bạn lành chân thật, trang nghiêm với vô lượng công đức, xá lỵ di thân còn để lại khắp nơi, ta hãy cung kính cúng dường rồi nhập Niết-bàn".

 

Sau khi suy nghĩ như vậy, Tôn giả dùng sức thần thông đi đến bốn tháp lớn của Phật là nơi Đản-sinh, nơi thành-đạo, nơi chuyển Pháp-luân, nơi Niết-bàn và các tháp thờ xá-lỵ khác, chí thành cúng dường, rồi vào cung rồng cúng dường răng của Phật, bay lên hư không đến cõi trời Ba-mươi-ba, định lễ bái răng của Phật. Thấy Ca Nhiếp Ba muốn cung kính lễ bái, trời Đế Thíchchư Thiên hỏi:

 

- Vì sao ngài đến đây?

 

Tôn giả đáp:

 

- Tôi muốn cúng dường tháp thờ răng xá-lỵ của Thế Tôn lần cuối cùng.

 

Nghe nói như vậy, chư Thiên buồn bã đứng lặng yên. Trời Đế Thích bưng răng Phật đưa cho Ca Nhiếp Ba. Nhận lấy xá-lỵ, Tôn giả đặt trên bàn tay, chuyên chú chiêm ngưỡng rồi đặt trên đầu, rồi rãi hoa mạn-đà-la, hoa sen, bột hương ngưu-đầu trên răng xá-lỵ để cúng dường. Sau khi thuyết pháp cho trời Đế Thíchchư thiên, Tôn giả biến mất khỏi núi Tu dihiện ra ở thành Vương-xá.

 

Tôn giả lại suy nghĩ: "Trước đây ta đã hứa báo cho vua Vị Sinh Oán biết khi sắp vào Niết-bàn".

 

Đến vương cung, Tôn giả bảo người giữ cửa:

 

- Vì tôi, xin ông thông báo với vua rằng Ca Nhiếp Ba đang ở ngoài cửa muốn gặp vua.

 

Nghe xong, người giữ cửa vào cung, thấy vua đang ngủ say nên vội đi ra lại, bảo với Ca Nhiếp Ba:

 

- Thánh giả, đại vương đang ngủ.

 

Tôn giả bảo:

 

- Vì tôi, người nên trở vào đánh thức vua dậy.

 

Thủ môn nói:

 

- Tánh vua bạo ác, khó xúc phạm được, tôi không dám gọi, sợ vua nổi giận ra lệnh giết tôi.

 

Ca Nhiếp Ba nói:

 

- Nếu vậy, xin vì tôi, chờ vua thức dậy, báo cho vua biết Ca Nhiếp Ba sắp vào Niết-bàn nên đến cửa cung từ giã vua.

 

Nói xong, Tôn giả vào núi Kê Túc, trải cỏ ngồi giữa ba ngọn núi, suy nghĩ: "Lúc này ta nên mặc y phấn tảo của Thế Tôn ban cho, khiến cho thân xác được bảo tồn chờ đến khi Bồ tát Từ Thị hạ sinh, vị Thế Tôn ấy sẽ chỉ cho các đệ tửđại chúng thấy thân này của ta, làm cho họ sinh nhàm chán".

 

Sau đó, Tôn giả nhập định, ba ngọn núi chụm lại như căn phòng kín nên thân thể không hư hoại. Tôn giả lại suy nghĩ: "Nếu vua Vị Sinh Oán đến đây, thì núi mở ra vì không gặp được thân ta thì vua trào máu nóng ra chết".

 

Suy nghĩ xong, Tôn giả xả bỏ mạng sống. Khi ấy, mặt đất chấn động sáu cách, sao xẹt rụng rơi khắp nơi sáng rực, trên hư không chư thiên đánh trống vang lừng. Cụ thọ Ca Nhiếp Ba vọt lên hư không, hiện ra các thần biến, phun ra nước trong suốt hoặc ánh lửa sáng, nổi mây che kín, mưa trận mưa lớn. Biến hóa như vậy xong, Tôn giả vào phòng đá nằm nghiêng bên phải, gác hai chân lên nhau, nhập vào cảnh giới Vô-dư-y diệu-Niết-bàn.

 

Chư thiên Thích, Phạm đều suy nghĩ: "Vì sao mặt đất chấn động như vậy?".

 

Cùng nhau quán sát, thấy Ca Nhiếp Ba nhập Niết-bàn nên họ cùng vô lượng trăm ngàn vạn ức chư thiên mang đến các loại hoa sen xanh vàng đỏ trắng cùng nước thơm Ngưu-đầu-chiên-đàn, trầm, bột thơm cùng đến chỗ Tôn giả, đem các loại hoa trời bột hương thơm rãi trên thân Tôn giảcúng dường. Chư thiên cúng dường xong, ba ngọn núi lại chụm vào nhau che kín như căn phòng.

 

Sau khi rời khỏi chỗ Tôn giả, chư Thiên rất buồn khổ, nói rằng đức Phật vừa Niết-bàn, chúng ta chưa hết buồn rầu, vì sao đến nay lại bị ưu sầu tiếp. Chư Thiên cựu trú ở hang Tất-bát-la chỉ còn cái tên rỗng mà thôi, những thắng pháp đều đã đi theo Tôn giả hết rồi. Nước Ma-yết-đà không còn rực rỡ nữa, chúng sinh bị nghèo cùng vì ruộng phước không còn. Tất cả các thiện pháp đều đã tiêu vong. Như vậy là vị giác ngộ thứ hai đã vào Niết bàn, chẳng lẽ đến nay núi pháp bị sụp đổ, thuyền pháp bị lật chìm, đại thọ pháp bị ngã xuống, biển pháp cạn khô, chúng ma hoan hỷ. Những giáo pháp để giáo hóa chúng sinh và những việc lợi ích đều sẽ ẩn mất.

 

Sau khi nói lên những lời bi thương như vậy xong, chư Thiên lạy sát chân Tôn-giả rồi biến mất.

 

Nằm ngủ, vua Vị Sinh Oán mơ thấy rằng kèo cột trong cung điện đều sụp gãy nên giật mình thức dậy. Thấy vua tỉnh giấc, người thủ môn liền tâu lại đầy đủ những lời của Ca Nhiếp Ba cho vua biết. Nghe nói, vua ngây ngất ngã lăn ra đất. Cận thần dùng nước lạnh rưới vào mặt vua cho tỉnh lại. Đi đến Trúc-lâm, vua gặp Tôn giả A Nan Đà, lạy sát đất, khóc vang, thưa rằng con nghe Tôn giả Đại Ca Nhiếp Ba đã vào Niết-bàn.

 

A Nan Đà cùng nhà vua đi đến núi Kê-túc để chỉ chỗ Tôn giả cho vua (xưa gọi là Kê-túc vì có Tôn giả trú ở trong, người sau gọi là Tôn-túc, lại nữa vì trên núi có dấu tích của đức Phật, nhưng trong Phạn-âm từ ngữ Kê-túc và Tôn-túc bị nhầm lẫn nhau). Họ đến nơi, được đại dược xoa mở ba ngọn núi ra. Vua thấy di thể rồi, lại thấy chư thiên cúng dường bằng hoa mạn-đà-la cùng các hoa sen, nước thơm chiên đàn, các loại hương hoa. Vua đưa hai tay lên, khóc lớn, bị ngã lăn ra đất cũng như cây đại thọ bị chặt đứt cả gốc. Một lúc sau, vua tỉnh lại và muốn nhặt củi.

 

Thấy như vậy, Tôn giả A Nan Đà hỏi:

 

- Đại vương, nhặt củi làm gì?

 

Đáp:

 

- Để hỏa thiêu.

 

Tôn giả nói:

 

- Chớ nói như vậy, thân thể này của Tôn giả do sức định bảo trì. Chờ đến lúc Bồ tát Từ-thị hạ sinh, Phật ấy cùng chín mươi sáu ức cu-đê Thanh văn tùy tùng đi đến nơi này, đem di thể Tôn giả ra chỉ dạy cho đệ tử rằng đây là Ca Nhiếp Ba đệ tử thượng thủ của Phật Thích Ca Mâu-Ny, là bậc đệ nhất trong việc thiểu dục tri túc tu tập hạnh đổ-đa. Những pháp do Phật Thích Ca Mâu Ny nói ra đã được vị này kết tập để kiến lập pháp-nhãn. Khi ấy, các Thanh văn ấy suy nghĩ rằng thời quá khứ thân người nhỏ bé, thân Phật to lớn.

 

Cầm y Tăng-già-chi của Ca Nhiếp Ba chỉ cho chúng Thanh-văn, Đức Thế Tôn ấy nói rằng:

 

- Đây là y Tăng-già-chi mà đức Thích Ca Mâu Ny Ứng-cúng Chánh-đẳng-giác đã từng mặc.

 

Khi nghe nói như vậy, chín mươi sáu ức Câu-đê Thanh văn liền chứng quả A La Hán, đều tinh tấn tu hạnh Đổ-đa thiểu dục tri túc.

 

Thế nên, Tôn giả để lại di thể này dùng định lực bảo trì, không thể đốt cháy mà nên xây dựng tháp lên trên.

 

Sau khi vua rời khỏi, ba ngọn núi liền chụm lại như cũ che trên thân Tôn giả. Vua cho xây tháp lên trên.

 

Lạy sát chân Tôn giả A Nan Đà, vua thưa:

 

- Bạch Tôn giả! Con không được nhìn Phật vào Niết-bàn cũng không được thấy Tôn giả Ca Nhiếp Ba diệt độ. Nếu thánh giả vào Niết bàn, xin cho con được thấy.

 

Tôn giả đồng ý.

 

Khi ấy, Xa Nạch Ca từ biển lớn trở về an ổn. Sau khi ổn định vật dụng xong, ông ta đi đến Trúc Lâm. Tôn giả A Nan Đà đang đi kinh hành trước cửa hương-đài. Trông thấy Tôn giả, ông ta đến lạy sát chân, thưa:

 

- Từ biển lớn, con an ổn trở về là nhờ năng lực của Tam Bảo. Từ nay, con muốn tổ chức pháp hội năm năm để cúng dường Phật và Tăng. Hiện nay, Thế Tôn đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Này con, đức Phật đã Niết-bàn.

 

Nghe nói, Xa Nạch Ca ngất lăn ra đất. Sau khi được rưới nước tỉnh lại, ông ta hỏi:

 

- Tôn giả Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên và Đại Ca Nhiếp Ba đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Đều đã vào Niết-bàn.

 

Nghe vậy, ông ta cực kỳ đau buồn, tổ chức đại hội năm năm rất lớn. Tôn giả hỏi:

 

- Này con, đối với bốn nhiếp trong Phật pháp, con đã thi hành Tài-nhiếp. Từ nay, nên thi hành pháp-nhiếp.

 

Đáp:

 

- Đại đức, con nên làm gì?

 

Tôn giả nói:

 

- Con nên xuất gia tu tập trong Phật pháp.

 

Đáp:

 

- Rất đúng, con xin vâng theo.

 

Tôn giả cho xuất gia và thọ cận-viên. Sau khi yết-ma, vị này phát nguyện rằng kể từ hôm nay cho đến trọn đời luôn luôn mặc y Xa-nạch-ca.

 

Bí-sô này rất thông minh, nghe qua một lần liền lĩnh thọ ngay nên thọ trì hết tám vạn pháp uẩn mà A Nan Đà đã được thọ trì với Phật. Vị này đầy đủ ba minh, thông thuộc ba tạng.

 

Lúc nọ, A Nan Đà cùng các Bí-sô trú tại vườn Trúc-lâm. Có một Bí-sô nói kệ:

 

    - Người nào sống trăm năm,

    Không thấy bạch-hạc nước,

    Không bằng sống một ngày,

    Được thấy bạch-hạc nước.

 

Nghe như vậy, A Nan Đà nói với Bí-sô ấy:

 

- Kệ mà ông tụng không phải là lời của Đại sư, nhưng Phật Thế Tôn dạy thế này:

 

    Người nào sống trăm năm,

    Không rõ được sinh diệt,

    Không bằng sống một ngày,

    Được rõ pháp sinh diệt.

 

Ông nên biết rằng, trên đời có hai hạng người thường phỉ báng Thánh-giáo:

 

    Tánh bất-tín, nhiều sân,

    Tuy tín nhưng hiểu sai,

    Chấp bậy vào nghĩa Kinh,

    Như voi lún bùn sâu.

    Kẻ ấy tự hại mình,

    Do không có trí tuệ,

    Thông hiểu sai, vô ích,

    Nên biết như thuốc độc.

 

    Thế nên những người trí,

    Nghe rồi thực hành đúng,

    Trừ dần phiền não hoặc,

    Sẽ chứng quả ly-hệ.

 

Nghe dạy như vậy, người ấy thưa lại với thầy mình. Thầy nói:

 

    A Nan Đà già tối,

    Không còn sức ghi nhớ,

    Lời nói nhiều lầm lẫn,

    Chưa chắc đáng tin cậy.

    Ông cứ tụng trì theo như cũ.

 

Tôn giả A Nan Đà ngầm đến xem xét, thấy vị kia vẫn đọc theo lời sai nên bảo:

 

- Này con, ta đã bảo con, Thế Tôn không dạy lời như vậy.

 

Bí-sô kia đem lời thầy mình dạy ra thưa cho Tôn giả biết. Nghe vậy, Tôn giả suy nghĩ:

 

- Bí-sô này được ta đích thân dạy bảo mà đã không chịu nghe, biết làm sao đây. Giả sửTôn giả Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Nhiếp Ba thì việc này cũng vậy thôi. Các đại đức ấy đều đã vào Niết-bàn. Mong rằng căn lực từ thiện của Như Lai làm cho pháp-nhãn trú thế một ngàn năm.

 

Tôn giả cảm thán nói kệ:

 

    Tôn-túc đã qua rồi,

    Hạng trẻ không sánh bằng,

    Vắng vẻ một mình ta,

    Như chim nằm trong trứng,

    Thân thuộc xưa không còn,

    Bạn pháp cũng theo cả.

    Trong các loại tri-thức,

    Niệm trong định hơn cả,

    Ngọn đèn trong thế gian,

    Chiếu sáng trừ bóng tối,

    Phá trừ ngu si hoặc,

    Bậc ấy đã không còn.

    Kẻ cần dạy thật nhiều,

    Bậc hướng đạo có một.

    Như ngọn tháp lẻ loi,

    Rừng tàn, còn một cây.

 

Cụ thọ A Nan Đà bảo Bí-sô Xa-nạch-ca:

 

- Tôn giả Đại Ca Nhiếp Ba đem giáo pháp Thế Tôn phó chúc cho ta rồi bát Niết-bàn. Từ nay, ta phó chúc lại cho ông mà diệt độ, ông hãy hộ trì. Hãy tạo trú xứ ở núi Mâu Luận Trà tại nước Mạt Độ La.

 

Trong nước này có con vị trưởng giảThế Tôn đã dự báo sẽ làm chủ chùa. Lại nữa, trong nước có người bán hương tên Cấp-đa. Người này sẽ có một con trai tên Ô Ba-Cấp Đa. Ông hãy độ cho xuất gia. Thế Tôn dự báo người ấy gọi là Vô-tướng nhưng mến chuộng Phật, sau khi Ta Niết bàn một trăm năm, người ấy sẽ làm Phật sự lớn.

 

Nghe bảo như vậy, Xa-nạch-ca thưa:

 

- Xin vâng lời Thân-giáo-sư dạy.

 

Tôn giả bảo:

 

- Thầy hãy khéo ở lại, ta nhập Niết-bàn và báo cho vua biết.

 

A Nan Đà lại suy nghĩ: "Nếu ta nhập Niết-bàn ở đây, vua Vị Sinh Oán với thành Quảng Nghiêm bất hòa từ lâu, không thể cùng nhau phân chia xá-lỵ thân ta. Nếu ta nhập Niết-bàn trong thành Quảng Nghiêm thì vua Vị-Sinh Oán cũng không được phân. Vậy ta nên diệt độ giữa dòng sông Hằng Hà".

 

Sau khi suy nghĩ, Tôn giả quyết định lên đường. Bấy giờ, vua Vị Sinh Oán nằm mơ thấy cái lọng lớn bị gẫy ngã nên giật mình thức dậy. Thấy vua thức dậy, người giữ cửa đem lời nhắn nhủ của Tôn giả A Nan Đà thưa lại vua rõ. Nghe nói, vua ngất lăn ra đất. Sau khi được rưới nước tỉnh lại, vua nói:

 

- Tôn giả A Nan Đà nhập Niết-bàn ở nơi nào?

 

Xa-nạch-ca nói kệ trả lời:

 

    Vị Tôn giả này sinh từ Phật,

    Theo Phật giữ gìn hết pháp-tạng,

    Cầu chứng Niết-bàn trừ sinh tử,

    Do đó đã về thành Quảng-nghiêm.

 

Nghe nói xong, vua Vị Sinh Oán dẫn bốn loại binh đến bờ sông Hằng. Khi ấy, chư Thiên cựu trú ở thành Quảng Nghiêm từ hư không bảo mọi người:

 

    Tôn giả Khánh Hỷ đèn thế gian,

    Vô cùng thương xót chúng quần sinh,

    Tâm luôn từ bi sắp viên tịch,

    Ngài đã đi đến thành Quảng-nghiêm.

 

Khi ấy, những người Lật Cô Tỳ ở thành Quảng-Nghiêm thống lĩnh bốn loại binh đến bờ sông Hằng.

 

Vua Vị Sinh Oán lạy sát hai chân, chắp tay nói kệ:

 

    Mắt Thế Tôn đẹp như sen xanh,

    Duyên hết, nhập Diệt ở chốn này,

    Tôn giả lại đang muốn viên-tịch,

    Xin ngài để thân lại nơi đây.

 

Dân chúng thành Quảng Nghiêm lại lễ bái vọng về Tôn giả, xin để di thân lại cho họ.

 

Thấy như vậy, Tôn giả suy nghĩ, nói kệ:

 

    Nếu ta thuận lời Vị Sinh Oán,

    Người Lật Cô Tỳ sẽ oán hận.

    Nếu để Xá-lỵ lại Quảng Nghiêm,

    Dân chúng thành Vương tất buồn khổ.

    Vậy để nữa thân cho Vương-xá,

    Nữa thân thuộc về thành Quảng Nghiêm,

    Hai nước hòa giải không đánh nữa,

    Tùy theo ý mình mà cúng dường.

 

Khi Tôn giả sắp vào Niết-bàn, mặt đất chấn động sáu cách. Có vị tiên nhân dẫn theo năm trăm môn đồ đằng vân đến chỗ Tôn giả, chắp tay thưa:

 

- Đại đức! Con xin được xuất gia thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô trong pháp luật thiện thuyết.

 

Tôn giả suy nghĩ: "Làm sao cho đệ tử của ta đến chổ này, ta nên dùng thần lực ngay trong nước, ngăn đường đi của mọi người".

 

Vừa suy nghĩ xong, có năm trăm đệ tử cùng đến nơi. Ngay giữa mặt nước, Tôn giả biến ra hòn đảo, ngăn bước chân của mọi người khắp bốn mặt, cho năm trăm người thọ cận viên. Ngay khi đang tác bạch, năm trăm người ấy đắc quả Bất-hoàn, đến yết-ma lần thứ ba thì đoạn trừ hết phiền não chứng quả A La Hán. Do đại tiên ấy xuất gia thọ cận viên vào Giữa Ngày, giữa mặt nước nên người bấy giờ gọi tên là Giữa ngày hoặc Giữa nước. (Vốn gọi là Mạt-điền Địa-na; Mạt-điền là giữa, Địa-na là ngày; nhân đó nên gọi là Giữa ngày. Hoặc gọi là Mạt-điền-Đạc-ca; Mạt-điền là giữa, Đạc-ca là nước, do xuất gia giữa nước nên gọi là trong nước. Xưa gọi là Mạt-điền-địa vì chỉ nêu tên mà không rõ nguyên nhân, nên nay chú thích ra).

 

Sau khi chứng quả, Tôn giả lạy sát chân Tôn giả A Nan Đà thưa:

 

- Lúc cuối cùng, Thế Tôn độ Thiện-hiền, vị ấy lại viên tịch trước. Con cũng như vậy, xin vào Niết bàn trước vì không muốn thấy thân-giáo-sư vào Niết-bàn.

 

Tôn giả nói:

 

- Này con, Thế Tôn đem giáo pháp phó chúc cho Ca Nhiếp Ba rồi mới Niết-bàn. Đại Ca Nhiếp Ba phó chúc lại cho ta, ta lại phó chúc cho con, hãy khéo hộ trì giáo pháp đã có. Thế Tôn có dự báo ở nước Ca Thấp Di La, dễ có được vật dụng chỗ ở cần dùng, rất thuận tiện cho việc tu tập thiền định. Phật lại dự báo về con rằng sau khi Ta Niết-bàn mãn một trăm năm, có một Bí-sô tên Mạt-điền-địa làm cho giáo pháp của ta lưu hành ở nước này. Thế nên, con hãy truyền bá thánh giáo ở nơi ấy.

 

Đáp:

 

- Con xin vâng làm.

 

Tôn giả Khánh Hỷ hiện thần biến vào Niết-bàn cũng như nước làm tắt lửa, phân nữa thân xá-lỵ cho vua Vị-Sinh Oán, nữa thân cho dân thành Quảng Nghiêm.

 

    Dùng trí Kim-cương bén,

    Tự cắt thân mình ra,

    Nữa cho vua Vương-xá,

    Nữa cho dân Quảng Nghiêm.

 

Nhận được nữa thân xá-lỵ, thành Quảng Nghiêm xây tháp cúng dường. Vua Vị Sinh Oán cũng xây tháp cúng dường ở Ba Thát Ly.

 

Khi ấy, Tôn giả giữa ngày suy nghĩ: "Thân giáo sư của ta có di huấn Phật-giáo lưu thôngCa Thấp Di La. Thế Tôn cũng báo trước trong đời tương lai có Bí-sô tên Giữa-Ngày điều phục rồng độc tên Hốt Lộng ở Ca Thấp Di La, và lưu hành giáo pháp của Ta. Như vậy, bây giờ ta hãy làm cho vừa ý Đại sư".

 

Đi đến nước ấy, Tôn giả ngồi kiết-già. Nước này do rồng bảo hộ, nếu không quấy nhiễu thì khó điều phục được rồng. Tôn giả nhập định làm cho mặt đất ở xứ này chấn động sáu cách. Thấy mặt đất chấn động, rồng liền nổi sấm chớp, mưa trận mưa lớn gây khủng bố Tôn giả.

 

Tôn giả nhập từ bi định nên sự uy vũ dữ dội của rồng cũng không làm lay động một góc y của Bí-sô. Mưa đá của rồng phun trên Bí-sô, đều biến thành hoa trời lả tả rơi xuống. Rồng thêm giận dữ, phóng các loại dao búa binh khí nhưng chúng đều hóa thành sen vàng rải trên thân Bí-sô. Trên không trung có tiếng kệ:

 

    Trên không rơi mưa đá,

    Hóa ra hoa sen đẹp,

    Giả sử phóng gươm giáo,

    Cũng biến thành anh lạc,

    Rồng biểu lộ giận dữ,

    Ngọn núi cũng ngã nghiêng,

    Tôn giả như núi Tuyết,

    Sáng sạch không lay động.

 

Nhờ năng lực từ-bi, nên lửa đao thuốc độc đều không làm hại được. Thấy như vậy, rồng rất thán phục, đến bên cạnh Tôn giả, thưa:

 

- Thánh giả đang cần gì?

 

Đáp:

 

- Ngươi hãy thu xếp cho ta một chỗ ở.

 

Rồng nói:

 

- Việc này thật khó.

 

Tôn giả nói:

 

- Thế Tôn bảo ta đến ở xứ này. Ngài lại nói ở Ca-Thấp Di La phòng ở, ngọa cụ, vật cần dùng đều dễ có, là nơi tốt nhất, để tu tập thiền định.

 

Hỏi:

 

- Đó là Phật báo trước phải không?

 

Đáp:

 

- Đúng vậy.

 

Hỏi:

 

- Cần bao nhiêu đất?

 

Đáp:

 

- Đủ chỗ ngồi kiết-già.

 

Rồng bảo:

 

- Cho ngay chỗ ấy.

 

Tôn giả kiết già che kín chín hang núi. Rồng hỏi:

 

- Tôn giả có chừng bao nhiêu môn đồ?

 

Tôn giả nhập định xem xét, cho biết có năm trăm A La Hán đến ở chỗ này.

 

Rồng nói:

 

- Tùy ý, nếu thiếu một người, con sẽ lấy đất lại.

 

Đáp:

 

- Đúng vậy, nhưng nơi nào có người nhận, phải có thí chủ, ta muốn mọi người cùng đến ở nơi này.

 

Rồng đáp:

 

- Tùy ý.

 

Trong lúc mọi người ở bốn phương đã kéo đến, Tôn giả đích thân phân chia ranh giới thành ấp xóm làng cho họ. Sau khi công việc hoàn tất, mọi người cùng đến thưa với Tôn giả:

 

- Chổ ở của dân cư chúng con đã tạm an ổn nhưng việc sinh sống phải làm sao đây?

 

Dùng thần lực, Tôn giả đưa mọi người đến núi Hương Túy, bảo mọi người rằng:

 

- Hãy nhổ lấy gốc cây Uất-kim-hương.

 

Thấy mọi người nhổ cây hương nên các loài rồng lớn trong núi Hương Túy rất tức giận muốn phóng sấm sét và mưa đá xuống. Để điều phục chúng, Tôn giả nói rõ việc trên.

 

Các rồng thưa:

 

- Tôn giả, giáo pháp của Như lai trú đến khi nào?

 

Đáp:

 

- Trú thế một ngàn năm.

 

Rồng thưa:

 

- Xin hãy cam kết, cho đến khi nào giáo pháp Như Lai còn trú thế thì được dùng tùy ý.

 

Đáp:

 

- Tốt.

 

Tôn giả bảo mọi người mang gốc hương về trồng khắp nơi ở Ca Thấp Di La, đến khi nào Phật pháp chưa diệt thì đừng cho mất đi. Sau khi làm cho mọi người ở bốn phương được sống ổn định, Tôn giả hiện các thần thông làm cho thí chủ và các vị đồng phạm hạnh đều hoan hỷ. Như củi hết lửa tắt, Tôn giả vào vô-dư Niết-bàn.

 

Bấy giờ, mọi người mang gỗ thơm ngưu đầu chiên đàn hỏa táng nhục thân và xây tháp thờ tại chỗ.

 

Trước đây, khi Tôn giả Xa Nạch Ca Độ Ô Ba Cấp Đa (đây gọi là Tiểu hộ) xuất gia, đã làm cho Phật pháp lưu truyền bá rộng. Tôn giả bảo Ô-Ba Cấp Đa:

 

- Ông nên biết rằng Như Lai Đại-sư đem giáo pháp phó chúc lại cho Đại Ca Nhiếp Ba rồi vào Niết-bàn. Đại Ca Nhiếp Ba cũng đem giáo pháp phó chúc lại cho thân-giáo-sư của ta rồi vào Niết-bàn. Thân-giáo-sư của ta cũng đem giáo pháp phó chúc lại cho ta rồi vào Niết-bàn. Từ nay, ta đem giáo pháp phó chúc lại cho ông rồi sẽ vào Niết-bàn. Ông hãy hết sức hộ trì thánh giáo đừng để bị tiêu diệt, phải thọ trì những điều Phật đã chế định.

 

Sau khi dạy bảo như vậy xong, Tôn giả Xa Nạch Ca phương tiện thuyết pháp làm cho các thí chủ và đồng phạm hạnh hoan hỷ. Tôn giả lại hiện các thần biến, trên phun lửa sáng, dưới tuôn nước trong rồi nhập vào cảnh giới Vô Dư Y Diệu Niết-bàn.

 

Tôn giả Ô Ba Cấp Đa lại đem giáo pháp phó chúc cho cụ thọ Địa Để Ca (Hữu-quý). Sau khi hoằng truyền chánh pháp, vị này phó chúc cho cụ thọ Hắc-sắc (Phạm ngữ là Ngật Lý Sắc Noa), lần truyền đến cụ thọ Thiện-Kiến (Phạm ngữ là Tô Điệt Lý Xa Na). Các vị Đại long-tượng như vậy tuần tự truyền cho nhau. Tính ra, sau khi Đại-sư viên tịch, mặt trời Phật đã lặn, thế gian không chỗ nương nhờ đến thời điểm này là một trăm mười năm.

 

Khi ấy, các Bí-sô ở thành Quảng Nghiêm đặt ra mười việc không thanh tịnh trái lại pháp luật của Thế Tôn chế ra, không thuận theo Tô Hằng La, không y cứ Tỳ Nại Da, trái với chánh lý. Các Bí-sô này cho là thanh tịnh nên cùng nhau tuân hành nhưng không thấy việc ấy có trong Kinh luật. Mười việc ấy là:

 

1. Bấy giờ, khi các Bí-sô tiến hành phi pháp bất hòa yết-ma, phi pháp hòa yết-ma, pháp bất hòa yết-ma. Nghe như vậy, đại chúng đều lớn tiếng chấp thuận. Đây gọi là tịnh pháp do lớn tiếng cùng chấp thuận. Việc này trái lời Phật dạy, trái vượt chánh lý, không thuận theo Kinh, không y cứ luật. Các Bí-sô ở thành Quảng Nghiêm làm việc không thanh tịnh này lại cho là thanh tịnh, thấy việc phi pháp này không những bỏ qua không hỏi đến mà còn khen ngợi tuyên thuyết và cùng nhau tuân hành.

 

2. Các Bí-sô tiến hành phi pháp bất hòa yết-ma, phi pháp hòa yết-ma, pháp bất hòa yết-ma. Khi chứng kiến như vậy, mọi người đều tùy hỷ. Đây gọi là pháp tịnh tùy hỷ. Việc này trái lời Phật dạy, trái vượt chánh lý, không thuận theo Kinh, không y cứ Luật. Các Bí-sô ở thành Quảng Nghiêm lại cho là thanh tịnh, khen ngợi tuyên thuyết và cùng nhau tuân hành.

 

3. Các Bí-sô tự tay đào đất lại bảo người khác đào đất. Đây gọi là pháp tịnh theo việc cũ ... như trên cho đến ... cùng nhau tuân hành.

 

4. Các Bí-sô dùng muối chứa trong ống, tự giữ lấy, thủ trì xử dụng, trộn với thời dược để ăn uống tùy ý. Đây gọi là pháp tịnh về dùng muối ... như trên cho đến ... cùng nhau tuân hành.

 

5. Các Bí-sô chưa đi cách xa nhau hơn một trạm ngựa rưỡi, lại ăn chúng riêng. Đây gọi là tịnh pháp đi đường ... như trên cho đến ... cùng nhau tuân hành.

 

6. Các Bí-sô không làm pháp dư thực, dùng hai ngón tay để ăn. Đây gọi là pháp tịnh bằng hai ngón tay ... như trên cho đến ... cùng nhau tuân hành.

 

7. Các Bí-sô hòa rượu vào nước uống. Đây gọi là tịnh pháp trị bệnh ... như trên cho đến ... cùng nhau tuân hành.

 

8. Các Bí-sô dùng một thăng sửa nấu đặc (nhũ lạc) hòa vào nước quậy lên để uống phi thời. Đây gọi là tịnh pháp lạc tương ... như trên cho đến ... cùng nhau tuân hành.

 

9. Các Bí-sô làm tọa cụ mới, không may thêm lên một miếng cũ bằng cỡ một gang tay Phật mà xử dụng. Đây gọi là tịnh pháp tọa cụ ... như trên cho đến ... cùng nhau tuân hành.

 

10. Các Bí-sô đích thân đem bát đẹp, bày biện hương hoa, sai cầu-tịch bưng đến cửa từng nhà, bảo với mọi người rằng này những người đang sống trong thành Quảng-Nghiêm và thương khách bốn phương đến đây, nếu bố thí vàng, bạc hay bối xỉ (tiền tệ thời ấy) bỏ vào bát này thì được lợi ích lớn, giàu có an lạc vô cùng.

 

Sau khi thu hoạch nhiều rồi, họ phân chia nhau những vàng bạc vật báu được thu hoạch ấy . Đây gọi là tịnh pháp vàng báu. Việc này trái lời Phật dạy, trái vượt chánh lý, không thuận theo kinh, không y cứ Luật. Các Bí-sô ở thành Quảng-Nghiêm làm việc bất tịnh lại cho là thanh tịnh, khen ngợi tuyên thuyết và cùng nhau tuân hành.

 

Khi còn ở thành Quảng Nghiêm, cụ thọ A Nan Đà có một đệ tử tên Lạc Dục (phạm ngữ là Tát Bà Ca La) là bậc A La Hán chứng tám giải thoát, sống thiểu dục tri túc vô sự. Vị này có một đệ tửtụ lạc Bà Táp Bà, tên Danh-Xưng (phạm ngữ Da-xá) cũng là bậc A La Hán trú tám giải thoát cùng năm trăm đệ tử du hành trong nhân gian đến thành Quảng-Nghiêm. Khi ấy, các Bí-sô muốn phân lợi vật nên người tri sự đến thưa với Tôn giả Danh Xưng rằng Tăng già được lợi vật, sắp cùng nhau phân chia, hãy đến lấy phần.

 

Hỏi:

 

- Cụ thọ, lợi vật ấy phát sinh từ đâu, do ai cúng dường?

 

Vị ấy nói lại sự việc thu hoạch được lợi vật như trước. Nghe xong, Tôn giả suy nghĩ: "Mụt ghẻ dữ phát sinh chỉ có việc này hay còn việc khác nữa".

 

Tôn giả nhập định quán sát mới thấy vì họ khinh mạn giới nên làm các ác hạnh, cùng nhau gây ra mười điều phi pháp. Thấy vậy rồi, vì muốn chánh pháp được tồn tại lâu dài nên vị này đi đến gặp Tôn giả Lạc Dục, lạy sát hai chân, bạch:

 

- Tôn giả, Bí-sô được phép làm pháp cùng nhau lớn tiếng đồng ý không?

 

(đúng là phi pháp nhưng khi cùng nhau tác pháp, đại chúng lớn tiếng cùng đồng ý cho là đúng pháp)

 

Tôn giả hỏi:

 

- Thế nào là pháp cùng nhau đồng ý?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô ở thành Quảng Nghiêm tiến hành phi pháp bất hòa yết ma, phi pháp hòa yết-ma, pháp bất hòa yết ma, mà đại chúng lại lớn tiếng cùng nhau đồng ý việc ấy. Đây gọi là tịnh pháp lớn tiếng cùng nhau đồng ý. Việc này có đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai chế định không cho phép như vậy ở đâu?

 

Đáp:

 

- Tại thành Chiêm Ba.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho nhóm sáu Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Tội ác-tác.

 

Đại Danh thưa:

 

- Tôn giả, đây là việc thứ nhất. Việc này trái lời Phật dạy, trái vượt chánh lý, không thuận theo Kinh, không y cứ luật mà các Bí-sô làm việc bất tịnh lại cho là thanh tịnh, khen ngợi tuyên thuyết và cùng nhau tuân hành. Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại danh lại hỏi:

 

- Thưa Tôn giả, như vậy pháp tùy hỷ được phép làm không?

 

Tôn giả hỏi lại:

 

- Pháp tùy-hỷ như thế nào?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô này tiến hành phi pháp bất hòa yết-ma, phi pháp hòa yết-ma, pháp bất hòa yết-ma mà đại chúng lại tùy hỷ. Đây gọi là tịnh pháp tùy hỷ. Việc này có đúng không?

 

Tôn giả đáp:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai chế định không được làm việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Tại thành Chiêm-ba.

 

Hỏi:

 

- Chế cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho nhóm sáu Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội ác tác.

 

Đại danh thưa:

 

- Tôn giả, đây là việc thứ hai. Việc này trái lời Phật dạy ... như trên cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Lại hỏi:

 

- Tịnh pháp theo việc cũ được phép làm không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp theo việc cũ là gì?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô ấy tự mình đào đất, bảo người đào đất mà đại chúng cho là tịnh pháp theo việc cũ, việc này đúng không?

 

Tôn giả đáp:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như lai không cho phép là việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Thành Thất La Phiệt.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho nhóm sáu Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội đọa.

 

Thưa:

 

- Tôn giả đây là pháp thứ ba. việc này trái lại lời Phật dạy ... như trên cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại danh lại hỏi:

 

- Thưa Tôn giả, tịnh pháp về việc dùng muối đúng không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp về muối là gì?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô này để muối vào trong ống, thủ trì xử dụng, hòa với thời dược để ăn uống tùy ý, cho là muối tịnh; việc này được không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai không cho phép là việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Thành Vương-xá.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho cụ thọ Xá Lợi Phất.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội Ba-dật-để-ca

 

Thưa:

 

- Tôn giả đây là pháp thứ tư. Việc này trái lại lời Phật dạy ... như trên cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại Danh lại hỏi:

 

- Tôn giả, tịnh pháp đi đường như vậy đúng không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp đi đường là gì?

 

Đáp:

 

- Khi đi lại, các Bí-sô này chỉ cách nhau trong một trạm ngựa rưỡi mà lại ăn chúng riêng, cho là pháp tịnh vì đi đường. Việc này đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai không cho phép là việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Thành Vương-xá.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho Thiên Thọ.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội Ba-dật-để-ca

 

Thưa:

 

- Tôn giả đây là pháp thứ năm.Việc này trái lại lời Phật dạy ... như trên, cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại Danh lại hỏi:

 

- Thưa Tôn giả, được phép làm tịnh pháp hai ngón không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp hai ngón là gì?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô này không làm pháp dư thực mà dùng hai ngón tay để lấy ăn, cho là tịnh pháp bằng hai ngón tay. Việc này đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai không cho phép làm việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Thành Thất La Phiệt.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho Thiện Lai.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội Ba-dật-để-ca

 

Thưa:

 

- Tôn giả đây là pháp thứ sáu.Việc này trái lại lời Phật dạy ... như trên, cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại Danh lại hỏi:

 

- Thưa Tôn giả, được phép làm tịnh pháp trị bệnh như vậy không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp trị bệnh là gì?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô này dùng nước hòa với rượu, quậy lên uống, cho là tịnh pháp. Việc này có đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai không cho phép làm việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Thành Thất La Phiệt.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho Thiện Lai.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội Ba-dật-để-ca

 

Thưa:

 

-Tôn giả đây là pháp thứ bảy.Việc này trái lại lời Phật dạy ... như trên, cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại Danh lại hỏi:

 

- Thưa Tôn giả, tịnh pháp lạc tương như vậy có đúng không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp lạc tương là gì?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô này, dùng một thăng sữa nấu đặc hòa với nước, quậy lên uống phi thời, cho là tịnh pháp nước sửa đặc. Việc này có đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai không cho phép làm việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Thành Thất La Phiệt.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho chúng mười bảy Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội Ba-dật-để-ca

 

Thưa:

 

- Tôn giả đây là pháp thứ tám.Việc này trái lại lời Phật dạy ... như trên, cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại Danh lại hỏi:

 

- Thưa Tôn giả, được phép làm tịnh pháp tọa cụ như vậy không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp tọa cụ là gì?

 

Đáp:

 

- Làm tọa cụ mới, các Bí-sô này không dùng một miếng cũ lớn bằng một gang tay của Phật may đắp lên mà đem xử dụng, cho là tịnh pháp tọa cụ. Việc này có đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai không cho phép làm việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Thành Thất La Phiệt.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho nhóm sáu Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội Ba-dật-để-ca

 

Thưa:

 

- Tôn giả đây là pháp thứ chín.Việc này trái lại lời Phật dạy ... như trên, cho đến ... Tôn giả không nên bỏ qua việc ác như vậy.

 

Nghe nói như vậy, Tôn giả lặng im hồi lâu rồi đáp:

 

- Đã biết việc ấy.

 

Đại Danh lại hỏi:

 

- Được phép làm tịnh pháp vàng vật báu không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Tịnh pháp vàng vật báu là gì?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô này trang sức bát đẹp, đem đến từng nhà xin các loại vàng vật báu, bối xỉ (tiền tệ). Tăng cùng nhau phân chia, cho là tịnh pháp vàng vật báu. Việc này có đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai không cho phép làm việc này tại đâu?

 

Đáp:

 

- Tại Tỳ-nại-da.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho nhóm sáu Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội Xả đọa.

 

Thưa:

 

- Tôn giả đây là pháp thứ mười.

 

Lại nữa, đối chiếu trong Kinh Bảo Đảnh ở phẩm Phật Ngữ thuộc Tương Ưng A Cấp Ma, trong phẩm Giới-Uẩn thuộc Trường A Cấp Ma, Kinh Yết Sĩ Na ở phẩm Tương Ưng thuộc Trung A Cấp Ma, giữa phẩm bốn và năm thuộc Tăng Nhất A Cấp Ma, thì điều này trái với lời Phật dạy.

 

Tôn giả đáp:

 

- Nếu như vậy, ông hãy đến nơi khác tìm những vị đồng bạn tốt. Ta sẽ làm bạn pháp với ông.

 

Nghe Tôn giả Lạc Dục nói như thế rồi, cụ thọ Danh-Xưng nhập vào tịnh lự biên-tế thứ tư, sau đó đi về thôn An Trú. Tại đó, có Bí-sô tên Xa Sá (Tàu dịch Siểm Khúc) là đệ tử của Tôn giả A Nan Đà, chứng quả A La Hán, trú tám giải thóat. Danh-xưng đến gặp Xa-sá, đảnh lễ sát chân rồi bạch:

 

- Tôn giả, Bí-sô được phép làm tịnh pháp cùng nhau lớn tiếng đồng ý không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Thế nào là tịnh pháp cùng nhau đồng ý?

 

Đáp:

 

- Các Bí-sô này tiến hành phi pháp bất hòa yết ma, phi pháp hòa yết-ma, pháp bất hòa yết ma, mà cùng nhau đồng ý cho là tịnh pháp. Việc này có đúng không?

 

Tôn giả nói:

 

- Không được như vậy.

 

Hỏi:

 

- Như Lai chế định không cho phép như vậy ở đâu?

 

Đáp:

 

- Tại thành Chiêm-ba.

 

Hỏi:

 

- Cho ai?

 

Đáp cho nhóm sáu Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Bị tội ác-tác.

 

Đại Danh thưa:

 

- Tôn giả, đây là việc thứ nhất. Việc này trái lời Phật dạy ... như đã nói đầy đủ ở trước cho đến ... việc thứ mười.

 

Tôn giả đáp:

 

- Nếu như vậy, hiền giả hãy đến các nơi khác tìm những vị đồng bạn tốt. Ta sẽ làm bạn pháp với hiền giả.

 

Sau khi từ giã, vị này đi đến thành Tăng-yết-thế. Nơi này có Tôn giả Bà Sai là đệ tử của ngài A Nan Đà, chứng quả A La Hán, trú tám giải thóat. Đến gặp Tôn giả Bà Sai, Đại Danh lạy sát chân thưa:

 

- Tôn giả, Bí-sô được phép làm tịnh pháp cùng nhau đồng ý không?

 

Tôn giả hỏi:

 

- Thế nào là tịnh pháp cùng nhau đồng ý?

 

Hỏi đáp như trước đến việc thứ mười.

 

Sau khi từ giã, Đại Danh đi đến thành Ba-Thát-Ly-Tử. Nơi ấy có cụ thọ tên Khúc An. Bấy giờ, Khúc An đang nhập diệt-tận-định nên Danh Xưng đến cụ thọ Thiện- Ý ... như trước cho đến việc thứ mười rồi đi đến thành Lưu-Chuyển. Nơi ấy có cụ thọ Nan Thắng, cũng nói mười việc như trước cho đến đảnh lễ từ giã đi đến thành Đại Huệ. Nơi ấy, có cụ thọ Thiện Kiến ... cũng nói mười việc như trên ... cho đến đảnh lễ từ giã đi đến thành Câu Sinh. Nơi ấy có cụ thọ Diệu Tinh ... cũng nói mười việc như trước.

 

Nghe nói như vậy, cụ thọ Diệu Tinh suy nghĩ: "Trước khi đến trú xứ của ta, vị cụ thọ này đã đến trú xứ khác để nói chưa?".

 

Khi biết đã đến các nơi khác rồi, Diệu Tinh suy nghĩ: "Vị cụ thọ này đã lặn lội đường xa, chắc chắn rất mệt nhọc".

 

Diệu Tinh nói:

 

- Cụ thọ hãy tạm thời nghỉ ngơi lại đây, tôi sẽ đi tìm đồng bạn tốt.

 

Danh Xưng ở lại, Diệu Tinh lên đường.

 

Tại thành Quảng Nghiêm, các Bí-sô cùng nhau đến gặp đệ tử của Danh Xưng, hỏi:

 

- Thân-giáo-sư của ông đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Đi tìm cầu đồng bạn tốt.

 

Hỏi:

 

- Cầu để làm gì?

 

Đáp:

 

- Để tẩn xuất các vị.

 

Hỏi:

 

- Chúng tôi vi phạm gì mà muốn khu tẫn?

 

Đệ tử của Danh Xưng nêu hết các việc trên ra.

 

Các Bí-sô ấy nói:

 

- Thân-giáo-sư của ông đã làm việc bất thiện, đức Phật đã Niết-bàn, vì sao lại gây phiền não nhau trong giáo pháp để lại. Chúng tôi chỉ tùy duyên tạm thời để sống.

 

Trong chúng ấy, có các Bí-sô bàn với nhau:

 

- Lời vị kia nói là chân thật không dối trá. Việc làm của các cụ thọ là trái nghịch không thuận Thanh văn hạnh. Trước đây, chúng ta đều nghe chánh pháp của Thế Tôn tồn tại một ngàn năm. Thời gian này chưa qua mà đã khiến cho pháp bị ẩn mất. Hiện nay vị ấy tìm cầu đồng bạn vì hộ trì chánh pháp nên muốn khu tẫn, thật là tốt đẹp. Do sự việc đúng này làm cho những kẻ ác không còn xem thường giới luật, mụt ghẻ dữ không mọc được.

 

Các Bí-sô đều sợ hãi, không thể đáp lại được, đành im lặng đứng qua một bên, nói với nhau:

 

- Cụ thọ Danh Xưng đã đi tìm cầu đồng bạn để tiến hành việc khu tẫn, vì sao vẫn lặng yên như thế này!

 

Người kia nói:

 

- Ta phải làm gì đây?

 

Đáp:

 

- Vị kia đã tìm đồng bạn thì chúng ta cũng vậy, làm sao khu tuẫn được.

 

Có người nói:

 

- Nếu như vậy, sẽ có tránh sự phát sinh, hãy cùng nhau mau bỏ đi nơi khác.

 

Hỏi:

 

- Sẽ đi đâu, đến nơi nào rồi cũng xảy ra lỗi ấy, hãy xin các vị ấy hoan hỷ dung thứ cho.

 

Có người nói:

 

- Nhất định vị ấy không hoan hỷ cho chúng ta. Thôi cứ tạm thời ở đây, Danh Xưng có các môn đồ đệ tử. Chúng ta hãy đem y, bát, bình, dây mang bát, chén đồng, nịt lưng tặng trước đểû họ vui lòng rồi mới cầu xin hoan hỷ.

 

Sau khi tán đồng là phương pháp tốt, các Bí-sô đem cho Tăng-già-chi, y bảy điều, y năm điều, y lót Tăng-khước-kỳ, y lót thân, bát, túi lọc nước ... Cung cấp như vậy, làm cho môn nhân kia chấp nhận, các Bí-sô vẫn ở yên trong trú xứ.

 

Sau khi tìm cầu đồng bạn tốt, cụ thọ Danh Xưng về đến thành Quảng Nghiêm. Các môn nhân đệ tử đảnh lễ sát chân, bạch:

 

- Thân-giáo-sư tìm được đồng bạn không?

 

Đáp:

 

- Này các con, không bao lâu đồng bạn tốt sẽ đến tương trợ.

 

Các đệ tử nói:

 

- Thưa thân-giáo-sư, việc này đã qua, xin thầy nghĩ lại. Đức Đại sư đã nhập diệt, giáo pháp cũng đi theo, vì tùy duyên nuôi sống, gây phiền họ làm gì?

 

Nghe như vậy, Đại Danh suy nghĩ: "Ta chưa từng nghe các đệ tử nói những lời như vậy, xem bộ dạng của họ thì chắc là nhận lời yêu cầu của người khác".

 

Tôn giả bảo:

 

- Các cụ thọ, ta chưa từng nghe các vị nói những lời như vậy, có phải các vị nhận lời yêu cầu của người khác phải không?

 

Các đệ tử đều im lặng.

 

Bấy giờ, Danh Xưng sai người đến nói với đồng bạn rằng phe ác đã tăng dần, các vị hãy đến mau, Phật pháp đại sự không thể chậm trễ.

 

Với bài kệ;

 

    Phải nhanh lại chậm,

    Nên chậm lại nhanh,

    Là trái chánh lý,

    Hành động kẻ ngu,

    Bị mang tiếng xấu,

    Xa lìa bạn lành,

    Hành động suy tổn,

    Như trăng tối dần.

 

    Cần chậm thì chậm,

    Phải nhanh làm nhanh,

    Là thuận chánh-lý,

    Tri thức bậc trí,

    Được tiếng khen tốt,

    Thân cận bạn thiện,

    Hành động phát triển,

    Như trăng sáng dần.

 

Cụ thọ Danh Xưng đánh kiền chùy, có sáu trăm chín mươi chín vị A La Hán đều là đệï tử của ngài A Nan Đà vân tập đến. Đang nhập Diệt-tận-định nên Tôn giả Khúc-An không nghe tiếng kiền chùy. Sau khi các Bí-sô đã tập họp, cụ thọ Danh-xưng suy nghĩ:

 

- Nếu ta bạch với chúng Tăng tất gây sự giận dữ tranh cãi lớn, vậy chờ hòa hợp đông đủ rồi mới thông báo.

 

Đến trước thượng tọa, Danh Xưng ngồi xổm chắp tay im lặng.

 

Khi ấy, Tôn giả Khúc An vừa xuất khỏi định diệt-tận. Chư thiên báo:

 

- Thánh giả Khúc An, vì sao ngài an nhiên như vậy, sáu trăm chín mươi chín vị A La Hán đồng học đã đến tập họp ở thành Quảng Nghiêm, muốn kết tập để chánh pháp đư?c tồn tại lâu dài, hãy mau đến đó.

 

Dùng năng lực thần thông, Tôn giả biến mất khỏi Ba Thát Ly, hiện ra ở thành Quảng Nghiêm rồi gõ cửa phòng.

 

Các Bí-sô hỏi:

 

- Ai đó?

 

Khúc an nói kệ đáp:

 

    - Ở tại thành Ba Thát Ly Tử.

    Sa-môn trì Luật, bậc Đa văn,

    Nơi ấy, có người đã đến đây,

    Đứng ngay trước cửa, các căn tịnh.

 

Các Bí-sô ở trong nói:

 

- Ngoài chúng này ra cũng có vị các căn tịch tịnh hay sao, xin nói tên ra.

 

Khúc an đáp:

 

    Ở tại thành Ba Thát Ly tử,

    Sa-môn trì Luật, bậc đa văn,

    Nơi ấy, có người đã đến đây,

    Đứng ngay trước cửa, tên Khúc-an.

 

Các Bí-sô nói:

 

- Lành thay, xin chào, xin mời vào đây.

 

Khi Tôn giả này vào, các Bí-sô đều đứng dậy nghênh tiếp, thăm hỏi, đảnh lễ rồi ngồi về chỗ cũ theo thứ tự.

 

Thấy các Tôn giả đã an tọa, cụ thọ Danh Xưng đem mười việc ra trình bày:

 

- Thưa các cụ thọ! Được phép làm tịnh pháp đồng ý như vậy không?

 

Hỏi:

 

- Tịnh pháp đồng ý như thếù nào?

 

Đáp:

 

- Như có Bí-sô thi hành phi-pháp-bất-hòa-yết-ma, phi-pháp-hòa-yết-ma, pháp-bất-hòa-yết-ma, gọi là tịnh pháp cùng đồng ý; việc này được không?

 

Tôn giả đáp:

 

- Không được.

 

Hỏi:

 

- Chế định tại đâu?

 

Đáp:

 

- Tại thành Chiêm Ba.

 

Hỏi:

 

- Chế cho ai?

 

Đáp:

 

- Cho nhóm sáu Bí-sô.

 

Hỏi:

 

- Bị tội gì?

 

Đáp:

 

- Tội Ác-tác.

 

Thưa:

 

- Tôn giả, đây là việc thứ nhất, chính là trái ngược lời Phật dạy ... cho đến pháp thứ mười hỏi đáp như trước. Sau đó, đại chúng cùng nhau kết tập. Sau khi tác bạch, kiền chùy được đánh lên, tất cả Bí-sô tại thành Quảng-Nghiêm đều vân tập đến, theo thứ tự an tọa. Khi ấy, Tôn giả Danh Xưng lại nêu lên hết mười điều trên cho đại chúng, bàn luận việc đúng sai và được tất cả chấp thuận.

 

Khi ấy, có bảy trăm vị A La Hán cùng nhau kết tập nên gọi là cuộc kết tập bảy trăm vị (Thất bách kết tập).

 

 

 

Nội nhiếp tụng ở trước:

 

    Lớn-tiếng và tùy-hỷ,

    Đào-đất, rượu, chứa-muối,

    Nữa-trạm, hai-ngón-tay,

    Sữa-đặc, tọa-cụ, báu.

 

    Từ thành Quảng Nghiêm đến An-trú,

    Đi khắp thiên hạ đến Yết-xa,

    Thành Ba Thát Ly, thành Lưu Chuyển,

    Đại Huệ, Câu Sinh cộng bảy thành.

    Tôn giả Lạc Dục và Danh Xưng,

    Tôn giả Xa Tha Bà, Táp Bà,

    Thiện Ý, Khúc An và Nan Thắng,

    Thiện Kiến, Diệu Tinh cả chín vị.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

 

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Hết quyển bốn mươi trọn bộ.

 

-ooOoo-

 

Phật-đản 2541, Long Sơn Tự, Nha Trang

Thứ hai 26-05-1997, tức là 20-04 Đinh Sửu

Bhikkhu Carana-Citto (Tỳ kheo Tâm Hạnh)

 

Thân hành luôn chánh niệm,

Chế ngự sáu xúc xứ,

Bí-sô thường thiền định,

Tự chứng tri Niết-bàn.

-- (Kinh Phật-tự-thuyết)

 

Mong nhiều Tăng chúng đức tài,

Tu thành thánh-quả, hoằng khai đạo lành.

Nguyện cho Phật-pháp thạnh hành,

Năm ngàn năm chẳn phước lành thế gian.

 

--- o0o ---

Hết

 

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22272)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16007)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15017)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18938)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14436)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18615)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14408)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13573)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13542)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11806)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13227)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13643)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13922)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15017)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16149)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11077)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16443)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11893)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17581)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12865)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13696)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12851)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14850)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16372)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12075)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12762)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12891)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12767)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14157)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14099)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16461)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12373)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14374)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11296)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11019)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13187)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13883)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13151)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12995)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13487)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12722)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10227)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13956)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10217)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13693)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16250)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11948)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12961)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11633)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12663)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10791)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10976)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10931)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11886)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11055)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12608)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11311)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant