Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Thứ 9

06 Tháng Giêng 201508:49(Xem: 8828)
Quyển Thứ 9

QUYỂN THỨ CHÍN

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY

LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG SANH TRONG ĐỊA NGỤC A TỲ


Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy từ phần quy y trở đi cho đến phần nầy về sau đều trình vạn pháp sai biệt, tội phước bất nhất, nhưng cũng rõ ràng như sáng và tối, tóm lại mà nói thì chỉ có thiện và ác mà thôi.

Thiện là con đường tốt đẹp, đi lên các cõi trên, ác là nẻo xấu xa, đọa xuống các cõi dưới, trong ba dường ác. Tu nhơn nghĩa thì đi về cảnh giới an vui tốt đẹp, gây tàn hại thì đọa xuống cảnh giới khổ đau hà tiện. Người ở cảnh thù thắng an vui là do nghiệp thù thắng vui mà được quả báo tốt đẹp, chứ không phài do sự tranh đua vô đạo, tàn ác bất nhơn mà được.

Người ở cảnh thắng thọ hưởng vui thú nhiệm mầu, tự nhiên, tiêu diêu tự tại, thẳng đến đạo bồ đề giác ngộ. Người ở cảnh hà liệt đau khổ là do nghiệp xấu xa, hạ liệt, tàn ác bất nhơn gây ra.

Người ất ở trong hỏa thành lưới sắt; ăn thời ăn hoàn sắt nóng mãnh liệt; uống thời uống nước đồng sôi dữ dội. Thọ mạng vô tận kiếp số vô cùng chịu đủ thống khổ.

Thống khổ trong địa ngục không thể kể xiết, không thể chịu nổi. Tinh thần lìa khỏi thân mạng nầy liền sa đọa vào địa ngục hỏa thành. Quả báo thì có đao luân gia hình, đền nợ thì có đá lửa mài thân. Mạng sống kéo dài, ôm khổ mà chịu. Dầu thoát khỏi địa ngục cũng đọa vào ngã quỉ. Thân hình tiều tụy, ôm lòng đói khát, miệng khạc ra lửa, mạng sống mong manh. Chết rồi lại đọa làm súc sanh chịu bao khổ sở. Do thịt làm đồ ăn thân hình bị chia xẻ nấu nướng, yến tiệc linh đình. Hoặc là chở nặng đi xa, làm việc nguy hiểm. Đó là một nỗi khổ nặng nhất trong ba đường ác. Đau đớn thay cho những kẻ ở trong đêm dài của dục vọng mờ mịt không có ngày ra mà không tự biết!

Vui khổ rõ ràng như vậy, mà nói không ai tin! Cũng chỉ vì chúng sanh hay chấp lấy cái bản ngã nhỏ nhen của mình nên không tin, lại nghi ngờ mê muội.

Bởi nghi ngờ mê muội nên có lam ngưuời không ưa điều lành. Sở dĩ Phật dạy: “Đời có mười việc chết đọa địa ngục: 1- Ý không chuyên làm lành, không tu công đức. 2- Tham ăn như cọp đói kia không khác. 3- Say mê tửu sắc, ôm lòng độc hại. 4- Thường tập ngu si, không nghe lời can gián. 5- Tự ý sức mình, làm các việc ác. 6- Ưa giết chúng sanh, lấn hiếp người cô quả. 7- Thường làm bạn với kẻ ác. 8- Xâm lấn phạm vi của người. 9- Lời nói không chân thật. 10- Không thương mọi loài, làm các nghiệp ác. Những người như thế, không thể sống lâu, chết vào đường ác”.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy: Theo lởi Phật dạy, mấy ai thoát được. Nếu không thoát được thì ở trong địa ngục đều có tội phần.

Đại chúng mọi người đều đã lãnh hội được ý ấy, thì tự mình không nên buông lung phải gấp tu Bồ tát đạo; cần cầu Phật pháp, lợi ích chúng sanh. Trước là tự diệt tội cho mình, sau lá sanh phước cho người. Đó là tự lợi lợi tha, mình và người không khác.

Ngày nay khởi tâm dõng mãnh, tâm kiên cố, tâm từ bi, tâm độ hết thảy, tâm cứu hết thảy. Phát tâm như vậy cho đến khi thành Phật, không quên bổn nguyện.

Nguyện xin hết thảy mười phương tận hư không giới chư Phật, chư Đại Bồ tát, đem đại thần thông lực, đại từ bi lựa, đại giải thoát địa ngục lực, tế độ ngã quỉ lực, cứu tế chúng sanh lực, đại thần chú lục, đại oai mãnh lực, khiến chúng con tên . . .  việc làm đều được kết quả lợi ích, lời nguyện đều được thành tựu viên mãn.

 Chúng con một lòng tha thiết đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện vì hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục a tỳ, cho đến hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong hắc ám địa ngục, trong mười tám địa ngục lạnh, trong mười tám địa ngục nóng, trong mười tám địa ngục đao luân, địa ngục rừng kiếm, địa ngục hỏa xa, địa ngục phất sí, địa ngục hầm than mà quy y Tam bảo.

Những địa ngục ấy lại có tám vạn bốn ngàn địa ngục khác làm quyến thuộc. Trong ấy có bao nhiêu chúng sanh chịu khổ, chúng con nguyện do bồ đề tâm, bồ đề hạnh, bồ đề nguyện, xin vì hết thảy chúng sanh ấy mà đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đại Âm Tán Phật

Nam mô Tịnh Nguyện Phật

Nam mô Nhật Thiên Phật

Nam mô Lạc Huệ Phật

Nam mô Nhiếp Thân Phật

Nam mô Oai Đức Thế Phật

Nam mô Sát Lợi Phật

Nam mô Đức Thừa Phật

Nam mô Thượng Kim Phật

Nam mô Giải Thoát kế Phật

Nam mô Nhạo Pháp Phật

Nam mô Trú Hạnh Phật

Nam mô Xả Kiêu Mạn Phật

Nam mô Trí Tạng Phật

Nam mô Phạm Hạnh Phật

Nam mô Chiên Đàn Phật

Nam mô Vô Ưu Danh Phật

Nam mô Đoạn Nghiêm Thân Phật

Nam mô Tướng Quốc Phật

Nam mô Liên Hoa Phật

Nam mô Vô Biên Thân Đức Phật

Nam mô Thiên Quang Phật

Nam mô Huệ Hoa Phật

Nam mô Tần Đầu Ma Phật

Nam mô Trì Phú Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi cứu độ dẫn tiếp các chúng sanh chịu khổ trong A tỳ địa ngục, cho đến trong hắc ám địa ngục, đao luân địa ngục, hỏa xa địa ngục, phất sí địa ngục và trong các địa ngục quyến thuộc v.v... Xin nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, nhất thế Thánh Hiền lực, khiến các chúng sanh hiện đang chịu khổ, ngày nay liền được giải thoát; hoàn toàn không đọa trở lại trong các địa ngục, hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ, rốt ráo không tạo nghiệp địa ngục, không sanh vào địa ngục, sanh về Tịnh độ, bỏ sống địa ngục, được sống trí huệ, bỏ thân địa ngục được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục, được vui Niết bàn; nhớ địa ngục khổ, phát bồ đề tâm; tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí, sáu thức thần thông tự tại như ý. Đầy đủ trí huệ, tu đạo Bồ tát, dõng mãnh tinh tấn không thôi không nghỉ, tiến đến hạnh Thập địa vào tâm Kim cang, thành bậc Chánh giác.  

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI TÁM

LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG SANH TRONG ĐỊA NGỤC KHÔI HÀ, ĐỊA NGỤC THIẾT HOÀN V.V...

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam bảo nguyện xin vì những chúng sanh trong:

Địa  ngục  khôi  hà,

Địa  ngục  rừng  kiếm,

Địa  ngục  rừng  gai,

Địa  ngục  cột  đồng,

Địa  ngục  máy  sắt,

Địa  ngục  lưới  sắt,

Địa  ngục  hang  sắt,

Địa  ngục  hoàn  sắt,

Địa  ngục  đá  nhọn.

Những địa ngục như vậy đầy khắp mười phương tận hư không giới.

Ngày nay chúng con nguyện vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong các địa ngục ấy phát tâm bồ đềquy y đảnh lễ thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Tài Phật

Nam mô Bảo Thủ Phật

Nam mô Tịnh Căn Phật

Nam mô Cụ Túc Luận Phật

Nam mô Thượng Luận Phật

Nam mô Phất Sa Phật

Nam mô Đề Sa Phật

Nam mô Hữu Nhật Phật

Nam mô Xuất Nê Phật

Nam mô Đắc Trí Phật

Nam mô Mô La Phật

Nam mô Thượng Cát Phật

Nam mô Pháp Lạc Phật

Nam mô Cầu Thắng Phật

Nam mô Trí Huệ Phật

Nam mô Thiện Thánh Phật

Nam mô Võng Quang Phật

Nam mô Lưu Ly Tạng Phật

Nam mô Danh Văn Phật

Nam mô Lợi Tịch Phật

Nam mô Giáo Hóa Phật

Nam mô Nhật Minh Phật

Nam mô Thiện Minh Phật

Nam mô Chúng Đức Thượng Minh Phật

Nam mô Bảo Đức Phật

Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo, dùng sức Từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, cho các chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục khôi hả, địa ngục rừng kiếm v.v... liền được giải thoát, hết thảy khổ quả đều được tiêu trừ. Những nghiệp địa ngục rốt ráo thanh tịnh; bỏ thân địa ngục được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục, được vui Niết bàn; nhớ địa ngục khổ, phát bồ đề tâm, đồng ra khỏi nhà lửa, thẳng đến Đạo tràng; cùng với các vị Bồ tát thành bậc Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN

LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG NHỮNG ĐỊA NGỤC UỐNG NƯỚC ĐỒNG SÔI, ĐIẠ NGỤC HẦM HỐ V.V.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện khắp vì hết thảy chúng sanh đọa địa ngục trong mười phương tận hư không giới.

Địa  ngục  uống  nước  đồng  sôi,

Địa  ngục  chúng  hiệp,

Địa  ngục  khiếu  hoán,

Địa  ngục  Đại  khiếu  hoán,

Địa  ngục  nóng,

Địa  ngục  Đại  nóng,

Địa  ngục  hầm  than,

Địa  ngục  rừng  cháy, v. v . . .

Những địa ngục ấy có vô lượng vô biên địa ngục khác làm quyến thuộc.

Trong các địa ngục ấy chúng sanh đang chịu khổ, chúng con nguyện đem sức bồ đề tâm, thay thế hết thảy chúng sanh ấy mà đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ: 

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Nhơn Nguyệt Phật

Nam mô La Hầu Phật

Nam mô Cam Lồ Minh Phật

Nam mô Diệu Ý Phật

Nam mô Đại Minh Phật

Nam mô Nhất Thế Chủ Phật

Nam mô Lạc Trí Phật

Nam mô Sơn Vương Phật

Nam mô Tịch Diệt Phật

Nam mô Đức Tụ Phật

Nam mô Thiên Vương Phật

Nam mô Diệu Âm Thanh Phật

Nam mô Diệu Hoa Phật

Nam mô Trú Nghĩa Phật

Nam mô Công Đức Oai Tụ Phật

Nam mô Trí Vô Đẳng Phật

Nam mô Cam Lồ Âm Phật

Nam mô Thiện Thủ Phật

Nam mô Lợi Huệ Phật

Nam mô Tri giải Thoát Nghĩa Phật

Nam mô Thắng Âm Phật

Nam mô Lê Đà Hạnh Phật

Nam mô Thiện Nghĩa Phật

Nam mô Vô Quá Phật

Nam mô Hành Thiện Phật

Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, nguyện cho hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục uống nước đồng sôi v.v... hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ, hết thảy khổ não đều được giải thoát, từ nay về sau không còn đọa lại trong các địa ngục, không sanh vào địa ngục, sanh về Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục được mạng trí huệ, tứ vô lượng tâm lục ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí sáu sức thần thông, tự tại như ý; ra khỏi địa ngục, được vào Niết bàn, đồng như chư Phật, thành đẳng Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI

LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG CÁC ĐỊA NGỤC, ĐAO BINH, ĐỒNG PHỦ V.V...

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh khắp mười phương, tận hư không giới, hiện đang chịu khổ trong các địa ngục:

Địa  ngục  tưởng  tượng,

Địa  ngục Hắc  sa,

Địa  ngục  đóng đinh  vào  thân,

Địa  ngục  giếng  lửa,

Địa  ngục  cối đá,

Địa  ngục  sỏi  bay,

Địa  ngục  đao  binh,

Địa  ngục  đói  khát,

Địa  ngục  chảo đồng sôi, v.v...

Những địa ngục như thế ấy vô lượng vô biên. Ngày nay chúng con nguyện xin vì hết thảy chúng sanh trong các địa ngục ấy, đem sức Bồ đề tâm thay thế các chúng sanh ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Hoa Tạng Phật

Nam mô Diệu Quang Phật

Nam mô Nhạo Thuyết Phật

Nam mô Thiện Tế Phật

Nam mô Chúng Vương Phật

Nam mô Ly Úy Phật

Nam mô Biện Tài Phật

Nam mô Danh Văn Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Minh Phật

Nam mô Thượng Ý Phật

Nam mô Vô Úy Phật

Nam mô Đại Kiến Phật

Nam mô Phạm Âm Phật

Nam mô Thiện Âm Phật

Nam mô Huệ Tế Phật

Nam mô Vô Đẳng Ý Phật

Nam mô Kim Cang Quân Phật

Nam mô Bồ đề Ý Phật

Nam mô Thọ Vương Phật

Nam mô Bàn Đà Âm Phật

Nam mô Phước Đức Lực Phật

Nam mô Thế Đức Phật

Nam mô Thánh Ái Phật

Nam mô Thế Hạnh Phật

Nam mô Hổ Phách Phật

Nam mô Lạc Tri Phật

Nam mô Khí Âm Cái Bồ tát

Nam mô Tịch Căn Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, xin cho hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong các địa ngục đao binh v.v... và trong hết thảy địa ngục quyến thuộc, ngày nay liền được giải thoát, bao nhiêu khổ não đều được đoạn trừ, không sanh vào địa ngục, được sanh về Tịnh độ; bỏ sống địa ngục được sống trí huệ, nhớ địa ngục khổ phát tâm bồ đề, tu bồ tát hạnh không thôi không nghỉ; vào đạo nhất thừa, đủ hạnh thập địa, dùng sức thần thông, tiếp độ chúng sanh, đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT

LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG CÁC ĐỊA NGỤC HỎA THÀNH ĐAO SƠN V.V...

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nguyện vì hết thảy chúng sanh trong các địa ngục cùng khắp mười phương tận hư không giớichí thành lễ Tam bảo.

Địa  ngục  thành  lửa,

Địa  ngục  hang  đá,

Địa  ngục  nước  sôi,

Địa  ngục  núi  đao,

Địa  ngục  hổ  lang,

Địa  ngục  giường  sắt,

Địa  ngục  gió  nóng,

Địa  ngục  phun  lửa.

Những địa ngục ấy có vô lượng vô biên địa ngục khác làm quyến thuộc. Ngày nay chúng con nguyện vì hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong các địa ngục ấy đem sức bồ đề tâmquy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Lôi Âm Vân Phật

Nam mô Thiên Ái Mục Phật

Nam mô Thiện Trí Phật

Nam mô Cụ Túc Phật

Nam mô Đức Tích Phật

Nam mô Đại Âm Phật

Nam mô Pháp Tướng Phật

Nam mô Trí Âm Phật

Nam môHư Không Phật

Nam mô Từ Âm Phật

Nam mô Huệ Âm Sai Biệt Phật

Nam mô Công Đức Quang Phật

Nam mô Thánh Vương Phật

Nam mô Chúng Ý Phật

Nam mô Biện Tài Luân Phật

Nam mô Thiện Tịch Phật

Nam mô Nguyệt Diện Phật

Nam mô Nhật Danh Phật

Nam mô Vô Cấu Phật

Nam mô Công Đức Tập Phật

Nam mô Hoa Đức Tướng Phật

Nam mô Biện Tài Quốc Phật

Nam mô Bảo Thí Phật

Nam mô Ái Nguyệt Phật

Nam mô Bất Cao Phật

Nam mô Huệ Thượng Bồ tát

Nam mô Thường Bất Ly Thế Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, cho những chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục trên ấy, liền được giải thoát, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục nhiều không thể kể xiết ở khắp mười phương đều nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, và Hiền Thánh lực, khiến các cgúng sanh ấy liền được giải thoát hằng đoạn trừ hết nghiệp địa ngục trong mười phương.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, rốt ráo không đọa lại trong ba đường ác, xả thân thọ thân thường được gặp chư Phật, đầy đủ trí huệ, thanh tịnh tự tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu lên cho đến mãn hạnh thập địa, vào tâm Kim cang, viên thành giống trí, do thần lực của Phật tùy tâm tự tại.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI

LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG ĐƯỜNG NGÃ QUỈ

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ, nguyện vì mười phương tận hư không giới hết thảy thần ngã quỉ, ngã quỉ và quyến thuộc của ngã quỉ trong đường quỉ đói đem sức tâm bồ đềquy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Sư Tử Lực Phật

Nam mô Tự Tại Vương Phật

Nam mô Vô Lượng Tịnh Phật

Nam mô Đẳng Định Phật

Nam mô Diệt Cấu Phật

Nam mô Bất Thất Phương Tiện Phật

Nam mô Vô Nhiêu Phật

Nam mô Diệu Diện Phật

Nam mô Trí Chế Trú Phật

Nam mô Pháp Sư Vương Phật

Nam mô Đại Thiên Phật

Nam mô Thâm Ý Phật

Nam mô Vộ Lượng Phật

Nam mô Pháp Lực Phật

Nam mô Thế Cúng Dường Phật

Nam mô Hoa Quang Phật

Nam mô Tam Thế Cúng Phật

Nam mô Ứng Nhật Tạng Phật

Nam mô Thiên Cúng Dường Phật

Nam mô Thượng Trí Nhơn Phật

Nam mô Chơn Kế Phật

Nam mô Tín Cam Lồ Phật

Nam mô Kim Cang Phật

Nam mô Kiên Cố Phật

Nam mô Dược Vương Bồ tát

Nam mô Dược Thượng Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi đồng gia tâm nhiếp thọ.

Nguyện cho hết thảy thần ngã quỉ, ngã quỉ và quyến thuộc của ngã quỉ, trong tất cả đường ngã quỉ đói ở mười phương, tận hư không giới, bao nhiêu tội chướng đều được tiêu trừ; bao nhiêu khổ nạn đều được giải thoát, thân tâm thanh tịnh, không còn khổ não; thân tâm no đủ, không còn đói khát, được pháp vị cam lồ; mắt trí huệ mở; tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, thường được hiện tiền, sáu thức thần thông như ý tự tại, xa lìa đường ngã quỉ, vào cõi Niết bàn, đồng với chư Phật thành bậc Chánh giác.  

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA

LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG ĐƯỜNG SÚC SANH 

 Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện khắp vì mười phương tận hư không giới hết thảy đường súc sanh trong bốn loài chúng sanh, hoặc lớn, hoặc nhỏ, dưới nước trên khô, giữa hư không; hết thảy súc sanhquyến thuộc của tất cả chúng sanh ấy, ngày nay chúng con do sức của tâm bồ đềđảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Bảo Kiên Minh Phật

Nam mô Lê Đà Bộ Phật

Nam mô Tùy Nhật Phật

Nam mô Thanh Tịnh Phật

Nam mô Minh Lực Phật

Nam mô Công Đức Tụ Phật

Nam mô Cụ Túc Đức Phật

Nam mô Sư Tử Hạnh Phật

Nam mô Cao Xuất Phật

Nam mô Hoa Thí Phật

Nam mô Châu Minh Phật

Nam mô Liên Hoa Phật

Nam mô Ái Trí Phật

Nam mô Quy Đà Nghiêm Phật

Nam mô Bất Hư Hạnh Phật

Nam mô Sanh Pháp Phật

Nam mô Tương Minh Phật

Nam mô Tư Duy Nhạo Phật

Nam mô Lạc Giải Thoát Phật

Nam mô Tri Đạo Lý Phật

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, cho hết thảy súc sanh trong bốn loài chúng và quyến thuộc của chúng, trong tất cả đường súc sanh ở khắp mười phương tận hư không giới, bao nhiêu tội chướng đều được tiêu trừ, bao nhiêu khổ não đều được giải thoát, đồng xả bỏ ác thú, đồng chứng được đạo quả; thân tâm an vui như ở đệ tam thuyền; Tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, thường được hiện tiền; bốn vô ngại trí, sáu sức thần thông, như ý tự tại; xa lìa đường súc sanh, vào đường Niết bàn, nhập Kim cang tâm, thành bậc Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN

SÁU ĐƯỜNG CHÚNG SANHPHÁT NGUYỆN

Chúng con ngày nay xin nhờ công đức nhân duyên lễ Phật, sám hối thế cho các vị Trời, các vị Tiên, Long thần, Bát bộ; nguyện xin cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường, khắp mười phương, tận hư không giới, cùng tận đời vị lai, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, không thọ thân hình cách lầm lạc, oan uổng, không chịu các khổ sở độc hại, không tạo năm tội nghịch, mười tội ác, không đọa vào ba đường ác nữa.

Nhờ công đức nhân duyên lễ Phật, hôm nay đều được thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, như chư đại Bồ tát ma ha tát; đều như chư đại Bồ tát ma ha tát được đại tâm; tâm như đại địa, sanh ra các căn lành; tâm như biển cả, giữ gìn pháp đại trí huệ của chư Phật; tâm như núi Tu di, khiến tất cả chúng sanh đều an trú nơi vô thượng bồ đề; tâm như ngọc báu ma ni, xa lìa tất cả phiền não; tâm như ngọc báu kim, cang, quyết định được tất cả các pháp; tâm kiên cố tà ma ngoại đạo không thể ngăn trở phá hoại; tâm như liên hoa, hết thảy các pháp không thể làm nhiễm nhớp; tâm như hoa Ưu đàm bát, trong bao nhiêu kiếp, khó gặp được; tâm như hư không, hết thảy chúng sanh không thể lường được.

Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài, sáu đường, từ nay trở đi, so lường được tánh biết của mình, so lường được tánh quyết định tin hiểu của mình, trừ bỏ hết các pháp giả dối, thường nghĩ tới lời pháp ngữ. Có của gì đều bố thí, tâm không luyến tiếc; tâm dõng mãnh, không sợ hãi. Công đức tu hành đều bố thí, cho tất cả chúng sanh, không đọa lại đường tà; chuyên tâm một bề chánh đạo; thấy thiện như huyễn hóa, thấy ác như chiêm bao; xa lìa sanh tử, mau ra ba cõi quan sát rõ ràng, thấu đáo pháp môn, thậm thâm vi diệu, của Phật; tất cả đều được cúng dường hết thảy chư Phật; lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết thảy Tôn pháp; lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết thảy Bồ tát; lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết thảy Hiền thánh, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.

Nếu tất cả chúng sanh đời vị lai trái với lời đại nguyện của chúng con hôm nay, đều xin nhờ ơn đức Tam bào, khiến cho tất cả chúng sanh ấy đồng được vào trong bể đại nguyện nầy; liền được thành tựu công đức trí huệ; nhờ thần lực của Phật mà tùy tâm tự tại, đồng như chư Phật, đều thành Chánh giác

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM

CẢNH TỈNH VÔ THƯỜNG 

 Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã cùng nhau lễ Phật, sám hối phát nguyện thế cho hết thảy chúng sanh trong lục đạo rồi; bây giờ cần phải tỉnh ngộ vô thường.

Than ôi! Tội phước trong ba cõi, nhân quả sanh nhau ở ngay tại tâm, không rời đương niệm, nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau, không ngoài thiện ác; không thể sai lầm.

Nguyện xin Đại chúng nên giác ngộ lý vô thường; phải siêng lo tu hành để tự cứu lấy bản thân, chớ sanh tâm lười biếng mà không cố gắng.

Người trí thức thường than: “Giả sử người hưởng thú dục lạc trăm, ngàn, vạn ức năm, rốt cuộc cũng không thể tránh được đau khổ trong ba đường ác”. Huống gì chúng ta trong khoảng thời gian ngắn ngủi một trăm năm, nhưng mấy ai sống được một nửa. Thế thì chúng ta không thể tự dung túng qua ngày không lo tu tập.

Vả lại thế gian huyễn hóa, rốt cuộc tất cả đều tiêu ma. Có rồi hoàn không, lên cao rồi phải xuống thấp; có sum họp phải có chia ly; có sanh quyết có tử; cha mẹ vợ con chồng bạn, anh em quyến thuộc, thương yêu đến tận cốt tủy, đến giờ phút lâm chung, không ai có thể chết thế cho ai.

Quyền cao chức trọng, vinh hoa phú quý, tiền tài bảo vật cũng không thể kéo dài đời sống cũng không thể dùng lời lẽ, ăn uống cầu chúc để mong thoát khỏi tử thần. Sống chết là việc vô hình, không ai có thể lư lại được!

Kinh dạy rằng: “Chết là hếr”. Tắt hơi thở rồi, thần thức thoát ly, thân hình tan rã, nhơn vật như nhau, không ai sống mà không chết. Nhưng trong lúc bỏ thân mạng sống nầy, khổ não vô cùng. Sáu dòng bà con, nội ngoại, vây quanh khóc lóc. Người chết khi ấy sợ lắm; không biết nương nhờ ai.

Lúc hơi thở cuối cùng sắp tàn, người chết nhớ lại hết thảy việc thiện ác mình đã làm trong một đời qua; hành tướng quả báo sum la hiện ra trước mắt.

Người làm lành được thiên thần (thần trời) phù hộ. Người làm ác có ngưu đầu ngục tốt xua đuổi. Ngục tốt la sát hằng không khoan dung tha thứ. Từ thân, hiếu tử không thể cứu giúp; vợ chồng ân ái chỉ nhìn nhau, xem cái chết đến. Gío phong đao xẻ thân đau khổ không thể nói được.

Người chết lúc ấy ruột đau như dao cắt, bao nhiêu thống khổ đồng thời dồn dập; tinh thần hoảng hốt như điên như cuồng. Dầu muốn khởi tâm nghĩmột niệm hành làm một mảy phước, lễ Phật một lạy cũng không thể được. Lòng càng hối hận, khổ não như vậy, không ai chịu thế cho ai.

Kinh Niết Bàn dạy rằng: “Người chết ở nơi chốn hiểm nạn, không có lương thực; đường đi mờ mịt xa xăm lại không có bạn bè; ngày đêm đi mãi không biết về đâu, không có phương hướng; thâm thúy tối tăm, không có ánh sáng; vào vô gián địa ngục; đến rồi không thoát ra được. Sống không tu phước chết về chỗ khổ, sầu thảm cay chua, không thể liệu trị. Việc ấy không có hình sắc nên không thể biết trước mà lo sợ”.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã biết quả báo của sự sống chết như sợi giây xích, không có mối manh, không bao giờ cùng tận. Chết rồi thần hồn đi ngơ ngác, thui thủi một mình, không biết về đâu, không ai thất biết, không thể tìm kiếm, không thể ghi nhớ. Chỉ mỗi người tự nỗ lực siêng năng chịu khổ, chăm lo tu tập, thật hành lục độ, tứ vô lượng tâm v.v... để làm tư lương riêng về xứ sở. Chớ ỷ mình còn mạnh khỏe mà tự yên tâm. Phải nên hết lòng tha thiết, đảnh lễ quy y Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đa Văn Hải Phật

Nam mô Trì Hoa Phật

Nam mô Bất Tùy Thế Phật

Nam mô Hỷ Chúng Phật

Nam mô Khổng Tước Âm Phật

Nam mô Bất Thối Một Phật

Nam mô Đoạn Hữu Ái Cấu Phật

Nam mô Oai Nghi Tế Phật

Nam mô Vô Động Phật

Nam mô Chư Thiên Lưu Bố Phật

Nam mô Bảo Bộ Phật

Nam mô Hoa Thủ Phật

Nam mô Oai Đức Phật

Nam mô Phá Oán Tặc Phật

Nam mô Phú Đa văn Phật

Nam mô Diệu Quốc Phật

Nam mô Hoa Minh Phật

Nam mô Sư Tử Trí Phật

Nam mô Nguyệt Xuất Phật

Nam mô Diệt Ám Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo đồng gia tâm che chở nguyện cho Đại chúng đồng sám hối trong Đạo tràng từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, bao nhiêu tội nhơn, vô lượng khổ quả đều được đoạn trừ, phiền não kiết nghiệp hoàn toàn thanh tịnh. Thường được đích thân tham dự các hội thuyết của chư Phật; tu đạo Bồ tát, tự tại thọ sanh, tứ đẳng lục độ như pháp tu hành; tứ biện lục thông hoàn toàn đầy đủ, trăm ngàn tam muội, ứng niệm hiện tiền, các môn tổng trì đều hay chứng nhập, chóng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI SÁU

LỄ PHẬT THẾ NGƯỜI LÀM CÔNG QUẢ Ở CHÙA 

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam bảo, khởi tâm từ bi, không phân biệt oán thân; nguyện vì những người ngày nay chuyển thân trở lại vào chùa làm việc nấu ăn, gánh nước, bủa củi, tùy hỷ công đức, vận hết năng lực làm giúp công việc về phước nghiệp khó nhọc, nguyện khắp vì bà con quyến thuộc các người ấy, lại nguyện vỉ hết thảy những người hiện đời nầy bị lao ngục, ách nạn khốn khổ, giam cầm trói buộc và những người bị hành phạt khổ sở. Nghĩ thương các người ấy ở đời tuy được làm người, nhưng vui ít khổ nhiều, gông cùm xiềng xích chia thể lìa thân; hoặc là đời nay tạo ác, hoặc là đời trước tạo ác, nghiệp báo còn theo dõi, hoặc đáng được phóng thích rồi, nhưng không biết do đâu giãi bày, tội nặng bị xử tử, không người cứu.

Chúng con tên ... ngày nay do tâm từ bi nguyện vì các người ấy và quyến thuộc của các người ấy, mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thứ Đệ Hành Phật

Nam mô Phước Đức Đăng Phật

Nam mô Âm Thanh Trị Phật

Nam mô Kiều Đàm Phật

Nam mô Thế Lực Phật

Nam mô Thân Tâm Trú Phật

Nam mô Thiện Nguyệt Phật

Nam mô Giác Ý Hoa Phật

Nam mô Thượng Cát Phật

Nam mô Thiện Oai Đức Phật

Nam mô Trí Lực Đức Phật

Nam mô Thiện Đăng Phật

Nam mô Kiên Hạnh Phật

Nam mô Thiện Âm Phật

Nam mô An Lạc Phật

Nam mô Nhật Diện Phật

Nam mô Lạc Giải Thoát Phật

Nam mô Giới Minh Phật

Nam mô Trú Giới Phật

Nam mô Vô Cấu Phật

Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thyân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho những người “chấp lai phục dịch” (gánh nước hái củi), tùy hỷ công đứcquyến thuộc của các người ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ, hết thảy khổ não đều được giải thoát thọ mạng diên trường, thân tâm an lạc, hằng lìa tai ách, không có phiền não chướng ngại nữa, phát tâm đại thừa, tu bồ tát đạo, lục độ, tứ đẳng đều được hoàn toàn xả lý sanh tử, đồng được an vui Niết Bàn.

Lại nguyện trong thiên hạ những người bị hình phạt tù đầy, cầm cố trói trăn, ách nạn khốn khổ, những người tật bệnh, không được tự tại, và quyến thuộc của các người ấy, đều nhờ oai lực công đức của chúng con lễ Phật sám hối hôm nay mà được giải thoát khổ não, những nghiệp nhơn độc ác hoàn toàn đoạn trừ; ra khỏi lao ngục, vào thiện pháp môn; thọc mạng vô cùng, trí tuệ vô tận, thân tâm an lạc như ở đệ tam thiền; nhớ lao ngục khổ, tưởng báo ơn Phật; cải ác tùng thiện, phát tâm đại thừa, hành đạo Bồ tát, vào tâm kim cương, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh đồng thành Chánh giác thần lực tự tại.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BẢY

PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã phát tâm rồi, công việc sám hối đã xong. Thứ lại nên đem công đức nầy phát nguyện hồi hướng cho hết thảy chúng sanh. Vì sao vậy?

Vì hết thảy chúng sanh sở dĩ không được giải thoát đều do đắm trước quả báo, không thể xả bỏ. Nếu có chút thiện mảy phước mà hay hồi hướng được thì đối với quả báo không sanh tâm đắm trước, liền được giải thoát, thong thả tự tại.

Vì vậy nên trong kinh tán thán sự tu hành biết hồi hướng là việc đại lợi ích, cho nên Đại chúng bây giờ cũng phải phát nguyện hồi hướng và khuyến khích mọi người không nên đắm trước quả báo. Chúng con cùng nhau trước hết là chí tâm đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Kiên Xuất Phật

Nam mô An Xà Na Phật

Nam mô Tăng Ích Phật

Nam mô Hương Minh Phật

Nam mô Vi Lam Minh Phật

Nam mô Niệm Vương Phật

Nam mô Mật Bát Phật

Nam mô Vô Ngại Tướng Phật

Nam mô Tín Giới Phật

Nam mô Chí Diệu Đạo Phật

Nam mô Nhạo Thật Phật

Nam mô Minh Pháp Phật

Nam mô Cụ Oai Đức Phật

Nam mô Chí Tịch Diệt Phật

Nam mô Thượng Từ Phật

Nam mô Đại Từ Phật

Nam mô Cam Lồ Vương Phật

Nam mô Di Lâu Minh Phật

Nam mô Thánh Tán Phật

Nam mô Quảng Chiếu Phật

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bố Tát

Nam mô Phổ Hiền Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm phù hộ cho chúng con hết thảy hạnh nguyện đều được viên mãn

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng từ nay cho đến ngảy thành Phật tu Bồ tát đạo không thôi không nghỉ, trước độ chúng sanh, sau sẽ thành Phật.

Nếu trong lúc chưa đắc đạo, còn đọa sanh tử, xin nhờ nguyện lực nầy, khiến chúng con sanh ra nơi nào ba nghiệp thân, khẩu, ý đều được thanh tịnh, thường phát tâm nhu nhuyến, tâm điều hòa, tâm không buông lung, tâm tịch diệt, tâm chân thật, tâm không tạp loạn, tâm không tham lam,không keo rít, tâm đại thù thắng, tâm đại từ bi, tâm an trú, tâm hoan hỷ, tâm độ hết thảy chúng sanh, tâm giữ gìn bồ đề, tâm thề đồng như tâm chư Phật, phát những tâm nhiệm mầu thù thắng rộng lớn để chuyên cầu nghe, nhiều, tu định ly dục, lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh, nguyện không bỏ đạo Bồ đề, thành bậc Chánh giác.

PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG THẾ CHO CHÚNG SANH

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng chí thành đảnh lễ, quỳ gối chắp tay, tâm niệm miệng nói theo lời nầy.

- Mười phương chư Thiên chư Tiêncông đức hạnh nghiệp gì, chúng con nay xin hồi hướng thế, đồng quy Chánh giác đạo.

- Mười phương Long vương quỷ thầnthiện nghiệpthù thắng, chúng con nay xin hồi hướng thế, đồng quy nhất thừa đạo.

- Mười phương các Nhơn vương, có tu hạnh nghiệp gì về đạo bồ đề, chúng con nay xin hồi hướng thế, đồng quy y vô thượng đạo.

- Các loài chúng sanh trong lục đạomảy may thiện nghiệp gì, chúng con nay xin hồi hướng thế, đồng quy y vô thượng đạo.

- Mười phương đệ tử Phật, thiện lai chúng tỳ kheo vô trước tứ sa môn và những vì cầu Duyên giác thừa, ẩn hiện hóa chúng sanh, hiểu rõ pháp nhân duyên, như vậy và hết thảy đều hồi hướng Phật đạo.

- Mười phương chư Bồ tát, dọc tụng thọ trì kinh, nhập thiền, xuất thiền, khuyến hóa chúng sanh làm hết thảy điều phước thiện như vậy, hết thảy tam thừa Thánh chúng, có bao nhiêu cội phước đức, đều xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh đồng quy y vô thượng đạo.

- Các vị trên trời và dưới nhơn gian, tu thánh đạo có bao nhiêu công đức thiện nghiệp, nay chúng con khuyên hồi hướng vô thượng đạo.

- Những vị phát tâmsám hối, tự mìnhtu và khuyên người tu, dầu được mảy may phước như vi trần, cũng đem thí hết cho chúng sanh. Nếu chúng sanh không thành Phật, chúng con thề không bỏ bồ đề nguyện.

- Bao giờ chúng sanh thành Phật hết, chúng con mới chứng quả vô thượng bồ đề.

- Nguyện xin chư Phật chư Đại Bồ tát, vô lậu các thánh nhơn, đời nầy và đời sau, duy nguyện xin nhiếp thọ.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng cùng nhau chí tâm đảnh lễ Tam bảo, nguyện xin thay thế các vị quốc chủ và quyến thuộc của quốc chủ mà hồi hướng; nguyện xin thay thế cha mẹbà conhồi hướng.

- Nguyện xin thay thế Sư trưởng và chư vị đồng họchồi hướng.

- Nguyện xin thay thế các nhà tín thí đàn việt, thiện ác tri thứchồi hướng. Nguyện xin thay thế Hộ thế tứ Thiên vươnghồi hướng.

- Nguyện xin thay thế ma vương trong mười phươnghồi hướng.

- Nguyện xin thay thế các vị thông minh chánh trực, thiên địa hư không, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộhồi hướng.

- Nguyện xin thay thế các vị Linh kỳ, u hiểnhồi hướng.

- Nguyện xin hồi hướng thế cho mười phương tận hư không giới hết thảy chúng sanh.

- Nguyện xin chư Thiên, chư Tiên, long thần bát bộ, hết thảy chúng sanh, từ nay trở đi cho đến ngày chứng quả bồ đề, hằng thể hội được pháp môn vô tướng, không còn có tâm đắm trước quả báo nữa.

 

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ CHÍN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32606)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30312)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12587)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52117)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12527)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16117)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13735)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11962)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11189)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16127)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12515)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14863)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11908)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant