Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 13

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10324)
Phần 13


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 13)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Nguyện thứ tư, “Sám hối nghiệp chướng”

Trước tiên chúng ta phải nói rõ cái gì gọi là nghiệp chướng. Nghiệp là tạo tác, không những làm ác có chướng ngại mà làm thiện cũng có chướng ngại. Làm ác quả báo của bạn ở ba đường: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; nếu làm thiện, quả báo của bạn ở ba đường thiện: cõi trời, cõi người, cõi A Tu La. Tóm lại một câu, bạn không thể ra khỏi ba cõi, vậy chúng ta phải làm thế nào? Phật dạy chúng ta tu tịnh nghiệp, đoạn tất cả ác tu tất cả thiện, không chấp trước, đó chính là tịnh nghiệp. Chấp trước thì nghiệp này không tịnh, liền sanh chướng ngại, cho nên nghiệp là tạo tác. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện nói rất hay, chúng ta không thể không thừa nhận, kinh Phật nói: “chúng ta Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm đều là đang tạo tội”. Vì sao? Bạn thử nghĩ xem, có chúng sanh nào khởi tâm động niệm mà không vì “cái ta”. Ta chính là tội, ta chính là nghiệp. Mỗi niệm đều vì ta. Có lẽ đối với đồng tu mới học, nghe được cách nói này trên Phật kinh sẽ không cho là việc gì, từ xưa đến nay trong nước ngoài nước, có người nào mà chẳng vì cái “ta”. Dân gian Trung Quốc còn có câu ngạn ngữ: “Người không vì mình trời tru đất diệt”. Dường như khởi tâm động niệm vì ta được mọi người cho rằng đó là lý đương nhiên, không vì ta thì còn có thể được xem là người sao? Không sai! Không vì ta không được xem là người. Họ là Phật, là Bồ Tát, họ tuyệt đối không phải người. Cho nên khi vừa vì “ta” thì đó mới chân thật là người, người của sáu cõi không thể nào ra khỏi.

Vì sao Phật phải nói cách nói này, chúng ta phải hiểu rõ ý của ngài. Phật nói: “Tất cả chúng sanh thật có chân ngã”, cái thân này là giả, không phải chân ngã. Cái giả mới luân hồi trong sáu cõi, còn chân ngã thì nhất định không luân hồi. Không những không luân hồi sáu cõi mà ngay đến mười pháp giới cũng không có. Chân ngã ở nơi đâu? Chân ngã ở nơi pháp giới Nhất Chân. Trong đại kinh nói, Phật có ba thân, mỗi người chúng ta cũng đều có ba thân, bản thể của thân chúng tapháp thân. Cho nên kinh Phật nói “Mọi người tu hành tu đến trình độ tương đối liền chứng được pháp thân thanh tịnh”. Pháp thân thanh tịnh mới thật là ta. Thiền Tông thường nói “Bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”, cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra đó chính là pháp thân thanh tịnh, kinh Hoa Nghiêm gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật. Tỳ Lô Giá Na không phải là người, mà là chân ngã của chính chúng ta. Thân thật của chúng ta gọi là Tỳ Lô Giá Na.

Tỳ Lô Giá Na là tiếng Phạn, ý nghĩa của nó là “trùm khắp mọi nơi”, không lúc nào không có, không nơi nào không có. Nếu ngay nơi đây không có chân ngã thì cái thân giả này cũng không thể hiện tiền. Giả tướng nương vào chân ngã mà sanh ra. Cái ngã này là thể, là tánh. Nương vào tánh thể chân thậthiện tướng. Cho nên cái chân ngã nhất định có, bởi vì tất cả chúng sanh mê mất đi chân ngã mới biến thành phàm phu. Mê mất không phải thật đã mất đi mà đó chỉ là mê mất mà thôi, vì sao mê? Đem cái tướng giả này từ trong thể tánh chân thật hiện ra những giả tướng. Kinh Hoa Nghiêm nói: “duy tâm sở hiện”. Tâm đó là thật, chân tâm chính là chân ngã, pháp thân hiện ra giả tướng. Bạn chấp vào cái tướng, hư là hư ở chỗ này. Hiện ra giả tướng nhưng bạn không biết nó là giả tướng. Bạn chấp trước giả tướng và cho nó là thật, như vậy đồng nghĩa đem chân tánh bỏ đi, đem giả tướng xem thành thật. Bạn phân biệt, chấp trước nên mới đem nhất chân chuyển biến thành hoàn cảnh phức tạp, biến thành mười pháp giới, thành sáu cõi, thành ba đường, vì sao biến đổi? Duy thức sở biến. Kinh Hoa Nghiêm nói cụ thể: “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chính là thức”. Hiện tại chúng ta thảy đều có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên cái pháp giới Nhất Chân liền biến thành sáu cõi luân hồi.

Nếu ở trong ba loại, chúng ta chỉ đoạn một loại, bỏ chấp trước, tức là trong tất cả pháp thế gian pháp, xuất thế gian pháp, đích thực đều không có chấp trước, xin thưa với các vị, sẽ không có sáu cõi. Sáu cõi chính là chấp trước biến hiện ra. Chấp trước không còn, bạn liền siêu việt sáu cõi. Vì bạn còn có tâm phân biệt quan hệ nặng nhẹ cho nên còn có pháp giới bốn thánh “Thanh Văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật”. Tâm phân biệt của bạn rất nặng thì bạn là Thanh Văn, Duyên Giác; tâm phân biệt của bạn rất nhẹ thì bạn là pháp giới Bồ tát, Phật. Mười pháp giới do đây mà ra. Khi phân biệt không còn thì siêu việt luôn mười pháp giới, bạn mới có thể “Phản bổn hoàn nguyên. Phản phác qui chân”. Chỗ này gọi là vào pháp giới Nhất Chân.

Trong pháp giới Nhất Chân, vị thứ của Bồ tát cũng không đồng nhau. Kinh Hoa Nghiêm nói, 41 vị pháp thân đại sĩ, Phật, Bồ Tát, có trình độ cao thấp được chia thành 41 đẳng cấp. 41 đẳng cấp này từ đâu mà ra? Từ vọng tưởng. Người trong pháp giới Nhất Chân còn có vọng tưởng, thế nhưng các vị phải biết, họ không có phân biệt, không có chấp trước, và vọng tưởng tương đối nhẹ. Vọng tưởng cũng gọi là vô minh. Nếu đoạn hết vô minh, đoạn hết 41 phẩm vô minh, bạn liền chứng được quả vị cứu cánh viên mãn, cái chân ngã của chính mình hoàn toàn hồi phục viên mãn, “bổn lai diện mục hiện tiền viên mãn”, đó chính là Phật quả viên giáo. Đến chỗ này chúng ta mới nghĩ đến hai câu nói trên kinh Lăng Nghiêm: “Viên Mãn Bồ Đề, Qui Vô Sở Đắc”. “Viên mãn Bồ Đề” là hồi phục bổn lai diện mục của chính mình, tuyệt nhiên không một chút gì bạn mới có được.

Do đó, Phật nói với chúng taKhởi tâm động niệm có một chữ ‘ta’”. “Ta” chính là chấp trước kiên cố, chỉ cần có loại chấp trước này thì bạn không thể ra khỏi ba cõi cũng không ra khỏi luân hồi. Cho nên đó là tội, là ác. Có “ta” chính là tội, chính là ác. Huống hồ tất cả chúng sanh còn có chấp trước nghiêm trọng cái “của ta”, như vậy mê đã quá nặng. Bạn chấp trước thân này là ta thì đã đủ phiền não rồi, huống hồ thêm chấp trước cái “của ta”, chẳng hạn cái nhà của tôi, tiền của tôi, quyến thuộc của tôi…, khi xuất gia thì đạo tràng của tôi, như vậy đáng lo không? Thân này kéo theo một đống to sở hữu thì làm sao có thể ra được ba cõi? Phật A Di Đàtừ bi muốn kéo bạn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không kéo nổi vì những thứ bạn kéo phía sau quá nặng.

Cho nên Phật dạy chúng ta nên xả: phải buông bỏ, phải bố thí, phải xả. Trước tiên, xả hết cái ta sở hữu, xả vật ở ngoài thân. Sau đó xả hết chấp trước. Bạn ở trên đạo Bồ đề liền không có chướng ngại. Do đó “Khởi tâm động niệm đều đang tạo tội”, đạo lý chính chỗ này, ngàn vạn lần không nên bị những thứ huyễn tướng này lừa gạt. Bạn có thể thấy tường tận thấu đáo chân tướng sự thật, đó gọi là nhìn thấu. Thế nhưng, phàm phu chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp bị mê ngay trong những giả tướng, chúng ta phải luân hồi sáu cõi với số lần không thể tính điếm, cho nên tập khí vô cùng sâu, phiền não nhiều đời nhiều kiếp mang đến, nghiệp chướng nặng. Do đó Phật dạy chúng ta phải tu pháp sám hối, tiêu trừ nghiệp chướng.

Bản thân phiền nãochướng ngại, chướng ngại Niết Bàn, đó là phiền não chướng. Sở tri cũng là chướng ngại, chướng ngại Bồ Đề. Niết Bàn là tiếng Phạn, ý nghĩa bất sanh bất diệt. Chúng ta vốn dĩ không sanh không diệt, thế nhưng hiện tại có sanh có diệt, vì bạn có thứ làm chướng ngại bất sanh bất diệt của Niết Bàn, cho nên bất sanh bất diệt biến thành sanh diệt, vô cùng bất hạnh. Tất cả phàm phusanh diệt, có sanh tử nên họ có phiền não. Khi đoạn hết phiền não thì sanh diệt không còn. Nói cách khác, không còn sanh tử nữa, trở lại với vốn dĩ không sanh không tử.

Sở tri chướngkiến giải làm chướng ngại cho trí tuệ Bát Nhã đầy đủ trong tự tánh của bạn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai”. Đức tướng chính là Đại Niết Bàn, không sanh không diệt. Chúng tatư tưởng, có kiến giải thì trí tuệ Bát Nhã của chúng ta không còn. Nó bị chướng ngại mất, bị vặn cong biến chất thành tà tri tà kiến. Tư tưởng kiến giải hoàn toàn trái ngược với chân tướng sự thật bởi vì nó có thị phi nhân ngã, có tham sân si mạn, làm cho đức tướng biến thành sanh tử luân hồi, biến thành tướng chúng sanh của mười pháp giới. Sự thật này nếu không phải Thế Tôn xuất thế thì không ai biết được. Tất cả các nhà tôn giáo, nhà triết học, nhà khoa học thế gian đều không cách gì nói rõ chân tướng sự thật này. Cho nên Thế Tôn xuất hiệnthế gian đem chân tướng của vũ trụ nhân sanh vì chúng ta nói rõ.

Vậy làm thế nào để hồi phục lại bổn lại diện mục của chúng ta? Làm thế nào hồi phục trí tuệ đức tướng của chúng ta viên mãn? Học Phật quan trọng nhất với hạnh Phổ Hiềnphương pháp tu hành cứu cánh viên mãn. Dùng lời hiện tại mà nói, ngài nêu ra mười cương lĩnh đối với phương pháp sinh hoạt của chúng ta, tu lễ kính đối với tất cả chúng sanh, với người với việc với vật phải có tâm thành kính và giữ lễ; phải biết tán thán, phàm hễ tương ưng với tánh đức, chúng ta phải tán thán, không tương ưng với tánh đức thì không tán thán, 53 vị đồng tham ở trong Hoa Nghiêmthí dụ rõ ràng. Thứ ba là “Quảng tu cúng dường”, điều này nếu chỉ giảng hai giờ đồng hồ chắc chắn không đủ. Kinh Hoa Nghiêm, chương hồi hướng thứ sáu giảng về tài thí, pháp thí, vô uý thí, tôi giảng mất một năm thì làm sao có thể giả. Vì chúng ta không thật hiểu, ngày ngày đọc kinh lướt qua cho nên tu hành không biết phải bắt đầu từ đâu, cứ cho rằng mình tu không tệ, nhưng trên thực tế cách rất xa so với tiêu chuẩn Phật đã nói.

Nghiệp chướng tập khí của chúng ta quá nặng, chính mình phải thừa nhận, phải khẳng định thì mới có thể thay đổi. Thay đổi thành công, công đức sẽ rất thù thắng, thánh nhân thế gian chúng ta thường nói “Con người không phải thánh hiền thì làm gì không lỗi”. Có lỗi mà biết sửa thì lo gì không tốt, chư Phật Bồ tát đều tán thán, vì sao? Vì bản thân chư Phật Bồ tát trước khi thành Phật cũng có cả vô số lỗi lầm, tuy nhiên các ngài có thể thay đổi trở thành Phật Bồ tát, được các cổ Phật trước đó tán thán. Ngày nay chúng ta cũng có thể thay đổi tự làm mới, đoạn ác tu thiện, tất cả chư Phật Bồ Tát đều sẽ tán thán chúng ta. Thay đổi trước tiên ở khoá mục tu hành.

Sám hối. Sám là tiếng Phạn, dịch âm là “sám ma”, người Trung Quốc thích đơn giản nên bỏ âm đuôi, chỉ dùng một âm “sám”. Văn tự Trung Quốc có một từ gần nghĩa với chữ này là “hối”, có nghĩa hối hận. Cho nên pháp sư dịch kinh liền đem hai chữ này hợp lại gọi là “sám hối”, danh từ này được kinh Phật gọi là Phạn Hoa hợp dịch, chữ trước tiếng Phạn, chữ sau tiếng Trung Quốc. Ý nghĩa của chữ sám là chính mình gây lỗi lầm nhưng có dũng khí nói với mọi người. Còn ý nghĩa chữ hối của Trung Quốc là về sau sẽ không tái phạm lỗi lầm, cũng như nhà Nho đã nói “bất quá nhị”, lỗi chỉ một lần, không có lần thứ hai, nếu có lần thứ hai thì phải sửa đổi, và tự làm mới, đây gọi là chân thật sám hối.

Ngày nay, rất nhiều đồng tu học Phật nghe đến danh từ “Phổ Hiền hạnh nguyện”, hay “Sám trừ nghiệp chướng” thì liền nghĩ đến việc lạy Lương Hoàng Sám, lạy Thủy Sám, mở đàn Thủy Lục, hoặc có người ở nhà lạy Đại Bi sám, Tịnh Độ sám, Hoa Nghiêm sám, Pháp Hoa sám,.v.v… Như vậy tội của bạn có thể sám trừ hết hay không? Giả như vừa lạy Lương Hoàng Sám, tội liền được sám trừ, vậy thì rất hữu hiệu. Nhưng nếu sau khi lạy vẫn không thể sám trừ, thì bạn liền biết có vấn đề. Vấn đề không phải sai ở phương pháp, Lương Hoàng Sám, Thủy Sám, tất cả những sám nghi đều không sai vì đều do các bậc tổ sư đại đức xưa căn cứ kinh giáobiên soạn ra, đó đều là tinh hoa trong kinh giáo thì làm sao sai được. Sai ở chỗ chúng ta không hiểu ý pháp, chỉ đem sám nghi chiếu theo rồi đọc lướt. Người xưa nói “Đau mồm rất họng chỉ uổng công”, một mặt ta tụng còn một mặt dập đầu. Mỗi ngày có dập một vạn cái giống như giã gạo cũng không thay đổi, không hữu dụng. Vậy phải sám như thế nào? “Tùy văn nhập quán”, tùy theo kinh văn, thay đổi tư tưởng sai lầm của bạn, đó mới là chân thật sám hối. Người xưa nói, sám trừ nghiệp chướng có ba loại.

Loại thứ nhất là “Phục nghiệp sám”. Chúng ta có thể đè tội nghiệp của mình xuống, việc này tương đối dễ dàng. Thực tế mà nói, ngày nay chúng ta niệm câu Phật hiệu, trì danh niệm Phật, mỗi câu mỗi chữ đều là phục nghiệp sám. Nếu lấy giáo nghĩa để giảng thì tất cả pháp môn đều là sám hối môn. Hai chữ “sám hối” hàm nhiếp tất cả pháp môn tu học của Phật pháp, chỉ khác nhau ở phương thức sám hối, còn phương hướng, nguyên lý, nguyên tắc đều giống nhau. Chúng ta đều dùng “niệm Phật” để tu pháp sám hối. Bồ tát Đại Thế Chí dạy chúng ta phương pháp niệm Phậtnhiếp hết sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Bạn niệm câu Phật hiệu thì công phu liền tiến bộ, liền có thể hàng phục được nghiệp chướng của chính mình. Sau khi hàng phục thì đới nghiệp vãng sanh. Nếu không thể hàng phục được nghiệp chướng thì dù bạn niệm câu Phật hiệu cũng không thể vãng sanh, người xưa gọi là “Một ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, đau mồm rát họng chỉ uổng công”, không thể vãng sanh. Vì sao? Bạn không thể hàng phục được phiền não. Ta ngày ngày tạo nghiệp, nghiệp quá khứ tạo có thể mang đi, nghiệp hiện tại tạo không thể mang đi, phải hiểu được đạo lý này.

Công phu Phật hiệu của bạn nếu có thể hàng phục được phiền não, pháp môn niệm Phật của chúng ta gọi là “công phu thành khối”. Phiền não chưa đoạn, nó không khởi tác dụng. Phiền não vì sao khởi lên? thấy việc vừa lòng, khởi lên tham ái, tâm tham khởi. Lúc đó “A Di Đà Phật!”, làm cho tâm tham bị đè xuống, “A Di Đà Phật” tâm tham lại bị đè xuống nữa, gọi là công phu. Hoặc gặp phải những việc không vừa mắt, phiền não liền khởi lên, tâm sân hận khởi, thì “A Di Đà Phật!” lại đè tâm sân hận xuống, cứ thế “A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!”, luôn đè nó xuống, quyết không để nó khởi tác dụng. Đây gọi là niệm Phật. Niệm Phật không phải xướng ca, hát cho Phật A Di Đà nghe. Ngay khi trong tâm bạn một niệm không sanh thì có thể không cần niệm Phật vì lúc đó tâm của bạn thanh tịnh. Còn tâm vừa mới động thì nên vội vàng niệm A Di Đà Phật, làm cho phiền não tập khí của bạn, “hỉ nộ ai lạc ái ố dục” thảy đều đè xuống, không để nó khởi tác dụng, đây chính là phương pháp sám trừ nghiệp chướng hàng phục phiền não.

Tịnh Tông chúng ta pháp môn nào cũng vậy, nhà Phật thường nói “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm là phiền não khởi hiện hành, nhưng vì sao không sợ? Bạn nhất định sẽ khởi hiện hành, vì nếu không khởi thì bạn chính là Phật Bồ tát tái lai. Đã là phàm phu nhất định sẽ khởi hiện hành, vấn đề ở chỗ giác nhanh hay chậm. Giác rồi thì đối trị mê, cái giác này là đại biểu pháp môn công phu tiến bộ của chúng ta. Giác chính là câu Phật hiệu đề khởi làm cho phiền não bị chế phục. Mọi người phải biết niệm, công phu này dùng lâu sẽ sanh ra sức mạnh, liền được Nhất Tâm Bất Loạn.

Nhất Tâm Bất Loạn công phu sâu cạn cao thấp rất nhiều, không chỉ Lý Nhất Tâm, Sự Nhất Tâm. Nếu nói Sự nhất tâm bất loạn thì Tiểu thừa Tứ quả Tứ hướng đều thuộc về Sự Nhất Tâm Bất Loạn, như vậy Sự Nhất Tâm Bất Loạn chí ít có đến tám đẳng cấp vì Tứ quả Tứ hướng có tám đẳng cấp. Còn nếu nói theo Viên giáo Bồ Tát, Sự nhất tâm đó chính là Bồ Tát Thập Tín Vị, từ sơ phát tâm đến thập tín có đến mười đẳng cấp, công phu sâu cạn khác biệt không như nhau. Như vậy Lý nhất tâm đẳng cấp càng cao hơn vì Lý nhất tâm là 41 vị pháp thân Đại sĩ. Nói cách khác, Lý nhất tâm có 41 đẳng cấp trình độ cạn sâu không đồng nhau, đồng thời chứng được Lý Nhất Tâm Bất Loạn. Bồ Tát Sơ trụ, Bồ Táttín vị, Bồ Tát thất tín vị, đồng thời chứng Sự Nhất tâm bất loạn cũng không như nhau. Do đây có thể biết, công phu thành khối của mỗi người chúng ta cũng sẽ cạn sâu không đồng nhau. Cho nên trong cõi phàm thánh đồng cư có ba bậc chín phẩm, nếu bạn không làm đến được trình độ như vậy thì bạn không thể vãng sanh, đó là việc chúng ta không thể không biết.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11246)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11974)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9851)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11997)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15177)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12323)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11998)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10504)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12465)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13043)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14692)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12557)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19473)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13017)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11722)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13404)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11517)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12659)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12519)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15546)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13500)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11050)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12119)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11379)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14145)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14061)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10586)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant