Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 15

Friday, January 9, 201511:49(View: 11021)
Phần 15


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 15)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Thứ tư, nếu chúng ta tạo tội nghiệp từ thân khẩu ý đồng nghĩa tạo mười ác nghiệp, thân tạo sát đạo dâm; miệng thì vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tâm thì tham sân si mạn. Vậy bạn phải nỗ lực cầu sám hối, việc sám hối này là phát lồ sám hối. Chúng ta không có dũng khí phát lồ sám hối trong đại chúng thì chí ít cũng phải ở trước mặt Phật Bồ Tát phát lồ sám hối. Một số người đến trước mặt Phật Bồ Tát thầm lặng sám hối, thấy miệng của họ động đậy, người ngoài không thể nghe được câu nào, e rằng Phật Bồ Tát cũng không nghe thấy. Phật dạy chúng ta phát lồ sám hối là phải nói ra, không nên che giấu. Do đây có thể biết loại sám hối này là rất muốn sám hối, còn ngượng ngùng, xấu hổ thì nghiệp chướng không thể sám trừ. Trước mặt Phật Bồ Tát, bạn còn không chịu phát lồ, không chịu lớn tiếng nói ra thì có thể thấy được ý nguyện của bạn không chân thành. Chân thật sám hối thì không những trước mặt Phật Bồ Tát mà còn phát lồ sám hối trước mặt thiện tri thức thông thường.

Thứ năm, Phật nói, tuy bạn không làm nhiều việc ác, nhưng tâm của bạn ác. Ác tâm đó đã trùm khắp, bạn không thể làm ác vì duyên chưa chín muồi. Nếu duyên chín muồi thì việc ác của bạn cũng trùm khắp. Thực tế tạo ác cũng phải có phước báu, không có phước báu thì chỉ có thể làm ác nhỏ, không thể làm được việc ác lớn. Người phước báu lớn mới có thể làm được đại ác. Họ có thể tùy tâm muốn làm gì thì làm, còn người không có phước báu, muốn làm đại ác cũng không làm được, chỉ có thể làm chút ác nhỏ. Tuy là ác nhỏ nhưng tâm ác của họ có thể không nhỏ, việc này cần phải ghi nhớ.

Thứ sáu, “ý niệm làm ác tiếp nối không ngừng”. Ban ngày tạo ác, buổi tối nằm mộng vẫn là đang tạo ác, nên gọi “Ngày nghĩ việc gì, đêm mộng việc đó”, vô cùng đáng sợ. Kinh Phật nói những sự việc này đều là hiện tượng ác hạnh thông thường của chúng ta hiện tại.

Thứ bảy, “che giấu, tránh né lỗi lầm của chính mình”. Chính mình tạo tác tất cả lỗi lầm nhưng lại đẩy trách nhiệm cho người khác, việc ác này khá nặng. Mình tạo tác thì mình phải dũng cảm gánh vác, mạnh dạn nhận lỗi, như vậy cái lỗi của bạn mới có thể sám trừ. Nếu che giấu, ngụy trang thì tội sẽ càng thêm nặng. Phật dạy chúng ta phải tích âm đức, nghĩa là làm việc tốt không nên để người biết. Phải che giấu thì phước đức của bạn càng tích càng dầy, quả báo tương lai sẽ thù thắng. Còn tội nghiệp thì không nên che giấu, cho dù tạo nhiều hay ít đều phải để người khác biết, biết để làm gì? Người này mắng bạn một câu, người kia trách bạn một tiếng, quả báo của bạn liền được trả hết. Mình tạo vô số ác nghiệp phải mau báo hết, còn tích những thiện thì không nên để người biết. Hiện tại người thông thường thật điên đảo, họ tạo ra việc ác nhưng không muốn người khác biết, còn chỉ làm một chút thiện là đã muốn đem nó tuyên dương thành đại thiện để mọi người xem trọng, tán thán. Như vậy, thiện đã sài hết mà ác vẫn ém để đó chưa động, đợi đến khi Diêm La Vương tính sổ một lần. Đó là người ngu si. Cho nên Phật dạy chúng ta chân thậtđạo lý.

Thứ tám, hiện tại thông thường chúng ta nói “ngoan cố, cố chấp, ngang ngược, tàn ác” là những người không thể nghe khuyên răn của người khác, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều xung đột với người, ưa thích đối kháng, hiếu thắng bồng bột, không chịu thiệt, tranh hơn thua, tất cả đó cũng là tập khí, là tâm bệnh lớn. Phật có giảng cho họ nghe những đạo lý nhân quả báo ứng, họ cũng không tin tưởng. Khi tôi ba mươi tuổi bắt đầu học Phật, lúc đó vừa mới xuất gia không bao lâu, một hôm tôi nghe một số lão pháp sư lớn tuổi hơn tôi đang nói chuyện, tôi cũng đến ngồi bên cạnh, nghe xong tôi toát mồ hôi lạnh. Họ đã hỏi nhau: “Nhân quả mà kinh Phật nói, ông có tin không?” Tôi nghe bàng hoàng, họ là người xuất gia, bình thường cũng giảng nhân quả báo ứng cho cư sĩ nghe, thế nhưng chính họ lại không tin, chẳng trách lão sư Lý ngày trước đã nói một câu ngạn ngữ: “Hòa thượng sợ cư sĩ, cư sĩ sợ nhân quả, nhân quả sợ hòa thượng”, tuy là lời nói đùa nhưng đạo lý rất sâu rộng.

Cho nên vào thời kỳ mạt pháp, bạn thấy học Phật thành tựu, chẳng hạn trong Vãng Sanh truyện cho thấy người xuất gia vãng sanh ít, người tại gia vãng sanh nhiều. Người tại gia vãng sanh tướng lạ, rất hi hữu. Khoảng ba mươi năm gần đây, Đài Loan đã có người đứng vãng sanh, đó là nữ cư sĩ tại gia. Còn trường hợp ngồi vãng sanh thì càng nhiều. Họ dự biết giờ đi, không có bệnh khổ. Thế nhưng mấy mươi năm qua tại Đài Loan không thấy có một người xuất gia nào vãng sanh tướng lạ như trên, ngồi cũng không có người nào huống hồ đứng vãng sanh. Lời của Lý lão sư nói thật không sai. Chúng ta tỉ mỉ quan sát, người xuất gia, thân xuất nhưng tâm không xuất, trong lòng còn chấp trước hơn so với người tại gia. Họ chỉ xuất ra từ căn nhà nhỏ của họ nhưng tìm đến một ngôi chùa lớn, lớn hơn nhiều so với căn nhà xưa cũ. Quyến thuộc nhiều hơn, tiền của cũng nhiều hơn, dẫn đến tăng thêm tham sân si mạn, tạo vô lượng tội nghiệp. Đối với những sự việc này, chúng ta đều phải cảnh giác cao độ, đó không phải việc tốt, rất đáng sợ, sợ chính mình ngay một đời này đọa lạc vào ba đường.

Thứ chín, “Vô Tàm vô Quý, Bất Cụ Phạm Thánh”. “Tàm” là lương tâm bị dày dò, bản thân làm sai việc gì trong lòng không an gọi là tàm. “Quý” là phê bình của người khác. Không sợ phê bình của người khác chính là không sợ dư luận. Con người như thế không nể trọng Phật Bồ tát. Nếu chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ nhiều lần sẽ thấy kinh nói, nhân số của thế giới Tây Phương Cực Lạcvô lượng vô biên, không ai có thể tính đếm được. Kinh Phật nêu ra một thí dụ, ngay trong hàng đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật, năng lực thần thông mạnh nhất như tôn giả Mục Kiền Liên có thể dùng trí tuệ thông minh trong một ngày đêm tính đếm số lượng tinh cầuđại thiên thế giới, trong mỗi tinh cầu có bao nhiêu chúng sanh, ngài có thể tính ra được, nhưng Phật nói “Giả như tất cả chúng sanh đều chứng được quả vị Bích Chi Phật, thần thông đạo lực như ngài Mục Kiền Liên cùng nhau để tính số người của thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng không thể tính được”. Thế giới Tây Phương Cực Lạc phồn hoa, náo nhiệt, tốt hơn nhiều so với chúng ta nơi đây. Phật lại nói, người ở cõi đó cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh cõi phàm thánh đồng cư thì trí tuệ năng lực của họ thảy đều hồi phục gần giống như Phật. Họ có thể thấy được mười phương thế giới tất cả chúng sanh. Chúng ta không thể thấy họ nhưng họ có thể thấy chúng ta. Chúng ta ở đây nói nhỏ, đối phương còn nghe chưa rõ ràng, nhưng ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thảy đều nghe được chúng ta, bạn làm sao có thể giấu được? Ở nơi đây chúng ta khởi tâm động niệm, họ thảy đều biết vì họ có tha tâm thông. Chúng ta thường cho rằng, làm một số việc xấu sẽ không ai biết, có thể giấu được người. Đúng! Bạn có thể giấu được năm mươi ức người của thế giới này nhưng với thế giới Tây Phương, vô lượng vô biên hàng Bồ tát, bạn không thể giấu một vị nào.

Nếu bạn chân thật tin tưởng, chân thật thấu hiểu, thì bạn sẽ không dám khởi một niệm ác vì khởi một niệm ác, Phật Bồ tát đều biết, thế giới Tây Phương Cực Lạc người người đều biết. Nếu bạn muốn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, Phật A Di Đà đại từ đại bi có kéo bạn lên đó thì người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng mỗi mỗi đều trợn mắt nhìn: “Làm sao ông có thể đến đây? Là một người ác, ông đến đây chẳng phải phá hoại hoàn cảnh của chúng tôi sao?”. Điều kiện của thế giới Tây Phương Cực Lạc là “Các bậc thượng thiện đều ở một nơi”. Chúng ta phải tu thượng thiện, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm không nên tạo ác, nhất định phải biết, không luận chúng ta ở lúc nào, nơi nào, Phật Bồ tát của thế giới Cực Lạc thảy đều xem thấy. Đây là thật, không phải giả. Không những không dám làm việc xấu, không ác khẩu, không vọng ngữ mà ngay cả trong ý niệm cũng không có dù chỉ một niệm ác, lúc đó chúng ta mới có thể vỗ ngực nhất định vãng sanh.

Hai hôm trước, có một vị cư sĩ ở Hoa Kỳ cũng là một lão đồng tu chúng ta, ông bị bệnh gọi điện thoại cho tôi. Câu thứ nhất ông hỏi: “Tôi liệu có bị đọa địa ngục không?” Tôi liền thành thật trả lời: “Ông có bị đọa địa ngục hay không tôi không biết, việc này ông phải hỏi chính mình”. Chính bạn niệm Phật tu thiện thì làm sao có thể đọa địa ngục. Nếu niệm Phật mà còn tạo nghiệp mới không thể tránh khỏi. Tôi liền khuyên ông đọc nhiều lần Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo kinh, vừa đọc vừa nghĩ lại xem mình đã tạo ra những nghiệp gì. Nếu bạn tạo tội nghiệp cực trọng địa ngục thì chỉ cần hơi thở của bạn chưa dứt là vẫn có thể cứu, bằng cách nào? Sám hối. Cầu vãng sanh phải chân thật sám hối, phải từ nội tâmsám hối, về sau không tái tạo. Khi đó bạn có thể không đọa ba đường, có thể mang nghiệp vãng sanh. Những thí dụ như vậy đều có trong kinh.

Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng sanh truyện có nêu, người tạo tội nghiệp cực trọng khi chân thật hồi đầu, chân thật sám hối đều có thể vãng sanh. Nếu bạn không tin tưởng, tiếp tục tạo tác, vậy không còn cách nào, còn chân thật hồi đầu giác ngộ, sau không tái tạo thì đều được cứu. Phật Bồ tát đại từ đại bi không hề nhớ lỗi lầm của chúng sanh, ngay Đại sư Huệ Năng cũng nói “Người chân chính tu hành không thấy lỗi người khác”, Phật Bồ Tát làm sao nhớ lấy lỗi lầm của chúng sanh được. Vấn đề là chính mình tạo ra tội nghiệp lại sợ tánh tội, cho nên nhất định phải tự nỗ lực sám hối.

Thứ mười, “không tin nhân quả báo ứng”. Người chân thật tin tưởng nhân quả báo ứng biết tự kiểm điểm khi khởi tâm động niệm, lời nói việc làm. Biết được quả báo đáng sợ nên quyết không dám thưởng thức. Chúng ta cả đời may mắn gặp được Phật pháp mới hiểu rõ đạo lý này. Khi chưa gặp Phật pháp, những tội nghiệp chúng ta thường tạo trong đời quá khứ tuy chúng ta không có túc mạng thông nhưng vẫn không thể tránh khỏi. Khi chưa gặp Phật pháp, Phật nói những tội nghiệp này tôi đều đã làm qua, đến sau khi học Phật mới hiểu rõ. Thời gian kháng chiến năm đó tôi mười mấy tuổi, đã tạo nghiệp sát rất nặng, ham thích săn bắn, cho nên nhiều tướng số đoán mạng cho tôi nói tôi đoản mạng, tôi tin tưởng, vì sao? Vì nghiệp sát quá nặng làm sao không đoản mạng. Ngay đời này đời sống rất khổ cực không thể đoàn tụ với người nhà, tôi cũng tin tưởng. Do nghiệp báo tôi sát sanh làm cho cả nhà chim thú không được đoàn viên thì tôi phải chịu quả báo này. Tạo nhân gì thì phải nhận lại quả đó, việc này không thể tránh được. Sau khi chân thật hiểu, Phật Bồ tát đã cứu chúng ta thấu hiểu chân tướng sự thật và thay đổi tự làm mới, không còn vì chính mình mà vì Phật pháp, vì chúng sanh. Lại gặp được pháp môn Tịnh Độ, một đời viên mãn, chúng ta xác định một con đường làm thế nào để báo ân Phật, báo ân chúng sanh, đền trả những lỗi lầm trước đây đã giết hại chúng sanh. Chỉ có hoằng dương Phật pháp, đem pháp môn thù thắng giới thiệu cho mọi người, mọi người niệm Phật tương lai đều vãng sanh Tịnh Độ, đều thành Phật, tội nghiệp này của chúng ta mới có thể được tiêu trừ.

Ngày nay, sám hối nghiệp chướng là mấu chốt vô cùng quan trọng. Mấy năm gần đây, rất nhiều đồng tu đón nhận thông tin từ báo chí truyền hình, nhiều nơi trên toàn thế giới tai nạn phổ biến, mỗi năm một phức tạp hơn, năm sau nghiêm trọng hơn năm trước. Singapore tuy là đất phước cũng không thể không bị ảnh hưởng, đó là việc mà mỗi người chúng ta đều quan tâm. Làm thế nào mới có thể tiêu tai giải nạn? Tôi tin tưởng không chỉ đồng tu học Phật đều đang quan tâm lo lắng, muốn tìm phương pháphiệu quả để tiêu tai giải nạn, đón kiết hoá hung, mà tín đồ các tôn giáo khác cũng đang lo lắng như vậy. Thậm chí những người nổi tiếng hoặc những người không tín ngưỡng tôn giáo khi thấy các tai biến, trong lòng đều không an ổn. Đây là vấn đề của ngày nay, hơn nữa còn là vấn đề trọng đại của xã hội. Vậy chúng taphương pháp gì không? Giúp chúng ta tiêu tai khỏi nạn chỉ có đáp án trên kinh Phật mới có thể khẳng định được. Nhất địnhphương pháp hơn nữa còn hiệu quả, nhưng chúng tatin tưởng hay không, có chịu tiếp nhận hay không?

Những tai biến này do đâu mà đến? Nguyên nhân rất phức tạp, kinh Đại Thừa Phật thường nói “vô lượng nhân duyên”, không phải nhân duyên nhỏ, không phải nhân duyên đơn giản mà là nhân duyên phức tạp tạo thành hiện tượng ngày nay của chúng ta. Hiện tượngquả báo, có nhân ắt có quả. Kinh Phật nói rõ cội gốc của vũ trụ nhân sinh. Trong thái không này có rất nhiều tinh cầu, nó làm thế nào sanh ra? làm thế nào những tinh cầu này vận hành trong thiên không một cách có qui tắc, không hề va chạm lẫn nhau? Còn sinh mạng từ nơi đâu mà đến? Vì sao có sinh mạng? Vì sao có những hoàn cảnh đời sống hiện tiền của chúng ta?. Không đọc kinh Phật thì không thể nào tường tận những chân tướng sự thật này. Có không ít chuyên gia học giả thế gian, nhà triết học, nhà khoa học, các nhà tôn giáo đều đang thăm dò, tìm kiếm đáp án chân thật chính xác. Thế nhưng từ mấy ngàn năm khi nhân loại bắt đầu nền văn minh lịch sự đến ngày nay cũng chưa tìm ra. Rất nhiều lý luận nhưng không có gì đúng. Chúng ta nghe nhưng lại không thể tâm phục khẩu phục. Khi quay đầu lại nghe Phật mới thấy đích thực có đạo lý.

Tường tận nhất, thấu triệt nhất chính là trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Bộ kinh này rất dài, sau khi đọc dù không hiểu triệt để chúng ta cũng có thể biết đại khái, liền biết được phải làm người như thế nào, phải tu hành ra sao, làm thế nào đón kiết hoá hung tiêu tai khỏi nạn, trải qua đời sống hạnh phúc chân thật mỹ mãn. Mong cầu của chúng ta nơi cửa Phật đích thực có thể đạt được đầy đủ. Phật nói, lý do của mười pháp giới y chánh trang nghiêm chính là khởi nguồn của vũ trụ. Vũ trụ cùng sinh mạng đồng thời mà có, không trước không sau. Có sinh mạng thì có vũ trụ, có vũ trụ thì có sinh mạng. Sinh mạng cùng vũ trụ không thể phân hai. Phật nói rõ nguyên lý căn bản trong kinh Hoa Nghiêm: “Tất cả pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, tâm là gì? Không người nào biết.

Chúng ta vừa nhắc đến tâm, mọi người lập tức liền nghĩ, chỗ này là tâm, chỗ kia là tâm, cái tâm này không dùng được, cái tâm kia không thể biến đổi, hoặc tâm chỉ có thể sanh ra chướng ngại, không có gì tốt cả. Đại đức xưa của thiền tông nói rất hay “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ”, người nào chân thật nhận được cái tâm thì “đại địa vô thốn thổ” thảy đều được giải quyết. Do đây có thể biết mong cầu của cả Phật pháp chính là cầu được “Minh tâm kiến tánh”. Minh có nghĩa minh bạch. Ngày nay chúng ta không minh bạch, nếu tâm minh bạch, tánh liền thấy được. Tánh là thể của tâm, tâm là dụng của tánh. Chân tâm có thể, có dụng. Từ trên thể, chúng ta gọi nó là tánh, bổn tánh. Từ trên dụng, chúng ta gọi nó là tâm. Tác dụng nếu cùng với thể tương ưng thì cái tác dụng này gọi là chân tâm, trái ngược với thể thì chúng ta gọi là vọng tâm. Chân tâm khởi tác dụng, cảnh giới đó liền thù thắng, cho nên mới nói chư Phật Bồ Tátpháp giới nhất chân.

Kinh Hoa Nghiêm nói “thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ Lô Giá Na”, kinh Vô Lượng Thọ nói “thế giới Tây Phương Cực Lạc”, đó là tác dụng cùng thể tánh hoàn toàn tương ưng. Chân tâm khởi tác dụng, duy tâm sở hiện, cái tâm đó là chân tâm. Hiện tại chúng ta đọa lạc thành phàm phu, phàm phu có tâm hay không? Đương nhiên có tâm, tuy có tâm nhưng bạn không biết, thế là hiện tại cái tâm này của chúng ta khởi tác dụng. Trái ngược với chân tánh, không tương ưng, nó vẫn khởi tác dụng. Thế nhưng ở trong tác dụng liền sanh ra biến hoá. Hoặc giả chúng ta nói biến chất, chất biến tánh không biến, nếu tánh biến thì tánh không phải thật. Cho nên Phật ở trên kinh mới nói “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, đã có Phật tánh thì đương nhiên có thể làm Phật, đây là đạo lý nhất định. Chất đổi tánh không đổi. Chất đổi là gì? Là biến thành mười pháp giới y chánh trang nghiêm. Thân thể của chúng ta, nguồn gốc của sinh mạng, chất thay đổi, hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta ngày nay cũng thay đổi, chất vì sao có thể thay đổi? Phật nói rồi, trong mười pháp giới bao gồm sáu cõi của chúng ta, ngày nay chúng ta bao gồm tất cả hình hình sắc sắc những hiện tượng này, “duy thức sở biến”, thức liền sanh ra biến chất.

Thức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chúng ta thử nghĩ xem trong chúng ta có người nào không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Mỗi mỗi đều có, vậy phiền não không nhỏ. Cho nên thế giới này, mỗi người cộng nghiệp biến ra. Thân thể, dung mạo của chúng ta, tình trạng sinh hoạt của mỗi cá nhânbiệt nghiệp. Những đạo lý, những chân tướng sự thật, kinh Đại thừa Phật đã nói rất tường tận, thấu triệt, do đó “Tất cả pháp do tâm tưởng sanh”. Tâm tưởng này chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Mọi người đều hãy hướng đến phương diện thiện mà nghĩ thì thế giới liền hòa thiện, còn mọi người hướng đến mặt ác mà nghĩ thì thế giới liền đổi xấu. Chúng ta tỉ mỉ quan sát thử xem những người ở thế gian này đang nghĩ cái gì?

Chúng ta là người học Phật so với người thế gian thông thường thì dụng tâm không như nhau, nhất là phát tâm từ công việc hoằng pháp lợi sanh. Bạn lên giảng đài giảng kinh nói pháp, bình thường bạn sinh hoạt tu trì đều phải làm mô phạm cho chúng sanh. Do đó nói pháp phải khế cơ, hình thức sinh hoạt của chúng ta càng phải khế cơ. Hiện nay nghiêm trọng chính ở hiện tượng xã hội không tốt. Phương pháp chẩn đoán hiệu quả nhất là phải đem những mê hoặc của chúng sanh cụ thểvọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm cho họ thức tỉnh. Chúng ta nghĩ sai, làm sai, nói sai, kết quả sai lầm chính là hiện tượng xã hội ngày nay. Nếu bạn hỏi xã hội này động loạn, có tai biến từ nguyên nhân nào? Tôi nghĩ mỗi người đều cảm xúc riêng. Ngay trong tin tức cũng thường hiển thị, khí hậu toàn thế giới khác thường, mấy năm gần đây, nhiệt độ trên địa cầu không ngừng nâng cao, núi băng ở nam bắc hai cực đang bắt đầu tan rã. Đương nhiên nó tan rã không quá nhanh nhưng nếu nhiệt độ không ngừng tăng lên, hoặc giả sử dừng lại không nâng lên cao nữa thì theo tính toán của khoa học gia, núi băng ở nam bắc cực sẽ tan chảy hoàn toàn sau năm mươi năm nữa. Tuy nhiên căn cứ thống kê của mấy năm gần đây, nhiệt độ mỗi năm nâng lên cao nhiều hơn, như vậy, tôi e núi băng của nam bắc cầu sẽ tan chảy hoàn toàn sau hai mươi năm nữa. Khi núi băng tan rã, mực nước biển liền dâng cao, khu vực Duyên Hải thảy đều chìm vào đáy biển, tai nạn này quá lớn, khoa học có tiến bộ thế nào cũng không cách gì ứng phó. Hiện tại mọi người quy việc này cho đại tự nhiên, không phải sức con người. Phần lớn đùn đẩy trách nhiệm, đó là vì không hiểu chân tướng sự thật.

Nhiệt độ lên cao, nguyên nhân chân thật do đâu? Phật đã nói rồi, đáng tiếc mọi người không tin. Phật nói với chúng ta nhiệt độ do lửa sân hận, nguyên nhân căn bản của tai biến ngày nay, chính là tham sân si mạn của chúng sanh. Cái vọng tâm mỗi ngày thêm lớn không ngừng nên ảnh hưởng đến hoàn cảnh. Khi vừa mở đầu tôi đã nói với các vị, khởi nguồn vũ trụ cùng sinh mạng là đồng thời, không thể phân ra. Sinh mạng nhà Phật gọi là chánh báo, hoàn cảnhy báo. “Y Chánh” có cùng một cội gốc, cho nên y báo chánh báo là một không hai. Kinh Phật lại nói với chúng ta rất nhiều lần “Y báo tuỳ theo chánh báo chuyển”. Kinh Lăng Nghiêm nói rõ ràng hơn “Nếu có thể chuyển cảnh thì đồng Như Lai”, Như Lai là gì? Là người giác ngộ có thể thay đổi hoàn cảnh tự nhiên. Họ không cần phải dùng những công cụ khoa học. Tâm chuyển rồi, hoàn cảnh tự nhiên liền đổi. Chúng ta muốn đại tự nhiên này hạ nhiệt độ địa cầu xuống thì mọi người phải dập tắt tham sân si. Nhiệt độ sẽ hạ rất nhanh. Ngày ngày chúng ta vẫn đang tham sân si thì nhiệt độ đó vẫn cứ hướng lên cao. Đó là hiện tượng chúng ta đã xem thấy ở rất nhiều quốc gia khu vực, mỗi năm đi qua, mọi người tăng thâm tham sân si mạn, không những không hạ thấp mà ngay đến tạm dừng cũng không có. Thật là tham không chán, tham không được thì sân hận. Do đây có thể biết “Sám trừ nghiệp chướngvô cùng quan trọng.

Nghiệp chướng là tạo tác ra những ác nghiệp. Tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, nhất định phải sám trừ, kinh Phật cho biết có mười loại “tâm nghịch thuận”. Mười loại tâm tùy thuận sanh tử sáu cõi luân hồi, phía trước chúng ta đã nói qua, nay chúng ta tiếp tục giảng mười tâm nghịch sanh tử, cái nghịch này trái ngược với nó, có nghĩa là khuyên chúng ta tu mười loại tâm này để siêu việt sáu cõi luân hồi, tiêu tai giải nạn, hoá giải vô số tai biến thế gian hiện tại. Phật nói cho chúng ta nghe mười điều, người khác không tin tưởng, chúng ta cũng không nên để ý. Chính mình phải tin tưởng, phải từ chính bản thân nỗ lực mà làm. Hay nói cách khác, việc này trên kinh Phật nói rất tường tận, ngày nay chúng ta sống trên thế gian là cộng nghiệp. Trong cộng nghiệp còn có biệt nghiệp, cho dù địa cầu gặp phải tai biến to lớn như rất nhiều người nói, khi đại nạn đến, người trên địa cầu này có thể chết phân nửa, có thể chết 2/3, vậy vẫn còn 1/3 không chết, họ vẫn có thể vượt qua.

Trong cộng nghiệp vẫn còn có biệt nghiệp, người ngoại quốc nói “Ai tin tưởng thượng đế thì được cứu”, không tin thượng đế e rằng không có cách gì tránh khỏi tai nạn. Chúng ta rất khó tán thành cách nói này, người không từ bất cứ một việc ác nào nhưng chỉ cần tin vào thượng đế thì thượng đế cũng có thể cứu giúp họ. Còn cả đời làm người tốt nhưng không tin thượng đế thì thượng đế không cứu, như vậy thượng đế quá bất công. Chỉ Phật nói có đạo lý giúp bạn hồi tâm chuyển ý, diệt trừ tham sân si, tu phước, tu thiện, tích công bồi đức, khi đó bạn liền được cứu, được tiêu tai khỏi nạn. Nếu tiếp tục tham sân si mạn, tiếp tục tạo ác thì khi đại tai nạn đến e rằng sẽ không thể tránh khỏi. Phật nói như vậy, chúng ta nghe rồi vẫn cảm thấy tràn đầy đạo lý, có thể tiếp nhận. Cho nên nếu thượng đế không nói đạo lý thì chúng ta cũng không bằng lòng theo.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 37174)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 7302)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 12629)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 31149)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 31177)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 8601)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 13287)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 12873)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 12317)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 14598)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 37321)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 10583)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 53431)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 11521)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 11151)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 11478)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 11286)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 13840)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 17174)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 23128)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 10116)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 7667)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 11022)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 14079)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 13614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 17084)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 17362)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 14564)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 17832)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 13032)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 14729)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 15000)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 9839)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 12350)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 12118)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 17359)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 15053)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 16900)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 13284)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 12845)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 12460)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 16438)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 12273)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 14801)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 12753)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 13566)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 15912)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 12508)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 13924)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 15204)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 21937)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 13908)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 11554)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 21556)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 15104)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 21679)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 18703)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 14790)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 32575)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 12639)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant