Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 17

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10196)
Phần 17


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 17)

 

Pháp Sư Tịnh Không



Thứ tư, Phật dạy “Bất phú hà tì”. Chính mình tạo tác lỗi lầm không nên che giấu mà cần phát lồ sám hối, có dũng khí nói ra cho người nghe. Người khác nghe biết, trách cứ bạn vài câu, mắng bạn vài tiếng, như vậy là tốt vì bạn đã báo cả rồi, gọi là “Trọng tội nhẹ báo”. Làm việc thiện thì đừng để người khác biết. Khi làm thiện để người khác biết, người này người kia tán thán vài câu, như vậy bạn đã hưởng hết, cái thiện sẽ không còn. Cho nên thánh nhân thế xuất thế gian dạy chúng ta phải tích âm đức. Âm là không để cho người khác biết. Chúng ta đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức không nên để người khác biết, không nên để người tán thán. Địa vị của chính chúng ta càng thấp càng tốt, làm công đứctốt hơn cũng như không hề làm việc gì, chính mình cung kính khiêm hạ đối với tất cả mọi người. Có thế, công đức mà chính chúng ta tích được có thể bảo toàn, tương lai quả báo sẽ lớn, sẽ thù thắng.

Người thông minh nhất, có trí tuệ nhất là người đem phước báu cả đời tu được hưởng vào lúc lâm chung. Lúc lâm chung hưởng phước không bệnh khổ, đó là đại phước báu. Lâm chung không bị bệnh, lâm chung rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, lâm chung có thể đứng mà ra đi, ngồi mà ra đi, biết được mình sẽ đi đến nơi nào, thù thắng nhất là thế giới Cực Lạc. Đó là sau khi nghiệp báo của thân này đã trả hết. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc làm Phật, chọn lựa tối cao trong mười pháp giới, chọn lựa làm Phật. Không có chọn lựa sanh thiên, đương nhiên cũng sẽ không chọn lựa đời sau đến nhân gian để hưởng phú quý. Phú quý là giả, hãy thử lật lịch sử xem thấy những hoàng đế tướng quân trải qua nhiều thời đại, có oanh oanh liệt liệt cũng không quá một đời, ngày nay họ ở đâu? Đều chôn vào lòng đất, đâu có gì để đời. Nếu bạn thấy tường tận chân tướng sự thật này thì công danh phú quý của thế gian bạn liền buông bỏ, nó không ý nghĩa gì. Trong những phước báu của thế gian có rất nhiều khổ báo, từ xưa đến nay có vị quốc vương nào không khổ? Có vị nào cả đời làm vua được vừa lòng mãn ý? Tuy hưởng phước nhưng trong lòng họ cũng lo lắng bất an, cũng không thể một đời an tâm thư thích. Cho nên lỗi lầm không nên che giấu, càng không thể đùn đẩy cho người khác, phải phát lồ sám hối, hoàn toàn phơi bày, một chút cũng không che giấu.

Thứ năm, Phật dạy “Đoạn tương tục tâm”, chính là cái tâm liên tục tạo tác tội nghiệp. Chúng ta sáu căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, thuận với ý của mình thì lòng tham liền khởi, phiền não liền khởi; không thuận với ý mình, tâm sân hận liền khởi. Cái tâm này khởi lên cũng không nên sợ, vì thực tế mà nói chúng ta vẫn là phàm phu. Nếu sáu căn tiếp xúc cảnh giới, bạn không khởi tâm không động niệm thì bạn đã là Phật Bồ tát, không còn là phàm phu. Người phàm phu ở ngay trong cảnh duyên này nhất định khởi tâm động niệm. Cho nên người xưa nói “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Phàm phu khởi tâm động niệm là hiện tượng tất nhiên, thế nhưng then chốt ở chỗ nào? Đó là không nên để cho nó liên tục. Cái ý niệm vừa khởi, lập tức phải đè ý niệm xuống, làm cho nó chuyển biến, đó gọi là tu hành, là công phu. Người niệm Phật chúng ta chỉ dùng một câu A Di Đà Phật, trong thuận cảnh lòng tham khởi lên thì “A Di Đà Phật”, làm cho tâm này lập tức thay đổi, quyết không để lòng tham thêm lớn, không để lòng tham tiếp nối. Khi ở trong nghịch duyên nghịch cảnh, tâm sân hận phiền não khởi lên thì không phấn khởi mà lập tức dùng câu “A Di Đà Phật” đè nó xuống. Nhất định không để sân hận đố kỵ tăng thêm, không để sân hận đố kỵ tiếp nối.

Chúng ta niệm Phật như vậy gọi là biết niệm, gọi là công phu. Không thực hành như vậy, họ có niệm hai ba vạn danh Phật hiệu mỗi ngày, cảm thấy không tệ, niệm xong Phật hiệu vẫn cứ mắng người, vẫn cứ sân si, vẫn cứ khởi hỉ nộ ái lạc, vô tác dụng. Người xưa thường nói “Đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Phật hiệu của họ có niệm được nhiều hơn cũng không thể khởi tác dụng. Họ không hàng phục được phiền não, không đè xuống được. Công phu chân thật có lực, mỗi ngày Phật hiệu không nhất định phải niệm nhiều đến như vậy, then chốt là bạn phải có thể phục được phiền não, đè nó xuống. Một ngày bạn không niệm Phật cũng không hề gì, vừa động niệm thì A Di Đà Phật, vậy là tốt rồi. Khi không động niệm, không có A Di Đà Phật, nhưng vừa khởi tâm động niệm lập tức niệm A Di Đà Phật, đó gọi là giác nhanh, chân thật giác ngộ, vĩnh viễn giữ gìn tâm địa của chính mình Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác.

Thứ sáu, Phật khuyên “Phát tâm Bồ Đề”. Năm điều trên bao gồmMinh tín nhân quả”, “Tự hối khắc trách”, “Bố uý ác đạo”, “Bất phú hà tì”, “Đoạn tương tục tâm” là sám trừ tội nghiệp của chúng ta. Còn “phát tâm Bồ Đề” là tâm chân thật giác ngộ. Bạn chân thật tích công bồi đức sau khi đoạn ácsám trừ nghiệp chướng từ năm lời dạy trên. Năm điều sau dạy chúng ta tu thiện. Đoạn ác tu thiện, thiện không tu không thể thành tựu phước huệ chân thật. Người học Phật nhất định có phước báu, mỗi ngày tu phước, mỗi niệm tu phước, phước báu của họ đương nhiên thêm lớn. Tương tự, mỗi niệm tu huệ, ngày ngày tu huệ thì trí tuệ của họ nhất định thêm lớn. Đó là đạo lý tất nhiên.

Cái gì gọi là tâm Bồ Đề? Tâm Bồ Đềchân tâm. Bồ tát mới có tâm Bồ Đề. Trong nhà Phật chúng ta, A La Hán vẫn chưa phát tâm Bồ Đề, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa phát tâm Bồ Đề. Kinh Hoa Nghiêm nói, sáu cõi mười pháp giới từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà ra. Chấp trước không còn thì sáu cõi không còn, phân biệt không còn thì mười pháp giới cũng không còn. Khi mười pháp giới không còn, bạn đến được pháp giới nhất chân, chính là thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật, thế giới Cực lạc của A Di Đà Phật. Bạn đến nơi đó siêu việt mười pháp giới. Vừa phát được tâm Bồ Đề liền siêu việt mười pháp giới. Nói cách khác, tâm Bồ Đề chính là đoạn đứt phân biệt, chấp trước, chân tâm của bạn hiện tiền.

Thể của tâm Bồ Đềtâm chí thành, chân thành đến tột đỉnh. Các vị phải biết, còn chút phân biệt, còn chút chấp trước là tâm của bạn không thành. Phải đem phân biệt chấp trước đoạn sạch sẽ. Không những không phân biệt, không chấp trước đối với pháp thế gian, mà đối với Phật pháp cũng không phân biệt, không chấp trước. Còn phân biệt, còn chấp trước đối với Phật pháp vẫn không thể ra khỏi sáu cõi, việc này phải nên hiểu. Một số đồng tu hỏi: “Hiện tại tôi không tham danh vọng lợi dưỡng của thế gian, không tham năm dục sáu trần nhưng tôi tham Phật pháp, có được không?” Không được! Phật bảo bạn đoạn tâm tham, không bảo bạn đổi đối tượng. Tâm tham nhất định biến ngạ quỷ, bạn tham Phật pháp vẫn biến ngạ quỷ.

Tuy biến ngạ quỷ nhưng hưởng phước không giống nhau. Ham muốn danh vọng lợi dưỡng thế gian, đọa vào đường ngạ quỷ, đó chân thậtngạ quỷ, ngạ quỷ rất nghèo khổ. Còn loại ngạ quỷ ham muốn Phật pháp có thể làm quan ở đường ngạ quỷ, bởi vì đối tượng đó không giống nhau, nhưng vẫn phải làm ngạ quỷ, vẫn không cách gì thoát khỏi cõi quỷ. Phật dạy chúng ta phải đoạn tâm tham, không dạy chúng ta đổi đối tượng, cái ý nghĩa này nhất định phải làm cho rõ ràng, nhất định phải đoạn tham sân si, phải đoạn phân biệt chấp trước, thế xuất thế pháp thảy đều không phân biệt, bạn mới có thể siêu việt mười pháp giới. Đó là thể của tâm Bồ Đề, tâm chí thành, tức là chân thành đến tột đỉnh.

Vậy Phật dạy phát tâm Bồ Đề cũng chính là nói chúng ta từ nay về sau, đối nhân xử thế tiếp vật chỉ một mảng chân thành, nhất định không chút hư dối, không chút lợi ích cho chính mình. Người khác dùng tâm hư vọng đối với ta, người khác lừa dối ta, ta dùng chân thành đối với họ. Trước mắt chịu thiệt một chút, tương lai sẽ không hề bị thiệt chút nào. Họ dùng tâm hư vọng đối với ta thì họ đến ba đường, ta dùng tâm chân thành đối với họ thì ta đến thế giới Cực Lạc, như vậy làm sao giống nhau được. Cho nên bạn phải chịu thiệt thòi, không sợ thiệt thòi, chúng ta mới có thể tham gia “câu lạc bộ” của A Di Đà Phật. Nếu không chịu thiệt, vẫn muốn tranh hơn, vậy họ phải đến ba đường ác, bạn cũng đi theo. Người thông minh nhất định phải dùng tâm chân thành đối nhân xử thế tiếp vật. Chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ, chân thật muốn thân cận A Di Đà Phật, thân cận mười phương tất cả chư Phật Như Lai, chúng ta mỗi niệm hy vọng gia nhập pháp hội của các ngài, sự chọn lựa đó là tối thượng thừa trong mười pháp giới. Chúng ta sâu sắc tin tưởng chính mình làm được. Tương lai tôi ở nơi đây giảng kinh Hoa Nghiêm, sau khi nghe xong, tín tâm của các vị nhất định sẽ được xây dựng, biết được ngay trong đời này có thể tham gia câu lạc bộ của Phật A Di Đà, Tỳ Lô Giá Na Phật và tất cả chư Phật, tâm Bồ Đề liền khởi tác dụng.

Phật ở trên kinh nói với chúng ta, có tự thọ dụng, có tha thọ dụng, cho nên khi giảng khởi dụng liền giảng hai loại. Tự thọ dụngtâm thanh tịnh, hiếu đức hiếu thiện. Như hôm nay chúng ta giảng sám trừ nghiệp chướng, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, đó chính là thâm tâm, là tự thọ dụng. Sau khi tâm Bồ Đề phát thì tự nhiên sẽ như vậy, không chút miễn cưỡng, cũng không cần người khác phải đốc thúc, tự động tự phát, họ thật làm. Tha thọ dụng của tâm Bồ Đề là đối nhân xử thế tiếp vật, đại từ đại bi. Dùng lời hiện tại mà nói, từ bi là đối với tất cả chúng sanh, quan tâm chân thành, thương yêu chân thành, giúp đỡ nhiệt tâm, đó là tha thọ dụng. Ý nghĩa của tâm Bồ Đề rất sâu, rất rộng, Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền Trung Quốc chúng ta cũng đã phát ra tâm này, chẳng qua không gọi nó là tâm Bồ Đề nhưng trên thực tế cùng với tâm Bồ đề mà Phật nói không hề khác nhau.

Vào thời xưa Trung Quốc, vua Hán Võ chế định chính sách giáo dục quốc gia. Sau khi ông chế định chính sách này, kéo dài mãi đến trào Mãn Thanh, hơn hai ngàn năm, mỗi trào đại đều tuân thủ, không hề cải biến. Điều đó cho thấy chính sách giáo dục này là tông chỉ phương châm giáo dục chính xác cho nên đế vương nhiều đời đều khẳng định tiếp nhận, đều hoan nghênh, và đều chấp hành. Đó chính là thực hành tư tưởng giáo dục của Khổng Mạnh, ngày nay chúng ta gọi là nhà Nho. Nhà Nho dạy người trên cương lĩnh giảng Tam cương Bát mục. Trong phương pháp giáo học cũng nói đến tâm Bồ Đề nhưng nó được nói đến bằng những từ “thành ý”, “chánh tâm”. “Thành ý” chẳng phải là tâm chân thành hay sao? “Chánh tâm” chính là thâm tâm, đại bi tâm trong Phật pháp chúng ta. Hai thứ này hợp lại dùng một chữ “chánh”, “chánh tâm”. Phật pháp chúng ta giảng tỉ mỉ, bạn dùng tâm gì đối với chính mình, dùng tâm gì đối với người khác. Nhà Nho giảng nói tác dụng của “thành ý”, họ chỉ nói một “chánh tâm”, dùng chánh tâm đối với chính mình, dùng chánh tâm đối với người khác. Chỉ có Phật giảng mới tường tận. Cái thành ý này là chân thành, chúng ta cũng rất muốn dùng tâm chân thành, thế nhưng vẫn không phải.

Bồ Tát Mã Minh có một trước tác gọi là “Đại Thừa Khởi Tín Luận”, “khởi tín” là vào cửa, là bước đầu. Cũng giống như trường học, bạn vừa vào lớp một, vừa mới đi học, điều kiện khởi tín chính là phát tâm Bồ Đề. Cho nên tâm Bồ Đề vừa phát, bạn chính là Bồ Tát Đại thừa khởi tín, kinh Đại thừa gọi là phát tâm trụ Bồ Tát. Khi vừa phát tâm, bạn liền ở địa vị Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Công đức của Bồ Tát Sơ Trụ được tất cả chư Phật tán thán. Trong kinh Hoa Nghiêm, đoạn kinh văn “Thập Trụ” tổng cộng có sáu phẩm kinh đều tán thán công đức của Bồ Tát sơ trụ, đặc biệt phẩm “Sơ Phát Tâm Công Đức Phẩm”. Tâm chúng ta vì sao không thể phát khởi? Mặc dù muốn phát nhưng không cách nào phát được. Phật biết, các bậc thánh hiền xưa cũng biết, nên mới khuyên chúng ta bỏ hết những chướng ngại trong tâm thì chân tâm mới có thể phát ra được.

Trong tâm chân thành của bạn chỉ cần có phiền não chướng, sở tri chướng thì chân tâm của bạn sẽ không cách gì hiển lộ. Hàng Thanh Văn, A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát vẫn chưa đoạn hai loại chướng này nên tâm Bồ Đề không thể hiện tiền, vẫn cứ dùng vọng tâm, không phải chân tâm. Nhà Nho dạy người xem Thành ý Chánh tâm phía trước có hai câu “Cách vật, Chí tri”, sau đó mới Thành ý, Chánh tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ. Từ đó có thể thấy hai câu phía trước quan trọng, “Cách vật, Chí tri”. Cách vật là gì? Về sau nhà Nho của Tống Minh đem hai chữ “Cách vật” này giải thích cái lý tột cùng các vật, nghiên cứu đạo lý của tất cả vật, đó là trên căn bản phương hướng đã sai lầm, cho nên Phu Tử đời sau nghiên cứu chư Tử trên lý, đại khái đầu óc đều hỗn loạn mà lý cũng chưa nghiên cứu ra được. Chỉ đến khi Tư Mã Quang xuất hiện, nghiên cứu thông minh hơn.

Tư Mã Quangtín đồ Phật giáo thuần thành, ông nói rất có đạo lý, rằng “Cách vật” thì vật chính là vật dục. Giải thích của ông không giống giải thích của người trước. Vật là vật dục, là thị phi nhân ngã, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần. Cách là cách đấu, có nghĩa, chúng ta chính mình phải đấu tranh với năm dục sáu trần, phải chiến thắng nó, không nên bị nó đánh bại. Bạn phải khắc phục năm dục sáu trần, chính là đoạn phiền não mà nhà Phật nói. Nhà Nho gọi Khắc chế là phương pháp đoạn phiền não, cách này có thể khắc phục năm dục sáu trần. Phật dạy chúng ta, những đệ tử đời saulấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Thầy chính là ý nghĩa của sự mô phạm. Phật tuy không tán thành tu khổ hạnh nhưng Phật tán thán tu khổ hạnh, vì sao? Con người có thể trải qua đời sống thanh đạm, ý niệm của vật dục sẽ rất tan nhạt, hay nói cách khác, rất dễ đoạn phiền não. Trong đời sống nếu bạn ham thích hưởng thụ thì bạn không có năng lực hàng phục năm dục sáu trần. Phiền não của bạn chưa dứt thì tâm Bồ Đề không thể sanh khởi, điểm này các vị đồng tu phải đặc biệt chú ý.

Vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, điều kiện trên kinh Vô Lượng Thọ đầu tiên chính là phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật. Tôi đem sự việc này giảng rõ ràng tường tận cho mọi người nghe, tương lai bạn không thể vãng sanh cũng sẽ không trách tôi. Hiện tại tôi nói với các vị nhưng các vị không chịu làm, như vậy không phải trách nhiệm của tôi, bạn không tin tưởng thì không còn cách nào. Cho nên phát tâm Bồ Đề vô cùng quan trọng, nhất định phải dùng tâm chân thành đối đãi người thì chân tâm của bạn liền hiện tiền. Bạn nhất định phải khắc phục dục niệm của mình trong năm dục sáu trần, còn gọi là thế giới muôn màu, nhất định không bị nó dụ hoặc. Chính mình khắc phục được mình, đó chính là công phuCách vật”. Cho nên cách vật là phá phiền não chướng. Chí tri là phá sở tri chướng, chúng ta phải cầu học vấn chân thật, trí tuệ chân thật, tốt nhất từ kinh Vô Lượng Thọ, nói rõ ràng thấu triệt hơn kinh Hoa Nghiêm.

Tương lai hai bộ kinh sẽ đều giảng ở đạo tràng này. Hiện tại chúng tôi đang làm công tác trù bị, biên tập mới lại để mọi người xem kinh thấy được câu đoạn, thứ lớp, chương pháp, kết cấu, nghĩa lý dễ hiểu. Hiện tại, kinh Hoa Nghiêm in bằng bản gỗ, một mặt mười hàng, một hàng hai mươi chữ, không có thứ lớp, không có chấm phẩy, xem thế nào cũng không hiểu, khi xem trong lòng không thoải mái. Cho nên chúng ta không thể không đem kinh này phân câu đoạn, biên tập mới lại. Dự định ngày 18 bắt đầu giảng, một tuần lễ giảng năm ngày, bốn ngày giảng Hoa Nghiêm, một ngày giảng kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ ngắn, chúng ta giảng dài; kinh Hoa Nghiêm dài, chúng ta giảng ngắn. Như vậy rất tự tại, không bị hạn chế thời gian. Hy vọng ba năm có thể hoàn thành công trình.

Phương pháp trong hai bộ kinh này là Chí tri, tốt nhất, học tập có hiệu quả nhất. Cách vật nhất định phải ở ngay cuộc sống chính mình. Trong cuộc sống, chúng ta nhất định phải tiết kiệm, không nên lãng phí. Ngoài ra chính mình có phước báu cũng phải tiết phước, không nên lãng phí. Phước báu dư ra, phân cho chúng sanh cùng hưởng thì phước báu của bạn càng ngày càng lớn, vĩnh viễn hưởng không hết. Không nên chính mình có phước, chỉ một mình hưởng hết, đó là sai lầm. Cho dù có rất nhiều phước báu, chúng ta chỉ hưởng thụ một chút, tất cả còn lại thảy đều chia cho chúng sanh cùng hưởng. Bạn có thể bố thí phước càng nhiều thì phước của bạn càng lớn. Như tôi đã nói với các vị, bạn bố thí tài thì được tiền tài, bố thí pháp được thông minh, bố thí vô uý được khoẻ mạnh sống lâu, bố thí phước báu thì đương nhiên được phước báu lớn, đó là đạo lý nhất định. Cho nên chúng ta phải bố thí phước báu lớn, tạm đủ cho đời sống của mình là được. Việc tích thiện tích phước đưa lên hàng đầu, mỗi niệm vì chúng sanh, mỗi niệm vì xã hội. Chúng sanh đều có phước, xã hội tốt thì đời sống của chúng ta đương nhiên sẽ tốt vì chúng ta không rời khỏi xã hội, không rời khỏi chúng sanh. Không nên mỗi niệm nghĩ cho chính mình, vậy tâm Bồ Đề không còn. Mỗi niệm vì chúng sanh, mỗi niệm vì xã hội, tâm Bồ Đề liền hiện tiền. Cho nên nhất định phải phát tâm Bồ Đề.

Thứ bảy, Phật dạy chúng ta phải “tu công bổ quả”, từ đời quá khứ chúng ta cho đến đời này, những việc đã làm sai rất nhiều. Cho nên Phật khuyên bảo chúng ta phải nỗ lực tu thiện, bồi đắp lỗi lầm. Người thế gian thường nói, “lấy công chuộc tội”, pháp luật thế gian có rất nhiều người làm như vậy. Trong Phật pháp thì không được vậy, thiện nhất định có quả thiện, ác nhất địnhác báo. Không thể nói: “Ngày trước tôi đã tạo rất nhiều tội ác, hiện tại tôi tu đại thiện, nên tội của tôi không cần trả báo”, không hề có việc như vậy, đó là không phù hợp với định luật nhân quả. Ngay đời này bạn nỗ lực tu thiện, sức mạnh của thiện đặc biệt mạnh, cái thiện của bạn sẽ được hưởng trước; tội nghiệp mà bạn tạo, cái ác báo sẽ chậm lại, lùi lại sau, báo sau nhường cho cái thiện báo trước. Còn nếu lực lượng ác mạnh thì cái ác sẽ báo trước, cái thiện mà bạn làm sẽ báo sau, tuyệt nhiên không hề có chuyện không báo, đó là định luật nhân quả, chân lý của nhân quả, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Bạn không thể không khiếp sợ nhân quả, vì quả báo không hề sót lọt, chỉ là báo sớm hay báo trễ mà thôi. Khởi một ác niệm đều phải nhận lấy báo ác, khởi một niệm thiện cũng có quả thiện.

Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, ba nghiệp đều đang tạo. Tu công bù lỗi, không phải Phật khuyên bảo chúng ta đem công bù tội, mà hy vọng quả thiện của chúng ta báo trước, quả ác sẽ được chậm lại. Giả như thiện căn của chúng ta rất lớn, chúng ta sanh đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, đến nơi đó làm Phật, sau khi làm Phật rồi, những tội nghiệp đã tạo trong đời quá khứ còn phải trả báo hay không? Nếu bạn nói làm Phật Bồ tát rồi thì không trả báo nữa, định luật nhân quả sẽ nói không thông. Xin thưa với các vị, làm Phật Bồ Tát đến sau cùng vẫn phải trả báo. Tuy nhiên cái báo đó ở trên cảm thọ hoàn toàn không giống chúng ta.

Hiện tại khi chúng ta trả báo, chân thật cảm thấy vô cùng thống khổ. Còn khi Phật Bồ Tát thọ báo, các ngài đều rõ ràng tường tận, biết được đời quá khứ do tạo nhân như vậy cho nên hiện tại phải chịu quả báo. Họ nghĩ thế nên trả nợ một cách hoan hỉ, tự tại, từng món nợ trong sổ đều xoá hết. Còn chúng ta, đời trước gạt tiền người ta, đời này người ta gạt tiền mình mang đi, chúng ta cảm thấy khổ sở. Nếu chúng ta biết đời trước đã gạt họ, hiện tại họ gạt ta, vừa lúc phải trả cho nên một chút áo não cũng không có, bị gạt mà còn thấy thoải mái, an vui. Cho nên Phật Bồ Tát khi đến đây chịu quả báo, an vui tự tại vô cùng.

An Thế Cao thật cũng đã làm Phật, làm Bồ Tát. Ông đến Trung Quốc trả nợ mạng hai lần. Đời trước ông giết lầm một người, đời này đến ngay nơi đó cũng bị người ta giết nhầm lại. Giết nhầm mà vẫn còn có tội. Ông đã đoán trước rồi nói với bạn: “Hôm nay tôi sẽ gặp nạn, sẽ chết đi, anh nói với quan phủ không nên trị tội người này. Đó là do nghiệp lực đời trước của tôi nên đời này phải gánh lấy quả báo, do tôi tự đến để trả nợ mạng”. Cho nên không thể nói thành Phật thành Bồ Tát thì không chịu báo, làm gì có đạo lý như vậy. Tuy nhiên cũng có tình huống không chịu báo. Không chịu báo là do đối phương hai bên đều rất tường tận, ta thiếu họ một mạng, họ biết rõ và nói: “Tôi không cần anh trả mạng”. Vậy thì không sao. Thực tếtrường hợp như vậy. Một vị Bồ tát đến giảng kinh nói pháp, gặp được oan gia trái chủ. Họ nghe và thấu hiểu Phật pháp nên bỏ qua món nợ về trước. Quả báo nhất định chân thật, báo và không báo đều ở nơi duyên, vậy phải xem nhân duyên đó của bạn như thế nào. Duyên, có lúc có thể thao túng ở chính nơi chúng ta, chính mình có thể làm chủ. Phật dạy “tu công bổ quá”, ý nghĩa ngay chỗ này.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12494)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10380)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12345)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28802)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12048)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13008)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12372)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17440)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53036)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35485)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21392)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19239)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12404)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26039)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13314)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14378)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16083)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13727)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16837)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17581)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13126)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12529)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11607)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14505)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20479)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18989)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19563)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18651)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12182)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12311)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13858)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15029)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15036)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15512)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11401)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17192)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14976)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20195)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14612)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15059)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12997)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22871)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11648)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13169)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18341)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11939)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11498)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15850)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12881)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18904)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18421)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant