Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 27

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10010)
Phần 27


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 27)

 

Pháp Sư Tịnh Không

“NHẬP PHẬT PHÁP TẠNG”

Trí tuệ đức năng vốn đủ trong tự tánh, gọi là Phật pháp tạng. “Phật” là Phật tánh, chính là chân tánh của mỗi chúng ta. Nhà Phật thường nói, chân tâm bổn tánh của tất cả chúng sanh gọi là Phật tánh. Phạm vi của hai chữ “chúng sanh” này rất rộng, ý nói chúng duyên hoà hợpsanh khởi ra hiện tượng, phạm vi trong đó vô cùng lớn. Tất cả động vật do chúng duyên hoà hợp mà sanh. Kinh Phật thường lấy con người làm thí dụ. Con người do bốn đại năm uẩn hòa hợp mà hiện khởi. Bốn đạisắc pháp, sắc uẩn trong năm uẩn. Hiện tại chúng ta gọi là vật chất: thọ, tưởng, hành, thức. Bốn loại này chỉ về tinh thần. Phàm hễ là động vật đều do bốn đại năm uẩnsanh khởi ra hiện tượng. Ngoài động vật còn có thực vật, khoáng vật. Trong thực vật khoáng vật, chính là trong năm uẩn không có bốn uẩn sau. Sắc uẩn phía trước thì đầy đủ, cho nên bốn đại đầy đủ. Bốn đại cũng là chúng duyên hoà hợp mà hiện khởi, cho nên ý nghĩa của chúng sanh rất rộng lớn.

Chân tánh của tất cả chúng sanh, thực tế mà nói là một tánh. Một tánh biến thành nhiều hiện tượng. Phật ở ngay chỗ này đã phân tích một cách đơn giản. Phật nói, cái tự tánh này của động vật gọi là Phật tánh. Thực vật, khoáng vật là ngoài động vật, bao gồm hiện tượng tự nhiên; những tự tánh này gọi là pháp tánh. Các vị phải biết, pháp tánh bao gồm Phật tánh, nhưng Phật tánh không bao gồm pháp tánh. Phật tánh cũng tốt, pháp tánh cũng tốt, đều là nói Phật.

Phật pháp tạngtrí tuệ đức năng vốn đủ trong tự tánh. Ở thực vật cùng khoáng vật có đức năng, không có trí tuệ, còn ở động vật hữu tình chúng sanh có trí tuệ, có đức năng. Chúng sanh vô tình có đức năng, không có trí tuệ. Khác biệt ở chỗ này. Tất cả chúng sanh phàm hễ có Phật tánh đều sẽ thành Phật, đều nên làm Phật, hữu tình chúng sanh thành Phật. Chúng sanh vô tình liền theo đó mà chuyển, “y báo tùy theo chánh báo mà chuyển”. Cho nên kinh Hoa Nghiêm mới nói: “Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí”. Chúng sanhtình tự nó không thể chuyển. Phải khi chúng sanh hữu tình đạt trí tuệ viên mãn thì chúng sanh vô tình liên đới chuyển, đạo lý là như vậy.

Nhập” là khế nhập cũng là chứng đắc. Trí tuệ đức năng vốn đủ trong tự tánh thảy đều hiển bày, thảy đều có thể dùng được, đó gọi là nhập. Trong pháp Đại thừa, người thế nào Phật pháp tạng hiển lộ ra? người nào vào được bảo tàng trí tuệ đức năng của tự tánh? Đó là chư Phật Như Lai. Các ngài đều đạt được, nhưng thực tế mà nói chỉ “đạt” một cách miễn cưỡng, làm gì có chuyện đạt hay không đạt, vì tự tánh vốn đủ.

Trên hội Lăng Nghiêm nói: “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc”, vì sao vô sở đắc? vì bạn vốn có. Nếu vốn không có, hiện tại bạn có được mới gọi là đắc, còn vốn đã sẵn có, hiện tại gọi là hồi phục, không thể nói đắc. Vì vậy mới nói không có được mất. Hiện tại bản năng trí tuệ tự tánh của chúng ta chưa hiện tiền, không hiển lộ, nên chúng ta trải qua đời sống khổ cực, ngày tháng lao nhọc. Nói cách khác, trí tuệ đức năng trong tự tánh không thể hiện tiền, nên chúng ta chưa vào Phật pháp tạng.

Nói thì rất dễ nhưng làm rất khó. Mức độ thấp nhất phải đoạn dứt kiến tư phiền não, trần sa phiền não, đoạn bốn mươi mốt phẩm vô minh, hoặc chí ít cũng phải phá một phẩm mới có thể vào Phật pháp tạng. Phật pháp tạngchân tâm bổn tánh; thiền tông gọi là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh là vào Phật pháp tạng, kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân đại sĩ, không phải người thông thường. Pháp thân đại sĩthành Phật, tuy nhiên thành tựu của họ vẫn chưa viên mãn, vì họ chỉ mới phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, họ có năng lực ở tận hư không khắp pháp giới độ hóa chúng sanh như trong “Phổ môn phẩm” đã nói, “đáng dùng thân gì để độ, ngài liền hiện ra thân đó”, đáng dùng thân Phật để độ, ngài liền có thể thị hiện tám tướng thành đạo. Các vị phải biết, thị hiện tám tướng thành đạo tuyệt nhiên không đại biểu ngài đã chứng được Phật quả cứu cánh viên mãn. Thế nhưng ngài vẫn chứng được phần chứng Phật quả, đó là nhất định. Ngài có năng lực thị hiện, do đó chúng ta ở trong Viên giáo xem thấy được, từ sơ trụ trở lên, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, tổng cộng có bốn mươi mốt ngôi thứ, bao gồm đẳng giác, đều gọi là phần chứng vị, không phải viên mãn. Cho nên câu này, vào Phật pháp tạngphần chứng vị, bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ.

“CỨU CÁNH BỈ NGẠN”

Thêm vào sau chữ “cứu cánh” là “viên mãn”. Câu này là diệu giác vị. Từ phần chứng vị đến diệu giác vị nói những vị Bồ Tát này đều là Bồ Tát thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta phải làm thế nào để học tập? Người niệm Phật cần phải biết, trong tịnh độ tông gọi là Phật pháp tạng. Cách nói tuy không như nhau nhưng nghĩa thú không hề khác nhau. Phật pháp tạng chính là Di Đà dựa vào nguyện hải, pháp tạng tự tánh viên mãn. Chúng ta mỗi niệm cầu sanh Tây Phương tịnh độ, mỗi niệm mong cầu tham gia Liên Trì Hải Hội của Phật A Di Đà. Chúng tathể tham gia Liên Trì Hải Hội chính là vào Phật pháp tạng, đó là cách nói của tịnh độ tông chúng ta.

Người xưa nói “Nếu thấy được Di Đà lo gì không khai ngộ”, cái khai ngộ đó chính là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật của thiền tông. Do đây có thể biết, thấy Phật cũng đồng với đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh của thiền tông. Thế nhưng trong tông môn dùng phương pháp tham cứu để đạt đến cảnh giới này, rất khó, vào thời đại hiện nay gần như không còn thấy.

Lão pháp sư Đàm Hư so với thời đại của chúng ta sớm hơn nửa thế kỷ. Đại sư thường hay khai đạo cho hậu học. Ngài nói chính mình ngay một đời thấy qua rất nhiều thiện tri thức xuất gia, tại gia tu hành, ngài nói cũng thấy qua người được định, tu thiền được thiền định, ví dụ lão hòa thượng Hư Vân của thiền tông. Lão hòa thượng Hư Vân được thiền định, nhưng khai ngộ hay không chúng ta không biết. Đại sư Đàm Hư nói, ngài chưa từng thấy qua người khai ngộ, cũng không hề nghe nói qua. Vào thời đại đó của Đại sư Đàm Hư, lão hòa thượng Hư Vân còn tại thế, cũng bao gồm trong đó. Đàm lão khẳng định ngài được thiền định, nhưng không thể khẳng định ngài khai ngộ.

Được thiền định là chuyện không dễ. Nếu chính mình không phát nguyện, tương lai nhất định sanh trời tứ thiền, địa vị rất cao, phước báu rất lớn. Chúng ta biết lão hòa thượng Hư Vân phát nguyện thân cận Bồ Tát Di Lặc. Ngài đích thực sanh đến Đâu Suất nội viện, việc này không giả. Vậy người niệm Phật chúng ta nhất định phải hiểu được then chốt tu học. Niệm Phật thành Phật, thẳng tắt ổn định, mau chóng đáng tin, cứu cánh bỉ ngạn.

Vận dụng pháp môn niệm Phật, “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Sau khi sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, hoằng nguyện của họ phát ra ở nhân địa đều có thể thực hiện. Trong Tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, dù hạ hạ phẩm vãng sanh, nếu họ hoằng nguyện quảng độ tất cả chúng sanh thì đều có thể thực hiện được. Không giống nơi đây của chúng ta, nguyện của chúng ta đã phát mà không làm được, nên gọi là “Lực bất tòng tâm”.

Thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không như vậy, tuy phàm thánh đồng cư hạ hạ phẩm vãng sanh, phiền não tập khí một phẩm cũng chưa đoạn, nhưng họ vẫn có thể đến tận hư không khắp pháp giới cúng dường chư Phật, độ hoá chúng sanh. Dựa vào cái gì? Nhờ vào gia trì của bổn nguyện, bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà. Thế mới biết pháp môn tịnh độ thù thắng không gì bằng. Thế xuất thế gian bất cứ pháp môn nào đều không thể so sánh. Ngay đời này chúng ta có duyên gặp được không phải là ngẫu nhiên, không phải là việc trùng hợp. Kinh Phật nói, đó là thiện căn phước đức nhân duyên từ vô lượng kiếp, đời này mới gặp được. Sau khi gặp, cả đời này chúng ta có thể thành tựu hay không? Kinh Phật cũng nói, người gặp được phân làm bốn loại, căn tánh không như nhau.

Người thượng căn nghe rồi liền tin tưởng, tin rồi liền phát nguyện, liền chăm chỉ nỗ lực tu học, y giáo phụng hành, một đời nhất định được sanh, đó là người thượng thượng căn.

Thứ kế một bậc không thể tự động tự phát, rất dễ dàng lười biếng giải đãi, cần phải có người khích lệ, cần phảithiện tri thức đề cử, thì họ sẽ làm được. Họ chỉ cần được người khích lệ cũng có thể phấn chấn đoạn ác tu thiện, niệm Phật cầu sanh, và có thể vãng sanh.

Loại người căn tánh thứ ba thì kém một chút. Phải có thiện tri thức, cần lao khẩn thiết khuyên bảo hết lời, họ mới hồi đầu, tương đối không dễ. Cho nên chúng sanh diêm phù đề cang cường khó độ. Phật Bồ Tát thị hiệnthế gian này, dù có khó, các ngài đều không sợ. Các ngài có trí tuệ, có phương tiện khéo léo, hết lời khuyên can dạy bảo chúng ta. Thời gian lâu dần, chúng ta sống trong xã hội bị nhiều thiệt thòi, gặp nhiều chướng ngại, lúc đó mới chịu quay đầu, cũng có thể thành tựu.

Hàng thứ tư tuy gặp được nhưng tri kiến bất chánh. Chư Phật Bồ Tát đến khuyên bảo, họ cũng không thể quay đầu. Loại này chúng ta xem thấy rất nhiều trong Phật pháp. Sau khi học được vài năm thì đi học ngoại đạo. Phật Bồ Tát đến giáo hoá, họ vẫn không thể quay đầu. Đó là do tập khí phiền não nghiệp chướng của chính họ quá nặng. Bên ngoài gặp phải ác duyên, trong ác duyên cũng không ngoài danh vọng lợi dưỡng. Bên ngoài bị mê hoặc của danh vọng lợi dưỡng, bên trong có tham sân si mạn. Nội ngoại kết hợp nên họ bỏ đạo mà đi, vô cùng đáng tiếc. Tuy nhiên Phật không bỏ rơi họ. Phật vẫn đợi họ quay đầu. Ngay đời này không thể quay đầu thì chờ đời sau. Đời sau không quay đầu thì đợi đời sau nữa.

Thành thật mà nói, chúng ta không nên cười ngạo người khác, như vậy thì bản thân chúng ta chính là loại người đó. Không phải ngày nay chúng ta mới niệm Phật A Di Đà, không phải đời này mới tu tịnh độ, mà trong quá khứ đời đời kiếp kiếp, không biết bao nhiêu lần chúng ta gặp được pháp môn này. Không phải người ta vừa bị mê hoặc, mà họ đang từ từ tu tập, hy vọng đời này thông minh hơn một chút, không còn chạy rong nữa. Điểm này trong giáo học của người xưa, các ngài khéo léo dùng phương thức ngăn ngừa rất chu đáo. Đó là sư thừa mà thế xuất thế gian pháp chúng ta đã nói.

Chúng ta lạy một người làm thầy, chúng ta theo một vị thầy học thì phải theo chắc vị thầy này. Ngoài thầy ra, người khác đến dạy cho ta, nếu ta nghe họ và đi theo họ thì không còn là học trò của thầy giáo này. Người thế gian gọi là khinh sư phản đạo. Cho nên thời trước thầy giáo kèm thúc học trò, trừ khi cùng học với một mình thầy ra, bất cứ thiện tri thức nào khác giảng kinh nói pháp đều không được nghe. Việc ngăn cấm này tốt, giúp học trò không đến nỗi vượt qui. Vì sao? Học trò khi mới học, trí tuệ chưa khai mở, thế pháp Phật pháp chưa phân biệt thứ nào thật, thứ nào giả; chưa phân biệt tà chánh, thiện ác phải quấy, thậm chí đến lợi hại. Người sơ học không có trí tuệ không thể phân biệt. Không cần nói chân vọng tà chánh, nếu bạn không có năng lực phân biệt thì lợi hại trước mắt bạn cũng đều không thể phân được rõ ràng. Cho nên làm học trò có điều kiện để làm học trò; làm thầy giáo có bổn phận của thầy giáo. Điều kiện của học trò là nhất định phải phục tùng thầy giáo, tôn sư trọng đạo. Chúng ta theo một vị thầy giáo thì nhất định phải nghe lời dạy của thầy.

Tôi ở vào thời đại mạt pháp. Nói đến sư thừa, có lẽ tôi là người sau cùng. Từ tôi về sau có thể không còn nữa. Cả đời này, tôi cầu học đều một thầy giáo chỉ dạy. Khi chưa học Phật pháp, tôi học triết học với một mình tiên sinh Phương Đông Mỹ. Cho nên thứ học được rất thuần không tạp, có thể chuyên tâm, ít lâu sau liền nhận được hiệu quả, chân thật gọi là làm chơi ăn thiệt. Tôi học Phật, thân cận với Đại Sư Chương Gia. Ngài dạy tôi ba năm, cho nên trong quá trình cầu học của tôi, một chút khó khăn cũng không có, không phức tạp. Một thầy dạy một môn, “một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”. Đại sư Chương Gia viên tịch một năm, tôi quen biết với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Tôi theo ngài mười năm. Ngài răn dạy tôi chỉ nghe một mình ngài. Tức là ngoài ngài ra, không được nghe bất cứ người nào nói pháp. Tôi tuân thủ.

Nếu bạn thân cận một vị thầy giáo, khi người khác giảng kinh nói pháp, hoặc người khác giảng khai thị cho bạn, khuyên dạy bạn, bạn thảy đều nghe hết, thì tâm của bạn nhất định tán loạn, không ổn định, tâm bạn liền bị biến đổi, bạn liền đi với người khác. Như vậy nhân duyên thù thắng không gì bằng của chính bạn đã bị lỡ qua, bị vuột mất. Cho nên không chỉ không được nghe người khác nói chuyện mà sách chưa được sự đồng ý của thầy cũng không xem. Sau khi học Phật, tôi rất ít xem sách bởi vì đều phải được sự đồng ý của thầy. Trước khi học Phật, trước khi tôi tiếp xúc Phật pháp, tôi ưa thích đọc sách nên thường đọc rất nhiều thứ. Nhưng sau khi học Phật, tôi liền vâng theo lời dạy của thầy, không chỉ sách thế giantoàn bộ sách khác, tôi đều không xem. Ngay đến kinh điển của Phật giáo, tôi cũng lướt qua không nhiều. Tuy nhiên khi người ta nhắc đến, tôi đều có thể hiểu. Vĩnh viễn giữ gìn tâm địa thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí tuệ.

Tôi được ân đức giáo huấn của thầy rất lớn. Tâm tôi mỗi niệm báo ân đối với thầy mạnh hơn nhiều lần so với người khác. Tôi cũng chân thật được lợi ích, đó là do tôi thật biết nghe lời, chân thật hợp tác với thầy. Thầy toàn tâm toàn lực dạy chúng ta, chúng ta phải hợp tác với họ mới có thể đạt lợi ích chân thật của giáo học. Đạo lý này không thể không hiểu. Thành tựu của thế xuất thế gian pháp, có rất nhiều người thành tựu kiệt xuất. Bạn thử tự đi tìm hiểu, nhất định họ tuân thủ giáo huấn của thầy giáo mới được thành tựu. Thành tựu của họ mới chắc thực, có gốc rễ bám sâu, sau đó cành lá mới xum xuê. Gốc của bạn bám không sâu thì làm sao được. Không luận thời đại thay đổi thế nào, tôi tin tưởng nguyên lý nguyên tắc học tập, vĩnh viễn sẽ không thay đổi.

Thế nhưng thời đại hiện tại không giống thời xưa. Ngày xưa khi chúng ta làm con cái, bị ràng buộc bởi cha mẹ, nhất định không dám phản kháng; đi học ở trường học nhận giáo huấn của thầy cũng không dám phản kháng ý thầy. Từ nhỏ đã tập thói quen giữ qui củ. Còn hiện nay là dân chủ mở rộng, đề xướng tự do phóng túng, cho nên con cái không nghe lời cha mẹ. Con cái ngày ngày xem truyền hình, chơi vi tính, biết quá nhiều thứ, rồi quay sang nói cha mẹ làm sai việc này, làm không đúng việc kia. Ở Đài Bắc, tôi gặp một thầy giáo trung học cũng là người học Phật, ông kể, con cái của ông thường hay về nhà dạy ông. Chúng hiểu biết rất nhiều. Học trò không nghe thầy giáo dạy bảo thì xã hội làm sao có thể được an định hoà bình. Loại thói quen này nếu tiếp tục phát triển thì xã hội tương lai là thế giới đại loạn.

Ai phá hoại xã hội? Ai tạo ra những động loạn này để tất cả chúng sanh chịu những đại khổ đại nạn? Xin nói với các vị, ma vương thứ nhất chính là truyền hình. Truyền hình vi tính là đại ma vương hủy diệt thế giới. Lời nói này không phải tôi nói mà thầy tôi nói, tiên sinh Đông Phương Mỹ. Lão sư Phương rất cảm khái, từng có người đến hỏi ông, vừa lúc hôm đó tôi cũng có mặt ở nhà thầy nên nghe được. Người ta hỏi ông, “Nước Mỹ ngày nay là nước mạnh nhất trên toàn thế giới; đương nhiên nước mạnh cũng sẽ bị diệt vọng như La Mã đã bị diệt vong. Nếu nước Mỹ tương lai bị diệt vong thì nhân tố thứ nhất là gì?” Thầy Phương trả lời là truyền hình.

Nước Mỹ không bị diệt do bên ngoài, làm gì có ai có thể đối đầu với họ. Chỉ có truyền hình làm cho thế hệ thanh niên trẻ nhỏ thảy đều bị hủy diệt. Chúng ngày ngày xem thấy, tiếp xúc toàn mặt không tốt. Nội dung diễn trên truyền hình đều là sát đạo dâm vọng, luôn quanh quẩn những đề tài này. Gần đây nhất, chúng ta xem thấy báo chí đưa tin, học trò nước Mỹ cầm súng ngắn giết thầy giáo, giết bạn học. Nước Mỹ không cần đánh giặc bên ngoài, chính trong nội bộ tự đánh nhau, do ai dạy? truyền hình dạy, vi tính dạy. Có người nói với tôi, trong vi tính còn dạy làm thuốc nổ, làm bom nguyên tử. Tương lai, một học sinh cao trung, từ vi tính cũng có thể chế tạo được bom nguyên tử. Bạn nghĩ xem như thế được sao?

Phương tiên sinh nói lời này không sai. Truyền hình, vi tính là đại ma vương. Ma vương này không có người nào không yêu nó. Chúng ta học Phật phải hiểu rõ chân tướng sự thật, nhất định phải nỗ lực chăm chỉ tu học, niệm Phật mà di dân đến thế giới Cực Lạc. Thế giới này đã loạn, chúng ta phải di dân đến nơi khác. Ngay từ bây giờ phải chuẩn bị sớm nếu không e không kịp. Đến được thế giới Tây Phương Cực Lạc, cũng giống như kinh này nói, hạ hạ phẩm vãng sanh, được oai thần bổn nguyện Phật A Di Đà gia trì, trí tuệ đức năng của bạn cùng với pháp thân đại sĩ không hai không khác.

Kinh nói rất hay, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là Bồ tát A Duy Việt Trí, việc này thật không thể nghĩ bàn. Bồ Tát A Duy Việt Trí không phải là Bồ tát Thập Trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. Bồ Tát A Duy Việt TríThất Địa trở lên. Hạ hạ phẩm vãng sanh sanh đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, tuy phiền não của chúng ta một phẩm cũng chưa đoạn nhưng đến Thế Giới Cực Lạc thần thông cùng đạo lực giống như Bồ Tát Thất Địa, vậy thì còn gì bằng. Cho nên có thể làm được “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.

“NGUYỆN Ư VÔ LƯỢNG THẾ GIỚI THÀNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC”

Cái “nguyện” này là bổn nguyện. Đến lúc cần thiết, tất cả chúng sanh mong cầu Phật xuất hiệnthế giangiáo hoá chúng sanh. Bạn thấy duyên đã chín muồi, đáng dùng thân Phật để độ, bạn liền có thể thị hiện thân Phật giúp đỡ chúng sanh. Như vậy bạn có năng lực nguyện ở vô lượng vô biên thế giới thành đẳng chánh giác. Đó là tùy loại hoá thân thù thắng nhất, cụ thể hoá thân Phật để độ chúng sanh. Hóa hiện thân Phật còn làm được, thì các thân phận khác như thân Bồ Tát, thân Thanh Văn, thân Duyên giác, thân sáu cõi không cần phải nói, thảy đều có thể làm được. Cho nên câu nói này đại biểu đại viên mãn ứng hoá, hóa thân đến mọi nơi, hiện thân ở mọi lúc, tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, giúp đỡ chúng sanh vô lượng thế giới.

Hiện tại chúng ta sống ở thế gian này, không gian hoạt động của chúng ta nhỏ hẹp thật đáng thương. Ở khu vực này, bạn được xem như tự do, tự tại. Mỗi ngày bạn ra ngoài vui chơi tham quan, nhưng không gian của bạn cũng không thể ra khỏi Singapore, không thể ra khỏi cái đảo nhỏ này. Muốn du lịch ra thế giới thì bạn phải có khoản tiền tương đối, vì vé máy bay khá đắt. Bạn còn phải có sức khoẻ tốt. Dốc hết sức thì không gian hoạt động của bạn vẫn chỉ trên địa cầu này, vẫn chưa có cách nào đến các tinh cầu khác. Không gian hoạt động của chúng ta nhỏ hẹp như vậy, trong khi bạn xem thấy kinh văn này là “vô lượng thế giới”.

Nếu bạn sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì không gian hoạt động của bạn là tận hư không khắp thế giới, mười phương tất cả chư Phật cõi nước, bạn nghĩ đến nơi nào thì người đã đến nơi đó, không cần dùng phương tiện giao thông, cũng không cần đến phi trường mua vé máy bay, làm nhiều thủ tục phức tạp. Ở ngay nơi đây vừa mới khởi niệm thì thấy Phật, thân thể đã ở ngay trước mặt Phật, bạn nói xem tự tại dường nào. Chúng ta phải thể hội ý này, không gian hoạt động phải mở rộng. Vô lượng thế giớikhông gian hoạt động của chúng ta, đương nhiên bao gồm cả thời gian. Thời gianquá khứ, hiện tại, vị lai. Chúng ta có thể trở về quá khứ cũng có thể đến tương lai. Mười phương ba đờikhông gian hoạt động của chúng ta. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì toàn bộ thảy đều thực hiện được. Kinh văn phía sau nói cho chúng ta nghe, nêu ra tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp; nêu ra đáng dùng thân Phật để độ, họ liền hiện thân Phật, đó là một thí dụ. Chúng ta từ thí dụ này có thể thể hội, ở bất cứ thân phận nào đều biến hiện tự tại, cho nên thần thông tự tại đạt đến viên mãn cùng tột.

“XẢ ĐÂU XUẤT”

Đó là tướng thứ nhất trong tám tướng thành đạo, “Hạ sanh”, như Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta. Bồ Tát bổ xứ, thông thường chúng ta gọi là Hậu Bổ Phật. Hậu Bổ Phật ở Đâu Xuất nội viện, vì sao họ không ở nơi khác? Vì trong đó có ý nghĩa biểu pháp. Ngày xưa thời đại của đế vương, thái tử chính là hoàng đế hậu bổ. Họ nhất định phải ở Đông cung, cũng có ý nghĩa biểu pháp. Phật khi còn làm Bồ Tát bổ xứ cũng đều ở cung trời Đâu Xuất. “Đâu Xuất” là tiếng Phạn, dịch sang Trung văn là “tri túc”. Tri túc thì thành Phật, không tri túc thì không thể thành Phật. Trời Đâu Xuất gọi là trời tri túc, có nghĩa thường lạc. Cho nên người trời Đâu Xuất rất an vui, thân tâm thường lạc.

Hoàn cảnh đời sống quá tốt, thế nhưng vì để hoá độ chúng sanh khổ nạn, hoàn cảnh đời sống của chính mình có tốt hơn cũng phải xả bỏ, đó mới là đại từ đại bi, chỉ biết lợi ích tất cả chúng sanh, không bằng lòng để an thân hưởng lạc. Tóm lại, ngài dạy chúng ta xả đắc. Đạt được hoàn cảnh đời sống thù thắng như vậy, ngài vẫn xả. Đem những gì đạt được xả bỏ hết, đó là ý chính. Trong “Lễ Ký” của nhà Nho nói “an an nhi năng thiên”, là ý này. Hai chữ “an” chỉ đời sống của bạn, thân an tâm cũng an. Hai chữ “an” có ý nghĩa như Đâu Xuất. Nhưng vì phúc lợi xã hội đại chúng, mọi người cần đến bạn, bạn phải bước ra phục vụ xã hội đại chúng, hy sinh phụng hiến.

Trong lịch sử Trung Quốc, thời đại Tam Quốc, tiên sinh Khổng Minh Gia Cát Lượng, vào thời loạn thế, mấy người bạn của ông đều ẩn cư nơi núi sâu, cả đời không xuất hiện. Vốn dĩ ông cũng ẩn cư nơi Lũng Trung, bị người phát hiện. Lưu Bị ba lần đến chòi tranh, ông đành phải xả bỏ đời sống an ổn của chính mình, bước raxã hội, vì quốc gia phục vụ. Ông đã làm được tám chữ “cúc cung tận tuỵ, tử nhi hậu kỷ”.

Phật vì tất cả chúng sanh khổ nạn, an vui ở cung trời Đâu Xuất, tầng trời thứ hai mươi tám, bất cứ tầng trời nào cũng đều không thể so sánh, đó là nơi thánh hiền cư ngụ; vậy mà ngài có thể xả bỏ. Đó là dạy chúng ta, không luận hoàn cảnh đời sống của mình thư thích thế nào, an ổn đến thế nào, nếu vì chúng sanh, vì xã hội, vì quốc gia, chúng ta nhất định phải hy sinh phụng hiến.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11621)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11930)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11334)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12549)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10757)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17968)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12345)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11230)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14319)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12089)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15346)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11992)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12388)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11155)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12073)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10598)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13155)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14801)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12663)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16539)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19633)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13101)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12249)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11830)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10893)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13490)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11937)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11836)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12755)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12886)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9855)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18004)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11152)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12169)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13035)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10290)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12177)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15289)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16586)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12203)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14261)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19685)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14137)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24587)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10676)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant