- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 10
- Phần 11
- Phần 12
- Phần 13
- Phần 14
- Phần 15
- Phần 16
- Phần 17
- Phần 18
- Phần 19
- Phần 20
- Phần 21
- Phần 22
- Phần 23
- Phần 24
- Phần 25
- Phần 26
- Phần 27
- Phần 28
- Phần 29
- Phần 30
- Phần 31
- Phần 32
- Phần 33
- Phần 34
- Phần 35
- Phần 36
- Phần 37
- Phần 38
- Phần 39
- Phần 40
- Phần 41
- Phần 42
- Phần 43
- Phần 44
- Phần 45
- Phần 46
- Phần 47
- Phần 48
- Phần 49
- Phần 50
- Phần 51
- Phần 52
- Phần 53
- Phần 54
- Phần 55
- Phần 56
- Phần 57
- Phần 58
- Phần 59
- Phần 60
- Phần 61
- Phần 62
- Phần 63
- Phần 64
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 39)
Pháp Sư Tịnh Không
Thứ sáu, “Lợi hòa đồng huân”
Điều này rất quan trọng. Phật nói pháp, điều quan trọng nhất là câu thứ nhất và câu sau cùng. Lợi là phước báu cá nhân của chúng ta. “Lợi hòa đồng huân”, tức có phước cùng hưởng. Ta có phước báu phải cùng hưởng với tất cả mọi người. Họ có phước báu thì ta không cần hưởng của họ. Chúng ta chỉ bỏ ra, không hề cầu lấy, tâm của bạn mới thanh tịnh, mới tương ưng. Ta có phước báu cung cấp cho người cùng hưởng, người khác có phước báu ta cũng hưởng, như vậy liền biến thành “có báo có thưởng”, là có qua có lại, thành ra làm ăn buôn bán, vậy là chưa giác ngộ. Người chân thật giác ngộ chỉ có phụng hiến không có cầu lấy, tâm thanh tịnh tự tại.
Xin nói với các vị, nếu chân thật làm được như vậy, phước báu của bạn ngày càng nhiều, vì sao? Đức năng vốn đủ trong tự tánh hiện tiền, chướng ngại trong tự tánh được thanh trừ. Còn ta có một ý niệm muốn hưởng phước người khác, đó là chướng ngại, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Khi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều không còn thì phước đức của tánh hiện tiền. Chúng ta xem thế giới Tây Phương Cực Lạc trong kinh điển, thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật trên kinh Hoa Nghiêm, loại thù thắng trang nghiêm đó không những nhân gian không có mà đại phạm thiên cũng không có.
Các vị nên biết, phước báu này không phải do tu được mà từ trong tự tánh biến hiện ra. Trong tự tánh vốn sẵn đầy đủ, chỉ cần chúng ta nỗ lực làm, lợi hòa đồng tu, tánh đức liền có thể hiện tiền. Giả như vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn chưa đoạn, bạn tu bố thí, tu cúng dường, thì có thể được phước. Bạn có là do tu đức cả đời, đó không phải là phước đức trong tự tánh vốn có. Phước đức của bạn đã tu có thể báo được hết, cũng chính là có thể dùng được hết. Nếu không tiếp tục tu, phước báu dùng hết rồi thì không còn nữa. Việc này chúng ta rất dễ dàng nhìn thấy trong xã hội.
Tài bố thí
Trong kinh luận Phật nói với chúng ta, phước báu của người thế gian, tiền của là do tu tài bố thí mà được. Bạn bố thí càng nhiều thì tiền của mà bạn có được càng nhiều. Ngày nay chúng ta xem thấy trên thế giới, có rất nhiều thương nghiệp qui mô, xí nghiệp to lớn, họ có nhiều tiền của, do đâu mà có? Do đời trước tu được, họ có rất nhiều là do rất nhiều đời tu tích, đến đời này duyên chín muồi, nên phát tài nhiều như vậy, được quả báo thù thắng đến như vậy.
Thế nhưng hưởng phước là một việc phiền não, vừa hưởng phước thì liền hồ đồ, liền bị phước báu mê. Sau khi mê, họ không chịu tiếp tục tu phước nữa. Không có trí tuệ, cho dù muốn tu phước, làm chút việc tốt, một số việc từ thiện phúc lợi xã hội, phước báu có được rất nhỏ. Họ không hiểu việc tu tích phước báu lớn thù thắng, cụ thể như thông minh trí tuệ là quả báo của tu pháp bố thí. Thế gian có người thông minh trí tuệ nhất đẳng, siêu vượt người bình thường, do đời quá khứ, người này đã tu pháp bố thí. Khỏe mạnh sống lâu là trong đời quá khứ tu tích vô úy bố thí. Do đây có thể biết đạo lý của nhân duyên quả báo cùng với chân tướng sự thật là chân thật bất hư, tu nhân thế nào thì được quả báo thế đó.
Xã hội ngày nay, nhất là vào những năm 1998 này, nếu các vị bình lặng quan sát sẽ thấy xã hội tràn đầy nguy cơ, cả thế giới không tìm ra một nơi an toàn. Không luận địa vị của bạn, tiền của, quyến thuộc của bạn, liệu bạn có giữ được hay không? Không ai dám chắc. Người đầu óc sáng suốt, hiểu rõ qua được một ngày tính một ngày, ai biết được ngày mai sẽ như thế nào. Nhất là hiện tại nói đến kinh tế bấp bênh. Kinh tế bấp bênh chính là “mộng huyễn bào ảnh” mà kinh Kim Cang nói. Họ chưa đọc kinh Kim Cang nhưng cũng biết “bào ảnh”, biết những thứ này không tồn tại, cho nên chúng ta nhất định phải cảnh giác cao độ. Làm thế nào để giữ gìn? Cần tu bố thí.
Bố thí nếu không trước tướng, công đức không thể suy lường. Còn chấp tướng bố thí chỉ đem đến phước báu có lượng. Trên kinh luận Phật thường nói, chúng ta ngay trong giảng giải cũng thường hay nghe đến. Nếu chân thật giác ngộ thì phải mau làm, không làm e rằng tương lai ngay đến cơ hội tu phước cũng không có. Bạn xem khu vực Đông Nam Á hiện tại có rất nhiều quốc gia, giá trị tiền tệ đang mất dần, cho nên hành thiện bố thí phải mau làm. Ngày nay bạn tu công đức một trăm vạn, qua vài ngày thì biến thành năm mươi vạn, mất đi phân nửa, phước báu của bạn liền rơi xuống thấp. Do đó nắm lấy cơ hội phải mau làm mới là người thông minh, là người chân thật có trí tuệ. Tiền tài không nên để bên mình, không nên để trong nhà, ở ngân hàng, ngay cả ở quầy bảo hiểm cũng đều không đáng tin. Chỉ có đem bố thí ra để tất cả chúng sanh cùng hưởng, phước báu đó vĩnh viễn không hư. Thế thì vì sao chúng ta lại không đem những thứ bọt nước bấp bênh này biến nó thành kim cang? Đem nó vĩnh viễn không hư hoại?
Pháp bố thí
Những đồng tu ngồi đây, có mấy người giác ngộ, mấy người chân thật chịu phát tâm? Tôi nói lời thật, tôi không cần các vị bố thí cho tôi, một xu tiền tôi cũng không dùng đến, quyết không lừa gạt các vị. Nếu muốn có trí tuệ, muốn được thông minh thì nhất định phải tu pháp bố thí. Hiện tại nơi đây chúng ta tu pháp bố thí ngày càng thuận tiện. Ở Cư Sĩ Lâm giảng kinh, mỗi tuần bảy ngày từ đầu năm đến cuối năm không gián đoạn. Bạn có thể giới thiệu bạn bè thân thích đến nghe kinh, đó là pháp bố thí. Mỗi lần chúng ta giảng kinh nơi đây đều có thu âm thu hình. Bạn đem tặng cho bạn bè thân thích cũng là thuộc về pháp bố thí. Chưa kể bên ngoài giảng đường, kinh sách kết duyên rất nhiều. Mỗi ngày bạn đến, thấy chính mình đã có rồi nên không muốn xem nữa. Thử nghĩ xem còn có những người quen biết nào vẫn chưa tiếp xúc được, ta có thể tặng cho họ, khuyên bảo mọi người tận dụng cơ duyên tiếp xúc Phật pháp, đọc kinh Phật, đó đều thuộc về pháp bố thí. Quả báo của pháp bố thí là khai trí tuệ.
Vô úy bố thí
Trong vô úy bố thí, điều thứ nhất là ăn chay, không sát hại chúng sanh, không kết oán thù với tất cả chúng sanh. Thứ hai là hộ sanh, bảo hộ xã hội an định, bảo hộ an toàn sinh mạng cho tất cả chúng sanh, đây thuộc về bố thí vô úy. Trong bố thí vô úy không có sát sanh, không trộm cắp, trong ngữ nghiệp bao gồm: không nói hai chiều, khiêu khích phải quấy, khuấy động đôi bên. Tội lỗi này rất nặng, vì làm cho xã hội an định bị tổn hại. Tội nghiệp này phải nhận lấy rất nhiều khổ báo.
Cho nên chúng ta phải ghi nhớ sáu phép hòa kính, phải rõ ràng tường tận ý nghĩa trong sáu phép này, hiểu lý luận biết phương pháp, đem nó thực tiễn ngay trong cuộc sống. Trong một nhà của bạn tu sáu phép hòa kính, mỗi người đều y theo lời giáo huấn của Phật, gia đình của bạn liền được gọi là tăng đoàn. Tăng đoàn không phải chỉ đoàn thể người xuất gia mà chỉ nhóm từ bốn người trở lên cùng ở chung với nhau, y theo sáu phép hòa kính mà tu hành. Tăng là ý nghĩa của thanh tịnh, hòa thuận. Cái đoàn thể nhỏ, đôi bên thân tâm thanh tịnh, hòa thuận cùng chung sống, không phân tại gia xuất gia, không phân nam nữ già trẻ cũng không phân bất cứ nghề nghiệp nào. Bốn người cùng ở với nhau y theo phương pháp này mà tu thì gọi là tăng đoàn. Tăng đoàn xuất hiện, nhất định sẽ được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ, vì đáng được người tôn kính.
Bạn xem chúng ta đọc lời phát nguyện Tam quy y: “Qui y tăng chúng trung tôn”. “Chúng” là đoàn thể. Đoàn thể được người tôn kính chính là tăng đoàn, đó cũng là loại đoàn thể tu sáu phép hòa kính. Thế Tôn dạy chúng ta cùng sống chung với mọi người phải nên có tâm trạng như thế nào, phải hành trì như thế nào, đều là dạy chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật, chưa nói đến Phật pháp. Nói cách khác, trước khi học Phật thì phải học làm người cho tốt. Tam Phước, Lục Hòa đều là căn bản để làm người. Từ nền tảng này mà nâng lên cao, đó là học Phật.
Tam học
Học Phật phải bắt đầu từ đâu? Phật đem tất cả cương lĩnh của Phật pháp dạy bảo chúng ta. Tất cả pháp mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói suốt bốn mươi chín năm quy nạp lại không ngoài giới định huệ. Nói cách khác, việc này giống như bạn đến cửa Phật cầu học, Phật bèn đem khóa trình giáo học của ngài bày ra cho bạn xem, ngày nay chúng ta gọi là tam tạng kinh điển, cụ thể là kinh luật luận. Kinh là định học, luật là giới học, luận là huệ học.
Mỗi lần Phật nói pháp, không luận cạn sâu, dài ngắn nhất định không rời khỏi ba nguyên tắc này. Rời ba nguyên tắc này thì không phải Phật pháp. Người đời sau biên tập đại tạng kinh, nếu đem những kinh điển này phân thành ba loại thì khó. Trong mỗi kinh đều đầy đủ tam học, vậy phải phân thế nào? Người xưa chỉ còn cách xem trong từng bộ kinh, tam học này được nói nhiều ở bộ nào, tam học kia được nói sâu ở kinh nào. Thí dụ kinh Vô Lượng Thọ chứa đầy đủ tam học giới định huệ, nói định tương đối sâu, số lượng chiếm nhiều, có thể đem phân vào tạng kinh. Thế nhưng tỉ mỉ mà xem, bộ kinh này, từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy chính là giới luật hay giới học nên cũng có thể xếp nó vào tạng luật, việc này chúng ta cần thấu hiểu. Bất cứ bộ kinh nào cũng đều đầy đủ tam học, cho nên tam học là tổng cương lĩnh tu học của chúng ta.
Ngay trong cuộc sống thường ngày, khởi tâm động niệm lời nói việc làm nhất định phải tương ưng với tam học. Khởi tâm động niệm tương ưng với trí tuệ, định học; lời nói việc làm của chúng ta tương ưng với giới học, vậy thì bạn chân thật học Phật. Phật Bồ tát mỗi niệm đều tương ưng tam học, hạnh hạnh đều viên mãn tam học, đó là tổng cương lĩnh, không thể không nắm lấy. Đem cái cương lĩnh này áp dụng trong đời sống tu học, đây gọi là lục độ của Bồ tát, tức sáu nguyên tắc của đời sống Bồ tát mà chúng ta cần tuân thủ.
LỤC ĐỘ
Thứ nhất, “Bố thí”
Ý nghĩa của bố thí rất rộng. Bố thí dạy chúng ta buông bỏ, buông bỏ cái gì? Chúng ta có phiền não vì sao lại không đem phiền não buông bỏ, chúng ta có ngu si phải đem ngu si buông bỏ, có ác nghiệp thì đem ác nghiệp buông bỏ, và có sanh tử cũng phải đem sanh tử buông bỏ, thảy đều bố thí hết. Phàm phu nói có thể buông bỏ mọi thứ nhưng thân thể thì không thể buông, vậy vẫn phiền não. Thân là thân nghiệp báo, sau khi buông bỏ, thân này liền biến thành thân tự tại.
Tương lai ở Hoa Nghiêm, chúng ta sẽ nói đến mười loại thân. Phật có, chúng ta cũng có, nhưng bởi vì chúng ta không buông bỏ được cái thân nghiệp báo này, nên trí thân, pháp thân, Bồ Đề thân, ý sanh thân của chúng ta thảy đều không thể xuất hiện. Bạn nói xem có đáng tiếc không? Quả nhiên nếu đem thân nghiệp báo này xả đi, thì mười cái thân trên quả địa Như Lai của chúng ta cũng thấp thoáng mờ ảo xuất hiện, đó mới là hạnh phúc chân thật mỹ mãn. Tất cả pháp thế xuất thế gian bạn đều không chấp trước, buông bỏ, nhất quyết không chiếm làm của riêng. Chiếm làm của riêng liền biến thành nghiệp chướng, nhất định chướng đạo, chướng tánh. Người thông minh biết thân này không phải chính mình, huống hồ vật ở ngoài thân.
Bồ tát trên kinh Hoa Nghiêm nói, “ta nói ta, ta không chấp trước ta, ta cũng không chấp trước cái của ta”. “Ta” biểu đạt ý kiến, một loại phương tiện câu thông với chúng sanh, đó là phương tiện khéo léo. Mi mắt có thể truyền đạt ý, đều thuộc về câu thông. Bạn có thể dùng nhưng không chấp trước, vừa chấp trước liền biến thành tạo nghiệp. Cho nên không chấp trước, không phân biệt mới là công đức. Bạn vận dụng phương tiện thiện xảo một cách tự tại, không dính mắc, biết được tất cả pháp như “mộng huyễn bào ảnh”, không sở hữu, tất cả pháp không thể có được. Kinh Đại Bát Nhã nói “bất khả đắc, vô sở hữu”, sáu chữ này tôi đã nói hàng trăm lần, đó đều là thế tôn phương tiện khéo léo để nói pháp. Cho nên chúng ta phải hiểu được chân đế của bố thí, phải biết bố thí làm thế nào học tập ngay trong cuộc sống thường ngày.
Thứ hai, “Trì giới”
Trì giới là giữ phép, giữ qui củ. Nếu không tuân thủ pháp độ, không tuân thủ qui củ, thì không chỉ Phật pháp mà thế pháp dù bạn muốn thành công cũng khó, gọi là “bất y qui củ bất thành phương viên”. Chúng ta muốn vẽ vòng tròn phải dùng compa, muốn vẽ hình vuông phải dùng thước, nên y qui củ mới có thể vẽ vòng tròn không bị sai. Ngay việc nhỏ của thế gian đều phải tuân thủ theo qui củ thì bạn mới thành tựu, huống hồ đại pháp xuất thế gian.
Người hiện tại học Phật, xuất gia tại gia tứ chúng đồng tu, tôi xem mọi người rất nỗ lực, rất phấn đấu, chuyên cần học Phật pháp, dũng mãnh tinh tấn, ngủ nghỉ đều không đủ, nhưng phấn đấu như vậy mà sao vẫn không nhận được hiệu quả? Do nguyên nhân không đúng pháp. Không đúng pháp chính là không hiểu qui củ, tuy phấn đấu mà vẫn không nhận hiệu quả, không nắm được trọng điểm, đây là nhân tố rất quan trọng. Nếu chúng ta không tiêu trừ nhân tố này thì mười năm, hai mươi năm, thậm chí cả đời vẫn không thành tựu.
Kỳ thật lý luận phương pháp đều ở ngay trong đó, tuy chúng ta mỗi ngày đọc tụng nghiên cứu, thậm chí giảng giải, kỳ thật chưa thể hội, chưa khế nhập được. Như “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức”, chúng ta đã làm hay chưa? “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện”, chúng ta có cụ túc hay không? Không cần nói đủ, chỉ cần được một phần hai phần cũng có lợi ích rồi. Nếu nói không có chút hạnh nguyện nào thì Phật pháp của bạn không có gốc, không có nền tảng. Phía trước đã trình bày qua, tam phước lục hòa là căn bản. Chúng ta không tu học từ căn bản nên tam học lục độ Bồ tát vạn hạnh thảy đều trống không, khởi tâm động niệm vẫn cứ là tâm luân hồi, mỗi ngày tạo tác vẫn là nghiệp luân hồi, như vậy làm sao có thể siêu thoát luân hồi? Không những bạn không thể siêu thoát luân hồi mà ngay đến cầu vãng sanh cũng có chướng ngại.
Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam cuối đời đã nói: “Một vạn người niệm Phật chân thật vãng sanh chỉ có ba đến năm người mà thôi”, pháp môn này người xưa nói “vạn người tu vạn người đi”, vì sao một vạn người chỉ có năm, ba người? Vì không đúng pháp, không giữ qui củ, tùy tiện. Tùy tiện chính là thả theo phiền não tập khí của chính mình, tùy theo phiền não tập khí của chính mình mà lưu chuyển, nên việc tu học nếu muốn thành tựu cũng rất khó.
Thứ ba, “Nhẫn nhục”
Nhẫn nhục là nhẫn nại, phải có tâm nhẫn nại rất lớn. Pháp thế gian, việc càng lớn thì mức độ khó càng cao, không có tâm nhẫn nại sẽ không làm được viên mãn. Phật pháp đại sự xuất thế gian, đại nghiệp phổ độ chúng sanh, phải có tâm nhẫn nại như thế nào mới có thể làm thành công? Nhẫn nại không gì bằng, tâm nhẫn nại vĩnh hằng. Học Phật nếu chưa có tâm nhẫn nại thì quyết không thành tựu.
Kinh Phật đem những sự tướng của con người chúng ta quy nạp thành ba loại lớn nhằm tiện lợi cho giáo học. Việc thứ nhất, nhẫn người làm hại mình. Thế xuất thế pháp xưa nay trong và ngoài nước gần như đều có một định luật gọi là “việc tốt nhiều dày vò”. Không có việc tốt nào mà thuận buồm xuôi gió. Việc tốt càng lớn thì ma chướng càng nhiều. Nếu bạn không nhẫn nại thì bạn làm sao có thể thành công. Cho nên phải có tâm nhẫn nại cực lớn. Quan trọng nhất là phải khắc phục phiền não tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay của chính mình. Việc này quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Sự hãm hại, đố kỵ, hủy báng, nhục mạ, làm hại của người đều phải được nhẫn chịu, phải thấy như không có việc gì, phải tâm bình khí hòa, tiếp nhận những chướng nạn này.
Loại thứ hai là tai hại tự nhiên, thí dụ lạnh nhiều nóng nhiều. Đó là thay đổi khí hậu, bạn phải nhẫn nại. Trời quá nóng bức, bạn đâm ra giải đãi, không thể hành trì thời khóa, vậy không được. Phải nhẫn chịu tất cả những thứ tai hại của tự nhiên. Nhất định không thể cải biến, hoặc giảm sự tu học của chính mình. Nhất định phải dũng mãnh tinh tấn. Trong Văn Sao của đại sư Ấn Quang, lão pháp sư có một đoạn văn tự, một bức thư rất dài gửi cho cư sĩ Vệ Miên Châu. Vị cư sĩ này học dưới hội của lão pháp sư, tiếp nhận truyền thụ tam quy y. Ông ấy gặp tai nạn, nhà bên cạnh phát hỏa làm cho phòng ốc của nhà ông cháy rụi, tài sản trở thành một đống tro. Vì việc này mà người vợ ông qua đời. Nhà tan người mất, nên ông một ngày từ sớm đến tối như ngây như dại, ngu ngu khờ khờ. Có đồng tu đem việc này nói với đại sư Ấn Quang. Đại sư bèn viết một bức thư rất dài khai thị chỉ bảo cho ông.
Nếu người chân thật học Phật gặp tai nạn này phải nên nghĩ thật thông. Tất cả huyễn hoá vô thường thế gian, ngày trước có nhà, có tích lũy còn bận tâm, hiện tại lửa cháy sạch, không phải càng tốt hay sao? Không còn bất cứ thứ gì thì một lòng niệm Phật quyết vãng sanh. Khi ý niệm vừa chuyển thì đám lửa này liền trở thành tăng thượng duyên tốt. Có mấy ai trong tai nạn có thể chuyển tâm được. Nhất định phải tu nhẫn nhục Ba La Mật, trí tuệ cao độ. Tai nạn lớn là nghịch tăng thượng duyên không những đối với đạo nghiệp của chính mình, trái lại còn xúc tiến, nâng cao.
Trong nhẫn nhục còn vấn đề cách tu. Tu hành thời gian phải dài, bất cứ pháp môn nào đều có độ sâu và độ rộng của nó, thời gian ngắn không thể tu tập thành tựu. Ngoài ra phải thân cận thiện tri thức. Thân cận thiện tri thức không dễ dàng, thời xưa gọi là “hành cước”, hiện tại gọi là “bái sơn”. Người hiện tại gọi “bái sơn” là tham quan du lịch, hoàn toàn sai ý nghĩa. Bái sơn là tham phỏng thiện tri thức, là đi cầu học, thỉnh giáo.
Thời xưa ở Trung Quốc có một vị tham học nổi tiếng, làm tấm gương cho người đời sau, đó là hoà thượng Triệu Châu, tám mươi tuổi vẫn hành cước, vẫn đến khắp nơi tham phỏng. Vì sao ông không ngồi lại nghỉ ngơi cho khỏe? Vì chính mình vẫn còn nghi hoặc, vẫn chưa thể đoạn nghi sanh tín thì cần phải thân cận thiện tri thức, đem cái nghi hoặc khai mở, lúc đó tín tâm thanh tịnh kiên cố mới sanh khởi ra.
Có nghi vấn là có chướng ngại, mục đích tham học là đoạn nghi sanh tín, một việc làm rất khổ cực. Bạn phải đi lắng nghe xem nơi nào có thiện tri thức thì đến nơi đó thỉnh giáo, đó là gian khổ của tu học. Lại nói, đoạn phiền não, đoạn tập khí, khó xả mà có thể xả, khó làm mà có thể làm đều dựa vào nhẫn nhục. Không nhẫn nhục sẽ làm không được. Cho nên nhẫn nhục Ba La Mật trong lục độ là điều vô cùng quan trọng.
Thích Ca Mâu Ni Phật ở hội kinh Kim Cang nói Bồ tát lục độ, đặc biệt nói nhiều về bố thí nhẫn nhục, đó chính là nói với chúng ta rằng trong lục độ thì hai điều này là quan trọng nhất. Bố thí dạy bạn buông bỏ, khó xả cũng xả. Nhẫn nhục là then chốt thành tựu của chính bạn. Bạn có thể nhẫn, sau đó mới có thể tinh tấn, thiền định, Bát nhã. Nếu không thể nhẫn thì những điều phía sau thảy đều không có. Bạn tu bố thí, trì giới là phước báu hữu lậu sáu cõi. Phước đức không phải công đức, nhưng nếu có nhẫn nhục thì phước đức biến thành công đức.
Thứ tư, “Tinh tấn”
Sau khi nhẫn nhục mới có tinh tấn. Tinh là thuần mà không tạp, tấn là tấn mà không thoái, đạo nghiệp của bạn làm sao không thành tựu. Đạo nghiệp thành tựu thì tất cả đều thành tựu, sự nghiệp trên thế gian của bạn cũng thành tựu viên mãn. Bồ tát kinh doanh sự nghiệp thế gian. Sự nghiệp kinh doanh của họ thảy đều là đạo nghiệp thành tựu Bồ Đề Niết Bàn, thành tựu chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tự tha hưởng lợi. Bồ tát thị hiện tại gia, thân phận nam nữ già trẻ, làm các ngành nghề. Bạn phải biết đều là đạo nghiệp, ý niệm đó vừa chuyển thì siêu phàm nhập thánh, còn gì bằng. Phàm phu mỗi ngày mặc áo ăn cơm trong phiền não, còn Bồ tát mỗi ngày mặc áo ăn cơm là tu hành, tinh tấn, sau mới có thiền định.
Thứ năm, “Thiền định”
Hiện tại chúng ta thấy nhiều người tu định, mỗi ngày ngồi thiền thời gian rất dài nhưng không hề thấy họ có định, do nguyên nhân gì? Thành thật mà nói, chưa có nhẫn nhục làm sao được định. Người ta tán thán mấy câu thì vui mừng, mắng vài câu thì tức giận mấy ngày không tiêu được, thì làm sao được định. Có xếp bằng ngồi quay mặt vào vách, dáng vẻ rất giống, nhưng chỉ để khởi vọng tưởng, không thật vào định. Làm sao ta biết họ khởi vọng tưởng? Vì mắng họ vài câu thì họ tức giận. Khởi tâm động niệm vẫn còn danh vọng lợi dưỡng, vẫn có phải quấy nhân ngã, đều rơi vào phiền não, không liên quan gì tới sự hành trì tu tập, cho nên họ không thể được định.
Người chân thật được định, tâm địa mát mẻ tự tại. Cái gì là định? Đề kinh này của chúng ta, tâm thanh tịnh là định, tâm bình đẳng là định. Tâm của họ thanh tịnh bình đẳng thì không có phiền não, ý niệm tham sân si không sanh. Bình đẳng là không có phải quấy nhân ngã. Cho nên công phu của thiền định hoàn toàn trừ bỏ phiền não bất bình. Khi sức định đạt đến mức độ nhất định thì trí tuệ liền khai. Giác chính là trí tuệ Bát Nhã. Bát Nhã hiện tiền thì công đức liền thành tựu. Công đức chính là phiền não vọng tưởng chấp trước đã chuyển đổi.
Thứ sáu, “Trí tuệ”
Các vị nên biết, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước cũng không phải là việc xấu. Ngày nay chúng ta phiền não nhiều, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước rất nặng, xin nói với các vị, đó là việc tốt không phải xấu. Ngay khi công phu thiền định của bạn sâu, chuyển phiền não thành bồ đề, vừa chuyển thì quay lại. Tướng tông nói:
“Chuyển đệ lục ý thức,
vi diệu quán sát trí.
Chuyển mạt na thức,
vi bình đẳng tánh trí.
Chuyển tiền ngũ thức,
vi thành sở tác trí.
Chuyển A Lại Da,
vi đại viên cảnh trí”
Sức định, thiền định mức độ sâu mới chuyển được. Cái chuyển này là trong định sanh trí tuệ. Xin thưa, nếu như không có phiền não thì không có Bồ đề. Phiền não càng hướng bồ đề càng lớn, cho nên không cần sợ phiền não, cũng không cần phải lo. Đến lúc đó ta chỉ chuyển đổi lại thành Vô Thượng Bồ Đề. Lưu ý Phật pháp nói chuyển, tuyệt nhiên không nói “diệt”. Nếu đem phiền não đoạn diệt, phiền não diệt mất rồi thì Bồ Đề cũng diệt luôn, phiền phức sẽ to. Bồ Đề Niết Bàn là tự tánh Bát Nhã bị mê vọng chuyển biến thành phiền não. Vốn dĩ là Bồ Đề, bởi vì mê mất tự tánh mới biến thành phiền não. Hiện tại vừa giác ngộ thì lại đem nó chuyển đổi, không phải thật đã đoạn. Thật đã đoạn thì Bồ Đề không có, tự tánh cũng không còn, vậy thì luống không. Phật pháp không phải là đoạn diệt không. Ý nghĩa Phật pháp nói “không” rất sâu. “Không” không phải là vô, không phải đoạn diệt. Không là hữu vi. Hữu là không tự tánh, không có tự thể, cho nên pháp duyên sanh, duyên khởi tánh không, phàm hễ nhân duyên sanh ra đều không có tự tánh, không có tự thể, “đường thể giai không, liễu bất khả đắc”. Không phải không có tướng, không phải không có tác dụng. Tướng và tác dụng chúng ta có thể dùng nhưng quyết không chấp trước và chiếm hữu nó. Bạn muốn chiếm hữu, muốn chấp trước nó thì sai. Khác biệt phàm thánh chính ngay khoảng một niệm.
Tứ hoằng thệ nguyện
Không luận Phật pháp tiểu thừa đại thừa, từ đầu đến cuối đều chú trọng ở hành. Giải vẫn trước hành, chúng ta không thể không biết. Phía sau hành còn có nguyện, chữ này rất quan trọng. Trên kinh luận, nhất là chú sớ của cổ đức, gọi là “tương chất của hạnh nguyện như đôi cánh của chim, như hai bánh của xe”, nhằm nói rõ quan hệ của chúng rất mật thiết, “nguyện dĩ đạo hành”, nguyện là chỉ đạo; “hạnh dĩ tiễn nguyện”, ngay trong cuộc sống thường ngày phải thực tiễn cái nguyện của chúng ta.
Ngài Thanh Lương trên kinh Hoa Nghiêm giảng về phát nguyện. Trong nguyện quan trọng nhất là dùng tâm chân thành làm nền tảng của đại nguyện. Tất cả đại nguyện của Phật Bồ tát trong nhân địa phát ra đều nương tâm Bồ Đề. Ngài Thanh Lương nói về tâm bồ đề tương đối tường tận: “Hữu tâm chi lễ, hữu tâm chi tướng, hữu tâm chi đức”. Tâm chi lễ, trong kinh luận nói “trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm”, đây là cái lễ của tâm. Pháp môn tịnh độ, tục thường gọi pháp môn phương tiện trong đại thừa, cũng phải nương vào tâm bồ đề. Ở quyển kinh này, chúng ta xem thấy điều kiện của ba bậc vãng sanh luôn là “phát tâm bồ đề, một lòng chuyên niệm”, có thể thấy phát tâm rất quan trọng. Nhiều vị đồng tu xem thường việc này, cho rằng chỉ cần một lòng chuyên niệm Phật thì được, đến sau cùng khi lâm chung vẫn cứ bối rối chân tay, không được thọ dụng, nguyên nhân do kém khuyết tâm bồ đề. Tám chữ điều kiện vãng sanh, bạn chỉ làm bốn chữ thì chưa được. Bạn chỉ làm “một lòng chuyên niệm”, nhưng không “phát tâm bồ đề”, cho nên vẫn không thể vãng sanh.
Phát tâm rất quan trọng, thâm tâm trong phát tâm bồ đề chính là nguyện tâm, hiếu thiện hiếu đức. Thông thường nói, chư Phật Như Lai tứ hoằng thệ nguyện phát ra ở nhân địa, thực ra tất cả chư Phật trong nhân địa phát ra vô lượng đại nguyện, đem quy nạp lại không ngoài bốn điều này. Thậm chí bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà cũng có thể quy nạp trong bốn nguyện này. Cho nên bốn nguyện này biến thành pháp môn đại thừa, chứa căn bản đại nguyện trong đó.
Nguyện thứ nhất, “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”
Nhất định phải phát tâm nguyện độ chúng sanh. Bồ tát nếu không độ chúng sanh, không giáo hoá giúp đỡ chúng sanh, tâm bồ đề của họ không hiển lộ thì họ không thể viên mãn được công đức, đạo lý này tuyệt nhiên không khó hiểu. Người thế gian chúng ta thường nói “Giáo học tương trường, sư chất đạo hợp”, thầy giáo dạy học trò, học trò cũng thường khải phát thầy giáo. Thầy giáo do học trò chất vấn nghi tình, hoặc giả ngay trong cuộc sống thường ngày, thầy giáo xem thấy thường hay cảm ngộ. Cái cảm ứng này giúp họ khai ngộ. Nếu không tiếp xúc học trò thì làm sao có thể thành công. Cho nên tánh đức viên mãn nhất định phải dựa vào tiếp xúc rộng rãi quần chúng mới hiện khởi được. Đó chính là lý do vì sao Thiện Tài phải năm mươi ba lần tham học. Nếu ngài không tham học, trí tuệ của ngài sẽ không thể viên mãn. Ở thế gian này, bất cứ người nào, bất cứ phương thức đời sống nào, bất cứ nghề nghiệp nào, Thiện Tài đều phải tham học.
Do đây có thể biết tu hành không phải tự nhốt mình trong nhà mà tu. Nhốt trong nhà nhất định tu không thành, điểm này các vị đồng tu cần phải biết. Nhốt trong nhà hưởng phước, đã hưởng phước thì trí tuệ làm sao sanh khởi được. Chúng ta cũng từng nghe qua, nhà Phật tại gia xuất gia thường hay bế quan, lều tranh cấm túc, nhưng đó không phải là việc của người mới học, mà là việc của những người nào? Những người đã thông qua tham học, hai trí viên mãn thành tựu, chính là căn bản trí và hậu đắc trí. Nói cách khác, họ tốt nghiệp rồi, không còn nơi để tham học nữa. Lúc này, phải nên phát nguyện giáo hoá chúng sanh. Thành tựu trí tuệ chính mình thì phải dạy người, đây là thường qui củ của chư Phật Như Lai.
Sau khi thành Phật không phải không có việc làm, không phải ngồi ở miếu để người ta cúng dường lễ bái. Sau khi thành Phật thì phải phổ độ chúng sanh, giáo hoá chúng sanh. Phật pháp là sư đạo, sư rất tôn quý, “tôn sư trọng đạo”. Vào thời xưa Phật pháp cùng thế pháp giống nhau, “chỉ văn lai học, dị văn vãng giáo”. Thầy giáo không thể nói “Ta đến dạy cho con”, làm gì có người cuồng vọng như vậy. Bạn có bao nhiêu bản lĩnh mà lại dám dạy người?
Cho nên khi Phật Bồ tát thành Phật cũng rất khiêm tốn, không dám xưng mình có học vấn, có đức hạnh, có thể làm thầy người. Thầy là do người khác tôn xưng, còn chính mình quyết không dám xưng thầy. Chính mình thật đã thành tựu lại rất ngại nói với người. Người ta cũng không quen biết họ, làm sao chịu theo học với họ? Cho nên phải treo bảng hiệu, bảng hiệu này là bế quan, lui vào cấm túc trong núi, ngầm tuyên bố với quần chúng rộng lớn rằng trí tuệ đức năng của tôi có thành tựu, không cần phải tham học bên ngoài nữa, những người tham học đều có thể đến, ý chính là như vậy. Cho nên bế quan là bởi vì không có pháp duyên, không có người mời họ giảng kinh nên họ dùng phương pháp chờ đợi pháp duyên, cũng là đợi người khác đến thỉnh pháp. Một mặt chờ đợi, một mặt chính mình tiến tu, “bách xích cần đầu, cánh tấn nhất bộ”.
Thời xưa cầu học phải thân cận thiện tri thức, ai là thiện tri thức? Người tên tuổi lớn, danh vọng cao. Hiện tại người danh tiếng cao chưa chắc là thiện tri thức. Thử đến khắp nơi tìm xem, nơi nào có người bế quan? Người bế quan chính là thiện tri thức chân thật, chúng ta có thể đến họ tham học, thỉnh giáo. Nếu bạn nêu ra những nghi vấn mà họ không thể giải quyết thì bạn có thể mở cửa bế quan mời họ ra cùng đi tham học với bạn. Họ chưa đủ tư cách bế quan, vẫn phải đi làm học trò. Bế quan chính là làm học trò đã viên mãn, có thể trở thành thầy giáo. Cho nên sư là đạo, rất tôn nghiêm, cần phải có người thỉnh pháp.
Năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở thế gian, ngài ngồi dưới cội bồ đề nhìn sao sáng, đó là thị hiện chứng quả cũng chính là thành tựu trí tuệ đức năng cứu cánh viên mãn. Sau khi thành tựu thì phải hoằng pháp lợi sanh. Không có người quen biết ngài, không có người mời ngài, trong tình trạng này, ngài phải vào Niết Bàn, nếu như vậy thì thật đáng tiếc. Phật đến thế gian thật không dễ dàng. Nhân gian không có người quen biết ngài. Nhưng thiên nhân có thần thông, họ biết được nên liền giáng hạ xuống thế gian, vì thế nhân chúng ta mà thỉnh pháp. Thiên nhân ở đâu? Tịnh Cư Thiên Nhân. Tịnh Cư Thiên là Tứ Thiền Ngũ Bất Hoàn Thiên, họ đều là người tu hành, không phải người thông thường. Ở thế gian này phàm thánh đồng cư, số lượng nhiều nhất có ba nơi. Thế gian này của chúng ta là một nơi, phàm thánh đồng cư độ, còn rất nhiều nơi sơn minh thủy tú. Chúng ta xem thấy sông núi có linh khí, người thế gian thông thường chuộng phong thủy tốt. Vì sao có linh khí? Vì sao phong thủy tốt như vậy? Xin nói với các vị, có chư Phật Bồ tát, có A La Hán tu hành nơi đó cho nên phong thuỷ mới tốt. Cảnh tùy tâm chuyển, nơi đó có Bồ tát, A La Hán, tâm của họ thanh tịnh chân thành từ bi, tràn đầy trí tuệ đức năng; họ ở đó nên hoàn cảnh nơi đó liền chuyển tốt, y báo tùy theo chánh báo chuyển. Nơi đây không có Phật Bồ tát, không có người chân chính tu hành thì phong thuỷ đó làm sao chuyển tốt được.
Vào thời xưa, một số người không rõ đạo lý này, xem thấy xây dựng đạo tràng chùa miếu ở đại lục Trung Quốc đều là nơi phong thuỷ tốt, thấy người xuất gia còn biết xem phong thuỷ, biết chọn nơi phong thuỷ xây dựng chùa miếu, xây dựng đạo tràng. Kỳ thật sai rồi, người xuất gia làm gì có chuyện đi xem phong thuỷ. Người xuất gia vừa ở đó vài năm, phong thuỷ xấu cũng biến tốt, đó chính là đạo lý cảnh tuỳ tâm chuyển. Phàm phu thì tâm tuỳ cảnh chuyển, vậy rất khổ. Vốn dĩ phong thuỷ này không tệ, phàm phu đến ở nơi đó, ngày ngày sanh phiền não, ngày ngày khởi vọng tưởng, sau hai ba năm, phong thuỷ tốt cũng biến thành phong thuỷ xấu. Nếu các vị hiểu thì không cần phải mời người xem phong thuỷ, tốn tiền oan uổng. Chính mình phải có bản lĩnh chuyển phong thuỷ, không có chuyện phải dựa vào thầy địa lý đổi phong thuỷ cho mình. Nếu họ biết đổi, vì sao họ không tự đổi phong thuỷ cho chính họ. Ngay chính họ cũng không tự thay đổi còn nói giúp bạn đổi, bạn có thể tin tưởng không?
Người học Phật phải hiểu rõ đạo lý này, không nên bị người khác lừa gạt, dụ dỗ. Nhất định phải phát nguyện giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, nguyện tâm phải lớn, phải lấy tâm bồ đề để nương theo. Trong tâm bồ đề không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên tâm bồ đề tương ưng với hư không pháp giới, đó là chân tâm. Tâm chúng ta vốn dĩ lớn như vậy, mỗi niệm vì chúng sanh, không vì chính mình; chúng sanh chính là chính mình, vậy thì đúng, tương ưng với chân tướng sự thật. Chúng ta trong lúc giảng giải cũng thường hay nói, tận hư không khắp pháp giới đích thực là một thể chính mình.
Ngày nay thế giới phân tranh rất nghiêm trọng, ai cũng biết kết quả này là do bất thiện, thế nhưng đều không chịu buông bỏ sự tranh chấp, rốt cuộc vấn đề do đâu? Chính ngay tâm lượng quá nhỏ, chỉ xem thấy lợi ích của mình, không thấy lợi ích của người khác, cho nên hành động tổn người mà không lợi mình. Người thế gian thường nói “tổn người lợi mình”, lời nói này sai, không hợp đạo lý. Tổn người nhất định không lợi mình, lợi người mới chân thật là lợi mình. Hại người thì làm gì có chuyện lợi mình. Xưa nay trong ngoài nước không hề có đạo lý này. Đây là tư tưởng sai lầm, mê muội điên đảo. Tư tưởng kiến giải lời nói việc làm của họ hoàn toàn trái ngược với chân tướng sự thật, đó gọi là phàm phu. Tư tưởng lời nói việc làm của Phật Bồ tát hoàn toàn trái ngược với phàm phu chúng ta. Việc này đáng được chúng ta tham khảo, nghiên cứu.
Chư Phật Bồ tát dùng chân tâm, kinh đại thừa thường nói “chân tâm lìa niệm”, niệm này là vọng niệm, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong chân tâm không có, lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cái chân tâm này liền gọi là chánh niệm, chánh tâm, chân như. Chân như là chân tướng của vũ trụ nhân sanh, hoàn toàn tương ưng, đó là chân tâm hiển lộ. Nó không có chút ô nhiễm, không chút mê mờ, hiển lộ ra trí tuệ vô lượng, đức năng vô lượng. Giáo hoá chúng sanh, chúng sanh cũng phải có phước, có huệ mới có thể thân cận Phật Đà. Nếu phước huệ không đủ, thì cơ hội luôn lỡ qua trước mắt. Thời kỳ mạt pháp cũng không ngoại lệ.
Ngày nay chúng ta có duyên đọc di giáo của Phật, hơn nữa được bản gốc tinh hoa nhất. Duyên này rất sâu, chúng ta tiếp xúc có thể sanh tâm hoan hỉ, có thể tín nguyện hành. Kinh Di Đà đã nói, chúng ta hiển thị ra vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp đã tu thiện căn, phước đức. Hiện tại chín muồi, chúng ta gặp được nhân duyên thù thắng này không phải là việc dễ. Hiểu rõ mới biết trân trọng, mới biết đáng quý. Một đạo tràng thành tựu nhất định được hộ niệm gia trì của tất cả chư Phật Như Lai; thiên long thiện thần bảo hộ, hiệp trợ, cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn.
Tôi học Phật hơn bốn mươi năm, giảng kinh ba mươi chín năm, tôi đã đi qua rất nhiều khu vực, pháp duyên Phật pháp thù thắng không hề vượt qua nơi đây. Chúng sanh khu vực này, thiện căn phước đức nhân duyên chín muồi. Nếu không chín muồi thì không thể có cảm ứng như vậy. Phật Bồ tát vì sao chọn lựa nơi đây để xây đạo tràng? Nhân duyên vô lượng. Nhân duyên không phải là phàm phu tiểu thừa có thể đoán biết mà là cảm ứng. Đặc biệt ba bốn năm nay cho chúng ta cảm xúc rất rõ ràng. Người tâm địa có chút thanh tịnh gần như đều thấy được cảm ứng này, chân thật không thể nghĩ bàn. Đương nhiên ở đây được nhờ vào sự lãnh đạo hộ trì của cư sĩ Lý Mộc Nguyên, mà cư sĩ Lý lại được tất cả chư Phật Bồ tát gia trì. Không phải ngẫu nhiên mà người lãnh đạo ở đạo tràng nào muốn làm đều được.
Cư sĩ Lý được Phật gia trì, đã chứng minh cho chúng ta. Mười năm trước ông bị bệnh ung thư nghiêm trọng, hết cứu chữa. Ông không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc, chỉ một lòng niệm Phật đợi Phật A Di Đà tiếp dẫn. Phật A Di Đà không tiếp dẫn ông đến thế giới Cực Lạc, mà giao ông một sứ mạng xây dựng đạo tràng chánh pháp, tiếp dẫn chúng sanh căn tánh chín muồi. Thế nào gọi là chín muồi? Là những chúng sanh ngay đời này đáng phải đến thế giới Cực Lạc làm Phật.
Duyên của kinh Vô Lượng Thọ không thể nghĩ bàn. Cả đời tôi giảng kinh không hề rời khỏi giảng đài, pháp duyên giảng bất cứ kinh luận nào đều không bằng giảng kinh Vô Lượng Thọ. Duyên của quyển kinh này thù thắng, chính tôi cảm xúc rất sâu sắc. Giảng các kinh điển khác, thính chúng đến dự khoảng vài trăm người. Nhưng giảng bộ kinh này, tôi thấy chỗ ngồi chật kín. Có người nói với tôi, “ngài chưa thấy lầu bốn cũng ngồi đầy chật”. Đây không phải là tôi biết giảng. Mỗi bộ kinh, tôi đều có thể giảng thông, nhưng vì sao giảng kinh khác không có người nghe, trong khi giảng kinh này thì thính chúng nhiều đến vậy? Kinh Vô Lượng Thọ cũng có rất nhiều quyển, giảng quyển khác thì thính chúng không nhiều, nhưng giảng quyển này thì thính chúng đặc biệt đông, đây không phải là minh chứng tường tận hay sao?
Chúng ta chọn lựa pháp môn này là đúng, tất cả chư Phật hoan hỉ, long thiên thiện thần cổ vũ, để chúng ta chân thật đoạn nghi sanh tín, không xen tạp, không gián đoạn, ngay một đời quyết định thành tựu. Cư sĩ Lý phát đại tâm, cùng chúng tôi bàn bạc. Lần này vì kinh Hoa Nghiêm và kinh Vô Lượng Thọ, ông đã xây hai tòa tháp đồng bậc nhất thế giới, không nơi nào cao to hơn nơi đây. Ông đặt cho nó tên “Hoa Nghiêm Song Tháp” để kỷ niệm giảng hai bộ kinh lớn này. Thực tế nó còn có ý nghĩa rất sâu, hai bảo tháp này là bảo tháp kim cang, trấn định nền tảng kiên cố của đạo tràng. Giống như kinh Hoa Nghiêm nói, đất này là kim cang thành tựu, chánh pháp được kiến lập nơi đây. Chúng ta phải nguyện báo đáp cư sĩ Mộc Nguyên, cũng là báo đáp chúng sanh khu vực duyên đã chín muồi này. Giảng đường ở đây giảng kinh mỗi ngày không gián đoạn. Ngày rằm, ba mươi chúng ta cũng giảng, mùng một tết cũng giảng. Nhà ăn lầu dưới phục vụ cơm chay miễn phí, hoàn toàn viên mãn.
Ngày nay đi khắp thế giới, không thấy có đạo tràng nào đều đặn giảng kinh mỗi ngày, cũng không hề nghe nói qua. Hai toà tháp lớn nhất thế giới, đạo tràng chúng ta giảng kinh cũng đứng đầu thế giới. Ngoài ra còn một niệm Phật đường ở lầu ba, mỗi ngày niệm hai mươi bốn tiếng không gián đoạn, việc đó cũng đứng đầu thế giới. Đạo tràng này, giải hành đều tiến, giải hành tương ưng. Hai tháp này có thể gọi là tháp Giải Hành.
Niệm Phật đường khích lệ các đồng tu đến niệm Phật. Chúng ta giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ chính là khuyên mọi người niệm Phật. Niệm như thế nào? Bồ tát Đại Thế Chí dạy một nguyên tắc “gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục”. “Tịnh” là không hoài nghi, không xen tạp; “tương tục” là không gián đoạn. Niệm Phật như vậy, mọi người nói không thể làm được trong cuộc sống thường ngày. Thực tế không phải không làm được. Ý nghĩa của tương tục rất đa dạng. Ví dụ, bạn hành trì thời khoá sớm tối mỗi ngày, không cần làm nhiều, mỗi thời khóa chỉ khoảng mười phút, đều đặn không thiếu, gọi là tương tục. Trong mười phút, bạn không có hoài nghi, không xen tạp, tiếp nối từng câu từng câu, mỗi ngày tương tục.
Đối với người rất bận, không có thời gian hành trì sớm tối, kinh dạy, bạn có thể dùng những ngày nghỉ tương đối dài trong một năm để niệm Phật. Ví dụ bạn có mười ngày nghỉ phép, năm ngày bạn xử lý những công việc cá nhân, còn lại năm ngày bạn đến đây niệm Phật. Mỗi năm đều đến niệm năm ngày, cũng là tịnh niệm tương tục, không gián đoạn. Những gì Phật nói đều nguyên lý nguyên tắc, hợp tình, hợp pháp, người người đều có thể làm được. Nếu rảnh mỗi tháng có một kỳ nghỉ thì mỗi tháng ta đến niệm Phật một hai ngày. Nơi đây cũng như là đạo tràng Phật thất suốt năm. Chúng ta đem phương qui của Đại sư Ấn Quang ở núi Linh Nghiêm thực tiễn nơi đây.
Cư sĩ Lý còn phát đại tâm, hy vọng tương lai xây dựng một thôn Di Đà ngay cạnh để cúng dường người niệm Phật. Bạn đến nơi đây, được cúng dường tứ sự. Cơm áo ngủ nghỉ thảy đều do nơi đây phụ trách, bạn không cần mang theo bất cứ thứ gì. Bạn buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, đến đây ngày ngày nghe kinh, ngày ngày niệm Phật. Không phải ông xây viện dưỡng lão mà là xây làng Di Đà, cúng dường chân thật phát tâm niệm Phật, muốn cầu sanh thế giới Cực Lạc. Người muốn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật, ông cúng dường chân thành. Phước báu này của ông quá lớn, vì ông cúng dường Phật chứ không cúng dường người khác. Cho nên người đến làng Di Đà này ở là vị Phật sống, quyết bất thoái thành Phật.
Đạo tràng này nhất định phát triển đến giải hành tương ưng. Hai cái tháp có ý nghĩa rất sâu xa, là chư Phật Như Lai an định tín tâm của chúng ta. Xem thấy hoàn cảnh như vậy, tín tâm của chúng ta liền đầy đủ, không bị dao động, cho nên phải phát đại nguyện phổ độ chúng sanh. Phổ độ chúng sanh nhất định phải độ mình trước. Chính mình không được độ thì không thể độ được người khác. Thế nhưng có lẽ các đồng tu xem thấy trong kinh Phật thường nói “Chính mình chưa độ, trước độ người khác, phát tâm của Bồ tát”, bạn có hiểu hay không? Đó là Bồ tát, bạn có phải Bồ tát không? Bạn không phải Bồ tát thì không được. Người ta chưa độ chính mình, chính mình chưa thành Phật, nhưng đã thành Bồ tát rồi, thì họ có thể nói: “Ta chậm thành Phật một chút cũng không sao, ta cứ độ chúng sanh trước”. Họ có năng lực, có bản lĩnh nên dám nói câu này. Chúng ta là phàm phu không dám nói câu này, nên chúng ta nhất định phải độ chính mình trước. Nếu không độ chính mình trước mà độ người khác, thì chính mình vẫn đọa ba đường, không đáng lo sao?
Chính ta thành Bồ tát thì không cần lo, có thể không cần gấp thành Phật. Giống như Bồ tát Địa Tạng, học trò của Bồ tát Địa Tạng là những người tiếp nhận giáo hoá của ngài, thành Phật không biết bao nhiêu mà kể, nhưng Bồ tát hiện tại vẫn là Bồ tát. Ở địa vị ngài có thể nói chính mình chưa độ mà phải trước độ người khác, Bồ tát phát tâm. Ngài là Bồ tát, lời này ngài có nói cũng không hổ. Chúng ta phải phân biệt cho rõ ràng, đó là Bồ tát không phải phàm phu. Phàm phu chúng ta nhất định phải độ chính mình trước, phải cầu sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc. Nếu có được phước báu lớn, xin nói với các vị, nhân duyên hi hữu vô lượng kiếp.
Người nào ngay trong một đời không cần nói nhiều, một năm hai năm không làm việc gì, ngày ngày nghe kinh, ngày ngày niệm Phật, vậy còn gì bằng. Giải hành tương ưng thì làm gì đạo nghiệp không thành tựu. Đó là thế gian, huống hồ là nhân thế. Trong ba cõi, người có phước báu lớn như vậy, cũng hi hữu không dễ dàng. Cho nên khoan chưa độ chúng sanh, mà phải thành tựu chính mình.
Nguyện thứ hai, “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”
Thành tựu chính mình thứ nhất phải đoạn phiền não, trừ tập khí. Phiền não ngoại duyên là khó khăn nhất, không dễ gì dẹp bỏ. Đời sống thực tế của chúng ta, ăn mặc đi đứng, do phước báu của chúng ta không lớn nên mỗi ngày vì những việc thế tục mà bôn ba lo buồn, tâm không thể định. Đó là sự thật khách quan không ai tránh khỏi. Người có tiền, có thế lực, địa vị, thành thật mà nói đều rất nguy hiểm, rất mau tan nhạt, dễ mất đi, sau khi mất đi thì phải làm sao? Cho nên bất cứ người nào, dù giàu nghèo sang hèn, đời sống đều tràn đầy âu lo phiền não, đôi khi rất muốn tâm mình định lại để cố gắng dụng công tu hành mà không được duyên phận, không được phước phần này. Hay nói cách khác, tập khí nghiệp chướng quá nặng.
Do đó Phật dạy chúng ta đoạn phiền não phát đại tâm là quan trọng. Chỉ cần chịu phát đại tâm, chịu đoạn phiền não, thì dù phiền não chưa đoạn cũng không hề gì. Miễn có tâm phải đoạn, liền được chư Phật Bồ tát hộ trì, giúp đỡ. Đó là cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn. Đoạn phiền não để tâm mình được thanh tịnh, thành tựu đức hạnh của chính mình.
Giáo học Phật pháp cùng quan niệm của nhà Nho có thể nói không hẹn mà gặp. Giáo học của Khổng Lão Phu tử Trung Quốc dạy học trò bốn khoá trình. Khoá thứ nhất là “đức hạnh”, giáo học của Phật pháp khoá thứ nhất là “đoạn phiền não”, ý nghĩa hoàn toàn giống nhau. Khoá thứ hai trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có “học pháp môn”, đó là đạo lý nhất định. Nếu như không đoạn phiền não, học pháp môn nhất định không thể thành tựu, chỉ tăng thêm tà kiến, không tăng thêm trí tuệ. Đem cái bạn đã tu học toàn bộ biến thành tà tri tà kiến, do ai? Do phiền não, tham sân si mạn. Cho nên thành tựu trí tuệ chân thật, nhất định phải đoạn phiền não trước. Phật pháp nói, sau khi đoạn hết phiền não, bạn mới là một pháp khí. Như một món đồ, bạn hoàn chỉnh, không có chút hư tổn, bạn mới có năng lực tiếp nhận đại pháp của Như lai. Phật pháp gọi là pháp vô lậu. “Lậu” là đại danh từ của phiền não.
Ví dụ một tách trà thủng lỗ, khi đựng trà sẽ bị rò rỉ. Cái lậu này là thí dụ cho phiền não. Phiền não bị rò rỉ hết. Cần phải đoạn hết phiền não thì tách trà của bạn mới hoàn hảo, có thể đựng trà, có thể tiếp nhận vô lượng pháp môn.
Nguyện thứ ba, “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”
Tu học pháp môn thành tựu là thành tựu vô thượng đạo của chính mình, thành tựu trí tuệ đức năng viên mãn của chính mình. Bạn không có đức, không có năng, không có trí thì làm sao có thể phổ độ tất cả chúng sanh? Tất cả chúng sanh căn tánh không đồng nhau, nhu cầu khác nhau, bạn có thể mãn nguyện tất cả, khiến tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ, đó là phải toàn năng toàn trí. Phật pháp sau khi phát nguyện phải thật làm, thật tu.
Mấy ngày nay chúng ta lợi dụng chút thời gian rảnh để thu âm. Trong kinh Địa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện, Thế Tôn vì chúng ta nói rõ, nhân duyên Bồ tát Địa Tạng mới sơ phát tâm, đó là bất khả thuyết vô lượng kiếp trước, cách hiện tại chúng ta quá xa quá lâu, không cách gì tính đếm được. Thân phận của ngài là một vị trưởng giả, cư sĩ tại gia, không phải người xuất gia. Vị đại trưởng tử này không phải là con trai của đại trưởng giả. Chữ “tử” là tôn xưng của Trung Quốc thời xưa xưng hô tôn kính, giống như chúng ta tôn xưng Khổng Phu Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang Tử. “Tử” là lời xưng hô tôn kính, hiện tại người ta đem lời tôn kính đặt ở phía trước, còn thời trước thì đặt chữ “tử” này phía sau. Vì sao ngài phát tâm? Ngài xem thấy tướng hảo của Phật mà phát tâm. Cho nên các vị đồng tu phải biết, bảng hiệu trước cửa này rất quan trọng. Các công ty thường chú trọng bao bì, hàng hoá bên trong tốt xấu không quan trọng, nhưng bao bì nhất định phải bắt mắt, hấp dẫn.
Chư Phật Như Lai hiểu được việc này, biết tâm lý của phàm phu nên bề ngoài tạo vẻ đặc biệt trang nghiêm, tốt đẹp, nhưng không có nghĩa là hoá trang, vì hoá trang là đồ giả không phải thật. Trang nghiêm của Phật Bồ tát là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, do tu mà có, do thành tựu đức hạnh mà được. Người xem tướng đoán mạng thế gian thường nói “tướng tùy tâm chuyển”. Tướng mạo chúng ta tùy tâm chuyển, thể chất cũng tuỳ tâm chuyển. Sau khi Bồ tát thành Phật còn phải dùng thời gian một trăm kiếp để chuyên môn tu phước. Cho nên thành Phật gọi là “nhị túc tôn”, phước huệ đều viên mãn. Loại Phật này trong nhà Phật chúng ta gọi là Phật của tạng giáo, Phật của thông giáo. Các ngài phải dùng thời gian một trăm kiếp để tu tướng hảo.
Phật của viên giáo thì từ trong tự tánh lưu xuất ra. Cái quang minh tướng hảo đó chẳng phải là ba mươi hai tướng. Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ mà phàm phu chúng ta không nhìn thấy. Cho nên Phật của tạng giáo, Phật của thông giáo chưa kiến tánh, họ hoàn toàn thành tựu công đức do tu mà được. Kinh Bách Kiếp nói, một tướng hảo phải tu một trăm loại công đức. Mỗi loại không biết phải tu thời gian dài bao lâu mới có thể viên mãn. Ba mươi hai tướng, các vị tưởng tượng họ phải tu ba ngàn hai trăm loại công đức. Tu thế gian bao lâu? Một trăm kiếp. Ba ngàn hai trăm loại tu trong một trăm kiếp mới thành tựu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp này. Chúng sanh có duyên thấy được tướng hảo của Phật thì liền cảm động, liền phát tâm.
Chúng ta xem thấy phát tâm của đại trưởng giả tử trên kinh Địa Tạng, cùng tôn giả A Nan ở hội Lăng Nghiêm hoàn toàn giống nhau. Tôn giả A Nan vì sao phát tâm xuất gia? Vì xem thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài cảm thấy loại tướng hảo này không do cha mẹ sanh ra, mà do tu hành thành tựu. Ngài muốn xuất gia vì muốn có được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vì việc này mà xuất gia, tu học cùng với Phật Thích Ca Mâu Ni.
Chúng ta không cần lo nhân duyên xuất gia. Dù nhân duyên như thế nào, chỉ cần bạn chịu tu, thành tựu sau cùng đều chân thật. Từ chỗ này mà xem, bảng hiệu bên ngoài vỏ hộp đều quan trọng, chúng ta phải xem trọng sự việc này mà chăm chỉ tu học. Phật giảng kinh, trước hết đem quả trình hiện ra. Chính mình tu tốt, đó là quả báo để bạn xem. Sau khi bạn thấy thì bạn tự nhiên động tâm, cũng muốn tu học. Cá nhân chúng ta là một tấm gương tốt cho mọi người. Mọi thứ đều tốt, dung mạo tốt, thân thể tốt, đối nhân xử thế tiếp vật, không thứ nào không tốt, đó chính là bảng hiệu, vậy mới có thể nhiếp thọ tất cả chúng sanh. Nếu bạn muốn giáo hoá chúng sanh, hoằng pháp lợi sanh mà chính mình không chịu làm tốt vẻ bên ngoài của mình thì làm sao được. Bên ngoài làm được tốt, sau đó phải đoạn phiền não, nhất định phải học pháp môn.
Chúng ta nêu ra mười câu “Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”, thường giữ tâm này; “Nhìn thấu, buông bỏ, tự tại, tuỳ duyên, niệm Phật”, phải thường tu hạnh này. Tâm hạnh của chúng ta phải tương ưng với mười câu, hai mươi chữ trên, xin nói với các vị, chỉ ba năm diện mạo của chúng ta liền thay đổi, thể chất cũng sẽ thay đổi, “tướng tùy tâm chuyển”.
Đạo tràng vừa mới xây. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, mỗi ngày đều giảng kinh, mỗi ngày đều niệm Phật không hề gián đoạn. Ở đây chỉ cần ba năm, sau khi đi ra nhất định sẽ khác với người thông thường. Họ ở đây huân tu thời gian dài, thân tâm thảy đều khởi lên thay đổi, làm gì không vãng sanh, làm gì không thành Phật. Tương lai chỗ này thật biến thành đạo tràng tuyển Phật. Singapore là quốc gia có phước không thể nghĩ bàn. Khu vực Đông Nam Á có phước mới có được một đạo tràng đúng pháp, thù thắng như vậy. Chư Phật hoan hỉ, hộ pháp thiện thần đặc biệt chiếu cố.
Nguyện thứ tư, “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”
Chúng ta phải đầy đủ nguyện này, quyết niệm Phật vãng sanh. Nếu không niệm Phật vãng sanh, không tu pháp môn này, thì cái nguyện thành Phật đạo rất khó khăn. Bồ tát thượng thủ trong thế giới Hoa Tạng; Văn Thù, Phổ Hiền là thượng thủ trên hội Hoa Nghiêm, các ngài đều phát tâm cầu sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, đều phát nguyện phải thân cận Phật A Di Đà.
Lần đầu tôi đọc kinh Hoa Nghiêm, có chỗ mê mờ không hiểu, nghĩ không thông. Nếu nói các Bồ tát khác phát nguyện cầu sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta có thể nghĩ thông. Văn Thù, Phổ Hiền là Bồ tát đẳng giác của thế giới Hoa Tạng, lý do gì phải vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc? Tôi đã mất thời gian rất dài nghĩ đến việc này, mới nghĩ ra một lý do có thể đúng. Thế giới Tây Phương Cực Lạc thành Phật nhanh. Thế giới Hoa Tạng tuy dần dần tu thành Phật, thời gian thành Phật phải dài, không thể nhanh bằng thế giới Cực Lạc. Họ đến thế giới Cực Lạc vừa đến liền thành Phật, còn ở thế giới Hoa Tạng vẫn phải đợi không biết đến ngày tháng năm nào. Tất cả Bồ tát, không ai không hy vọng vãng sanh thế giới Cực Lạc, hy vọng sớm ngày thành Phật. Do đó không nên để lỡ thời gian dài, không cần phải tu hành khổ hạnh, nếu muốn giải quyết hai vấn đề này chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Văn Thù, Phổ Hiền không chỉ chính mình phát nguyện vãng sanh, các ngài không bỏn xẻn, không bòn pháp; biết được pháp môn hay, liền phổ biến khuyên bảo thế giới Hoa Tạng. Bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ đồng sanh Tịnh Độ. Văn Thù, Phổ Hiền là học trò đắc ý của Tỳ Lô Giá Na Phật. Hai ngài đem đồ chúng thảy đều đưa đến thế giới Cực Lạc, chỗ của Phật A Di Đà. Ngài làm cho thế giới Hoa Tạng không còn ai, bạn nói xem Tỳ Lô Giá Na Phật có sân giận không? Phật không giống chúng sanh. Nếu là chúng sanh thì sẽ không chịu nổi, “pháp duyên của ta nơi đây tốt như vầy, bạn vừa đến đây làm cho pháp duyên của ta không còn gì nữa, đều mang đi nơi khác hết, vậy thì còn gì đáng trách hơn”. Tỳ Lô Giá Na Phật không những không tức giận mà còn tán thán.
Cũng giống như trên kinh nói, Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai là thầy của Bồ tát Địa Tạng. Pháp Tạng Bồ tát ở Tây Phương xây dựng thế giới Cực Lạc, chính mình thành Phật cũng đem tất cả đồ chúng dưới hội của Thế Gian Tự Tại Vương đưa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Thế Gian Tự Tại Vương không những không tức giận mà còn cổ vũ, khen ngài làm đúng, vì sao? Tất cả chư Phật Như Lai chỉ có một tâm niệm hy vọng chúng sanh mau mau thành Phật, “Ngươi đến nơi đó mau thành Phật, ở nơi đây của ta thành Phật chậm, ngươi đến nơi đó của ngài là đúng”. Bổn nguyện của Phật đạt được, cho nên cách làm này chân thật làm rõ bổn hoài của Phật.
Tâm Phật cùng tâm phàm phu đích thực khác nhau, cho nên chúng ta phải ghi nhớ, ngay trong một đời muốn đầy đủ tứ hoằng thệ nguyện, chỉ có cầu sanh tịnh độ. Ở thế gian, chúng ta phải tu học công đức chân thật. Trong công đức bao hàm phước đức. Tu công đức đệ nhất đẳng, công đức này không gì hơn khuyên người niệm Phật, đó là đại phước đức, phước đức hy hữu không gì bằng. Chúng ta có cơ hội tu, có duyên phận tu phải nên chăm chỉ nỗ lực.
Câu “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện”, chúng ta giới thiệu đến đây. Thực ra, ý trong sáu chữ này vô lượng vô biên, nói một năm cũng không hết, kinh văn phía sau còn dài, chúng ta chỉ nói đến đây.
“AN TRỤ NHẤT THIẾT CÔNG ĐỨC PHÁP TRUNG”
“Công đức” cùng phước đức có khác biệt, chúng ta cần phải nhận biết cho rõ ràng. Công là công phu, phải có công phu tu học chân thật. Công phu thu hoạch được gọi là công đức. Ví dụ trì giới có công, thiền định là đức do giới. Bạn trì giới, do trì giới mà được định, cái giới đó gọi là công đức. Nếu bạn trì giới tốt nhưng không được định thì trì giới cũng có lợi ích, đó là phước đức, không phải công đức. Bạn trì giới tinh nghiêm thì bạn được phước báu của nhân thiên, đời sau hưởng phước, nhưng đó không phải công đức. Công đức có thể đoạn phiền não, có thể chứng được bồ đề, còn phước đức thì không. Phước đức không thể đoạn phiền não cũng không thể chứng bồ đề, chỉ có thể mang đến cho bạn phước báu. Do đó chúng ta nhất định phải phân biệt rõ ràng công đức và phước đức.
Tu định có công, trí tuệ liền khai. Khai huệ là đức. Tu định mà không thể khai huệ, cái định đó là phước đức, không phải công đức. Phước đức ở trong trời Tứ Thiền, không thể đoạn kiến tư phiền não, không thể siêu việt ba cõi sáu đường. Cho nên công đức cùng phước đức khác biệt nhau rất lớn.
Làm sao tu công đức? Công đức không hề rời khỏi phước đức. Tu phước không dính mắc chính là công đức. Tu phước mà dính mắc là phước đức. Ta tu tài bố thí, hy vọng tương lai được đại phú, vậy thì liền biến thành phước đức. Nhưng nếu ta tu tài bố thí “tam luân thể không”, không có bất cứ mong cầu nào thì liền biến thành công đức. Khi không có bất cứ mong cầu nào, thì ở ngay trong cuộc sống thường ngày của bạn cũng không thiếu bất cứ thứ gì, vì trong công đức có phước đức, nhưng trong phước đức không có công đức.
Chúng ta không luận tu phước như thế nào, thông thường nói ba loại bố thí: tài bố thí, pháp bố thí, vô uý bố thí, phải bố thí sạch trơn. Then chốt là tâm địa phải thanh tịnh, không dính vào tướng bố thí, không nên thường hay nghĩ đến ta có ân đức đối với người, có rất nhiều việc tốt đối với họ, không nên có ý niệm này, vì khởi ý niệm này thì liền biến thành phước báu, không thể được định.
Định là gì? Định là tâm thanh tịnh. Bố thí tuyệt đối không nhận báo thì tâm mới được thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh phước báu bao lớn? Tận hư không biến pháp giới là chỗ chúng ta hưởng phước. Bạn bố thí chỗ này, thì không chỉ ở ngay đây hưởng phước, mà bạn đến bất cứ nơi nào, mười phương vô lượng vô biên cõi nước, bạn đều được hưởng phước, vì tâm lượng của bạn rộng lớn không có chướng ngại, cho nên phước của bạn to lớn. Cái phước đó cũng hư không khắp pháp giới. Đạo lý quan trọng này ở trên kinh đại thừa.
Nếu chúng ta tu phước mà thường dính vào thì, chẳng hạn, tôi ở khu vực này, đã kết duyên với người khu vực này. Tôi tu được bao nhiêu phước, tương lai phải đầu thai đến đây thì mới hưởng được phước. Còn đầu thai đi nơi khác, người ở nơi khác không có quan hệ gì với tôi, chưa kết được cái duyên này thì tôi sẽ không có phước. Cũng tu như nhau nhưng được phước không như nhau. Vậy vì sao chúng ta dại khờ không chịu mở rộng tâm lượng? Trồng được chút phước nào đều biến hư không pháp giới, mọi nơi mọi chỗ đều hưởng phước. Chúng ta ở trong kinh điển đại thừa, chỗ này nhất định không thể xem thường.
Phật dạy, “An trụ nhất thiết công đức pháp trung”, cái gì gọi là an trụ? “An” là an ổn, “trụ” là ở nơi đó bất động. Phàm phu chúng ta thật rất đáng thương vì không có chỗ trụ. Người ta hỏi bạn trụ ở đâu. Nếu thông minh trí tuệ, bạn có thể nói: “Tôi ở nơi đó”. Hiện tại ta ở Cư Sĩ Lâm, làm gì có chỗ trụ. Không có chỗ, thân tìm một chỗ trụ. Phòng ốc, nhà cửa là chỗ trụ của cái thân. Có nhà, có phòng, thân liền được an ổn, nhưng tâm không an. Then chốt nhất là tâm phải trụ ở nơi nào đó. Đó là vấn đề lớn.
Kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề thỉnh pháp với Phật Thích Ca Mâu Ni, câu hỏi thứ nhất: “Ưng vân hà trụ?”, ý nói tâm này nên trụ vào đâu? Người thế gian hiểu thân trụ nhưng không hiểu tâm trụ, cho nên cả đời bồng bềnh trải qua ngày tháng khổ sở, không luận họ có phước hay không. Có phước cũng khổ, không phước càng khổ hơn, cả đời ưu bi khổ não, sống như vậy khổ dường nào. Nếu hiểu được tâm phải có một chỗ an trụ, thì cả đời bạn liền có phước, cả đời liền có thành tựu. Không luận thế pháp hay Phật pháp đều thành tựu.
Do đây có thể biết an trụ của tâm rất quan trọng. An ổn an trụ vào một nơi, nơi đó bất động. Căn tánh của chúng sanh không như nhau cho nên trong tất cả kinh luận, Phật dạy người an trụ cũng không như nhau. Ví dụ chúng sanh tâm lượng nhỏ, tầm nhìn nông cạn, nghe nói trên trời không tệ, đời sau có thể sanh thiên thì đã rất vừa lòng. Nếu bạn khuyên họ phải ra khỏi ba cõi, gặp người không tự tin, nghĩ rằng nghiệp chướng của mình sâu nặng, không thể ra khỏi, lập tức liền muốn thoái lui. Phật đối với loại chúng sanh này có phương pháp giúp họ mãn nguyện. Họ muốn sanh thiên thì dạy cho họ phương pháp sanh thiên. Người căn tánh hơi lanh lợi một chút, biết được thiên phước cũng có lúc hưởng hết, hưởng hết thì phải làm sao? Thời gian tuy dài, nhưng dài rồi cũng có lúc đến đoạn kết, vậy loại người này cao hơn một bậc so với người muốn sanh thiên. Họ biết được ngoài siêu việt luân hồi, ngày tháng trải qua tốt hơn nhiều so với trong luân hồi, họ có cái tâm xuất tam giới, Phật liền dạy họ phương pháp xuất tam giới, tâm an trụ ở nơi đó.
Cho nên giáo học của Phật chân thật khế lý khế cơ, thỏa mãn nguyện vọng của tất cả chúng sanh. Nếu bạn muốn sanh thiên, Phật liền dạy tâm của bạn nhất định phải an trụ trong mười thiện, gọi là thập thiện nghiệp đạo, thường hay sanh thiện niệm, sanh thiện tâm, lợi ích tất cả chúng sanh, sau cùng chính mình được lợi ích sanh thiên. Dạy người trì giới tu hành mười thiện, tâm của bạn an trụ ở ngay chỗ này, nhất định sẽ được phước báu nhân thiên.
Nếu bạn muốn chứng quả A La Hán, siêu việt sáu cõi sanh tử luân hồi, Phật liền dạy cho bạn an trụ ở trong pháp tứ đế. Nếu bạn muốn làm Bồ tát, học Phật quảng độ chúng sanh, Phật liền dạy bạn đặt tâm an trụ trong lục độ, đó là Phật dạy mọi người pháp an tâm. Nếu tâm lượng của bạn quả nhiên rộng lớn, chí nguyện thù thắng, bên trên có Bồ tát, trên nữa còn có Phật, trên Phật thì không còn nữa, quyết tâm phải thành Phật, thì chí nguyện này cao, Phật liền dạy bạn an trụ trong công đức thành Phật. “An trụ nhất thiết công đức pháp trung”, pháp công đức này chỉ “Di Đà nguyện hải, sáu chữ hồng danh”. Hay nói cách khác, bạn đem tâm an trụ trong bốn mươi tám nguyện, an trụ ở “phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, đây là pháp cả đời này bất thoái viên mãn thành Phật, loại an trụ thù thắng hơn bất cứ loại nào.
Tóm lại, hai câu kinh văn: “Cụ túc vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức pháp trung” là nói về hạnh nguyện công đức.
“DU BỘ THẬP PHƯƠNG, HÀNH QUYỀN PHƯƠNG TIỆN”
Các vị Bồ tát trên kinh đều là Bồ tát tu hạnh Phổ Hiền, từ sơ phát tâm mãi đến vị đẳng giác. Người sơ phát tâm tuy chưa chứng quả, nhưng chân thật phát tâm, một lòng một dạ muốn học hạnh Phổ Hiền. Con người này trên kinh Hoa Nghiêm đã xưng tán đại tâm phàm phu, ngay một đời liền có cơ duyên làm Phật. Cơ duyên gì? niệm Phật vãng sanh, thân cận Di Đà, rất nhanh thành Phật. Không cần phải thời gian dài, cho dù nghiệp chướng sâu nặng vẫn đới nghiệp vãng sanh hạ hạ phẩm.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói, hạ hạ phẩm sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng chỉ cần mười hai kiếp. Mười hai kiếp so với vô lượng kiếp, so với ba a tăng kỳ kiếp, thời gian này rút ngắn lại rất nhiều. Cũng giống như bình thường Phật đã nói trong các kinh, “hoa khai kiến Phật” là địa vị phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, đó là phương tiện nói. Còn chân thật nói, “ngộ vô sanh” là chứng được vô sanh pháp nhẫn. Bồ tát vô sanh pháp nhẫn thuộc địa vị thất địa, bát địa, cửu địa. Các vị thứ khác chúng ta không tính, tam hiền vị cũng không. Chúng ta chỉ nói tam hiền vị của viên giáo. Từ viên giáo sơ trụ tu đến thập hồi hướng mãn phải một a tăng kỳ kiếp.
Bạn mới đến đăng địa, sơ địa. Sơ địa là mở đầu a tăng kỳ kiếp thứ hai. Sơ địa Bồ tát tu đến thất địa, bảy vị thứ này lại là một a tăng kỳ kiếp. Hai a tăng kỳ kiếp mãn rồi, bạn mới đăng bát địa. Số tự a tăng kỳ kiếp là số tự thiên văn, chúng ta không cách gì tính đếm. Lấy pháp môn thông đồ để nói, chứng được viên giáo sơ trụ, tu đến vô sanh nhẫn vị, cần phải hai a tăng kỳ kiếp.
Chúng ta là phàm phu, không phải sơ trụ Bồ tát. Là phàm phu, một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chứng được địa vị vô sanh pháp nhẫn, cũng chính là chứng được địa vị của Bồ tát thất địa, chỉ cần thời gian mười hai kiếp, thời gian này rút gọn rất nhiều. Vậy thì mười hai kiếp, xin nói với các vị, không luận Phật nguyện gia trì, chưa đạt được oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì, bạn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc tu hành mười hai kiếp, liền chứng được vô sanh pháp nhẫn. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là đạo tràng tu hành ở tận hư không khắp pháp giới. Đạo tràng đó của Phật A Di Đà là đạo tràng đệ nhất. Bạn ở đó tu hành nhanh, chỉ có tiến bộ chứ không thoái lui. Nơi chốn đó của ngài là viên chứng tam bất thoái, hạ hạ phẩm vãng sanh, cho nên nó không thoái chuyển. Các thế giới phương khác, Bồ tát tu hành có tiến không lùi. Còn thông thường tiến ít mà thoái nhiều, cho nên cần thời gian dài đến như vậy.
Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, không có người nào không được sức gia trì của Phật. Phật A Di Đà từ bi tột đỉnh. Bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện gia trì người hành trì, người niệm Phật vãng sanh, cho nên người hạ hạ phẩm vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc không cần trải qua mười hai kiếp mới hoa nở thấy Phật. Sắp gần đến đó thì hoa nở thấy Phật, do oai thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia trì, cụ thể bằng bốn mươi tám nguyện.
Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là bậc A Duy Việt Trí Bồ tát. Phật A Di Đà phát ra nguyện đều phải tính, ngài tuyệt nhiên không nói người như thế nào vãng sanh mới là A Duy Việt Trí Bồ tát. Đã không nói thì chính là lời nói chung chung, chỉ cần sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì thảy đều là A Duy Việt Trí Bồ tát. Hay nói cách khác, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, bạn liền bình đẳng với thất địa, bát địa, cửu địa. Đại sư Ngẫu Ích trong kinh Di Đà Yếu Giải nói, “Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn”. Bạn gọi họ là Bồ tát Thất địa, họ không phải, vì sao? Phiền não nhất phẩm chưa đoạn, nên họ còn là phàm phu. Nếu bạn gọi họ là phàm phu cũng không phải. Trí tuệ của họ, công đức của họ, thọ dụng của họ hoàn toàn giống Bồ tát thất địa, bát địa. Đó là chỗ không thể nghĩ bàn của thế giới Tây Phương Cực Lạc. “Yếu Giải” của Đại sư Ngẫu Ích cũng không thể nghĩ bàn.
Chúng ta biết Đại sư Ấn Quang là Bồ tát Đại Thế Chí ở thế giới Tây Phương tái sanh. Đại sư rất tán thán “Yếu Giải”, cho dù là cổ Phật tái lai, làm chú giải cho kinh Di Đà cũng không thể vượt qua được cái bổn này. Vậy “Yếu Giải” này được đưa lên đến tột đỉnh. Nâng “Yếu Giải” chính là nâng Đại sư Ngẫu Ích. Nếu Đại sư Ngẫu Ích không phải là Phật A Di Đà tái sanh thì cũng là Bồ tát Quán Thế Âm tái sanh, bằng không sẽ không được Bồ tát Đại Thế Chí tán thán đến như vậy. Cho nên chúng ta phải biết pháp môn này thù thắng không gì bằng.
“Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện”. Du bộ là tham học. Người thế giới Tây Phương Cực Lạc đích thực là như vậy. Mỗi ngày đều đến mười phương thế giới để bái Phật. Bái Phật chính là thăm hỏi, thân cận chư Phật Như Lai. Chư Phật Như Lai là người phước đức đệ nhất đẳng của thế xuất thế gian. Thường hay thân cận các ngài, thường nghe giáo huấn của các ngài, chính mình trí tuệ liền khai mở, đức hạnh cũng dần dần được viên mãn, đó là thân cận thiện tri thức, là chọn lựa của người thông minh, có thể xếp hàng với chư Phật Như Lai, ngồi cùng hàng với các ngài, vào câu lạc bộ của các ngài, bạn thử nghĩ xem làm sao mà không thành Phật?
Không phải hòa chung với Bồ tát mà mỗi ngày cùng ở chung với Phật. Du bộ mười phương, tiếp nhận giáo huấn của Phật, khai trí tuệ, mỗi ngày thân cận chư Phật, cúng dường thừa sự chư Phật, tu phước báu, cho nên cơ hội tu phước tu huệ trở thành viên mãn. Ngày nay chúng ta muốn tu phước, tu huệ cũng không tìm được chỗ để tu, không biết nơi đó có phước hay không, luôn luôn dùng sai cái tâm, rồi tu sai. Ở thế gian này, chúng ta thấy rất nhiều, đặc biệt là người có tiền của, muốn làm một chút việc tốt, kết quả đem tiền của bỏ vào biển lớn, đá chìm đáy nước không ích gì. Không những không lợi ích, còn rước lấy lỗi lầm.
Người thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không như vậy. Họ gặp được bậc chân thiện thức, biết được nơi nào là phước điền chân thật. Trên cầu hạ hoá mười phương cõi nước chư Phật, nhất định sẽ gặp được quá khứ, bạn bè quyến thuộc, đồng tham đồng học nhiều đời nhiều kiếp. Gặp được rồi, họ không nhận biết bạn nhưng bạn sẽ nhận biết họ, vì bạn sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Kinh nói trí tuệ thần thông đức năng của bạn gần như hoàn toàn hồi phục, gần giống như Phật A Di Đà. Thân bằng quyến thuộc, bạn bè thân thiết từ vô lượng kiếp trước, họ ở bất cứ đường nào, bất cứ cõi nào, bạn xem thấy đều quen biết. Phàm hễ có duyên thấy được sẽ sanh tâm hoan hỉ, bạn liền có cơ hội đến giáo hoá họ. “Hành quyền phương tiện” chính là tuỳ loại hoá thân, tuỳ cơ diễn giáo.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc, người hạ hạ phẩm vãng sanh chỉ cần thấy qua Phật A Di Đà, ở bên cạnh Phật A Di Đà, đi nhiễu quanh một vòng là được. Bạn liền có năng lực đến thế giới khác tuỳ loại hoá thân, như trong “Phổ Môn Phẩm” đã nói, đáng dùng thân gì để độ liền có năng lực thị hiện ra thân đó. Loại năng lực này nếu ở kinh đại thừa nói, cần phải đạt được Viên Giáo Sơ Trụ Bồ tát, Biệt Giáo Sơ Địa Bồ tát, cũng chính là phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân. Người như vậy mới có năng lực này. Trong mười pháp giới, Phật Bồ tát không có năng lực này. Họ không làm được tuỳ loại hoá thân. Bồ tát trong pháp giới nhất chân thì có thể làm được.
Cho nên nhất định phải biết, cơ hội vãng sanh quyết không để lỡ. Để lỡ rồi thì thật sai lầm và đáng tiếc. Bất cứ thứ gì ở thế gian cũng đều là giả, chỉ duy nhất việc này là thật. Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng đến như vậy, kiến tư phiền não làm gì có thể đoạn được. Thông thường tu hành, sơ quả tiểu thừa chúng ta còn không có năng lực chứng, tám mươi tám phẩm kiến hoặc ba cõi này, chúng ta có bản lĩnh đoạn được hay sao? Nói cách khác, sơ quả cũng không thể đạt. Thế nhưng chúng ta chân thật phát tâm bồ đề, một lòng chuyên niệm, cầu sanh tịnh độ, nhờ oai thần Phật gia trì, việc này nhất định có thể đạt. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền siêu việt mười pháp giới. Trí tuệ năng lực này nhờ oai thần Phật gia trì không hề khác với Viên Giáo Sơ Trụ Bồ tát, chỉ có vượt qua chứ không thể kém hơn. Ở mười phương thế giới, đáng dùng thân gì để độ thì có thể thị hiện tám tướng thành đạo. Loại công đức lợi ích thù thắng này, có tra hết Đại Tạng kinh cũng tìm không ra, thị hiện rất nhiều thân, có thể tuỳ cơ nói pháp. Chúng sanh ưa thích nghe pháp gì, bạn liền giống như chư Phật Như Lai nói pháp môn đó cho họ nghe, khiến họ được độ.
“NHẬP PHẬT PHÁP TẠNG”
Trí tuệ đức năng vốn đủ trong tự tánh, gọi là Phật pháp tạng. “Phật” là Phật tánh, chính là chân tánh của mỗi chúng ta. Nhà Phật thường nói, chân tâm bổn tánh của tất cả chúng sanh gọi là Phật tánh. Phạm vi của hai chữ “chúng sanh” này rất rộng, ý nói chúng duyên hoà hợp mà sanh khởi ra hiện tượng, phạm vi trong đó vô cùng lớn. Tất cả động vật do chúng duyên hoà hợp mà sanh. Kinh Phật thường lấy con người làm thí dụ. Con người do bốn đại năm uẩn hòa hợp mà hiện khởi. Bốn đại là sắc pháp, sắc uẩn trong năm uẩn. Hiện tại chúng ta gọi là vật chất: thọ, tưởng, hành, thức. Bốn loại này chỉ về tinh thần. Phàm hễ là động vật đều do bốn đại năm uẩn mà sanh khởi ra hiện tượng. Ngoài động vật còn có thực vật, khoáng vật. Trong thực vật khoáng vật, chính là trong năm uẩn không có bốn uẩn sau. Sắc uẩn phía trước thì đầy đủ, cho nên bốn đại đầy đủ. Bốn đại cũng là chúng duyên hoà hợp mà hiện khởi, cho nên ý nghĩa của chúng sanh rất rộng lớn.
Chân tánh của tất cả chúng sanh, thực tế mà nói là một tánh. Một tánh biến thành nhiều hiện tượng. Phật ở ngay chỗ này đã phân tích một cách đơn giản. Phật nói, cái tự tánh này của động vật gọi là Phật tánh. Thực vật, khoáng vật là ngoài động vật, bao gồm hiện tượng tự nhiên; những tự tánh này gọi là pháp tánh. Các vị phải biết, pháp tánh bao gồm Phật tánh, nhưng Phật tánh không bao gồm pháp tánh. Phật tánh cũng tốt, pháp tánh cũng tốt, đều là nói Phật.
Phật pháp tạng là trí tuệ đức năng vốn đủ trong tự tánh. Ở thực vật cùng khoáng vật có đức năng, không có trí tuệ, còn ở động vật hữu tình chúng sanh có trí tuệ, có đức năng. Chúng sanh vô tình có đức năng, không có trí tuệ. Khác biệt ở chỗ này. Tất cả chúng sanh phàm hễ có Phật tánh đều sẽ thành Phật, đều nên làm Phật, hữu tình chúng sanh thành Phật. Chúng sanh vô tình liền theo đó mà chuyển, “y báo tùy theo chánh báo mà chuyển”. Cho nên kinh Hoa Nghiêm mới nói: “Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí”. Chúng sanh vô tình tự nó không thể chuyển. Phải khi chúng sanh hữu tình đạt trí tuệ viên mãn thì chúng sanh vô tình liên đới chuyển, đạo lý là như vậy.
“Nhập” là khế nhập cũng là chứng đắc. Trí tuệ đức năng vốn đủ trong tự tánh thảy đều hiển bày, thảy đều có thể dùng được, đó gọi là nhập. Trong pháp Đại thừa, người thế nào Phật pháp tạng hiển lộ ra? người nào vào được bảo tàng trí tuệ đức năng của tự tánh? Đó là chư Phật Như Lai. Các ngài đều đạt được, nhưng thực tế mà nói, chỉ “đạt” là nói một cách miễn cưỡng, làm gì có chuyện đạt hay không đạt, vì tự tánh vốn đủ.
Trên hội Lăng Nghiêm nói: “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc”, vì sao vô sở đắc? Vì bạn vốn có. Nếu vốn không có, hiện tại bạn có được mới gọi là đắc, còn vốn đã sẵn có, hiện tại gọi là hồi phục, không thể nói đắc. Vì vậy mới nói không có được mất. Hiện tại bản năng trí tuệ tự tánh của chúng ta chưa hiện tiền, không hiển lộ, nên chúng ta trải qua đời sống khổ cực, ngày tháng lao nhọc. Nói cách khác, trí tuệ đức năng trong tự tánh không thể hiện tiền, nên chúng ta chưa vào Phật pháp tạng.
Nói thì rất dễ nhưng làm rất khó. Mức độ thấp nhất phải đoạn dứt kiến tư phiền não, trần sa phiền não, đoạn bốn mươi mốt phẩm vô minh, hoặc chí ít cũng phải phá một phẩm mới có thể vào Phật pháp tạng. Phật pháp tạng là chân tâm bổn tánh; thiền tông gọi là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh là vào Phật pháp tạng, kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp thân đại sĩ, không phải người thông thường. Pháp thân đại sĩ là thành Phật, tuy nhiên thành tựu của họ vẫn chưa viên mãn, vì họ chỉ mới phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, họ có năng lực ở tận hư không khắp pháp giới độ hóa chúng sanh như trong “Phổ môn phẩm” đã nói, “đáng dùng thân gì để độ, ngài liền hiện ra thân đó”, đáng dùng thân Phật để độ, ngài liền có thể thị hiện tám tướng thành đạo. Các vị phải biết, thị hiện tám tướng thành đạo tuyệt nhiên không đại biểu ngài đã chứng được Phật quả cứu cánh viên mãn. Thế nhưng ngài vẫn chứng được phần chứng Phật quả, đó là nhất định. Ngài có năng lực thị hiện, do đó chúng ta ở trong Viên giáo xem thấy được, từ sơ trụ trở lên, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, tổng cộng có bốn mươi mốt ngôi thứ, bao gồm đẳng giác, đều gọi là phần chứng vị, không phải viên mãn. Cho nên câu này, vào Phật pháp tạng là phần chứng vị, bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ.
“CỨU CÁNH BỈ NGẠN”
Thêm vào sau chữ “cứu cánh” là “viên mãn”. Câu này là diệu giác vị. Từ phần chứng vị đến diệu giác vị nói những vị Bồ tát này đều là Bồ tát thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta phải làm thế nào để học tập? Người niệm Phật cần phải biết, trong tịnh độ tông gọi là Phật pháp tạng. Cách nói tuy không như nhau nhưng nghĩa thú không hề khác nhau. Phật pháp tạng chính là Di Đà dựa vào nguyện hải, pháp tạng tự tánh viên mãn. Chúng ta mỗi niệm cầu sanh Tây Phương tịnh độ, mỗi niệm mong cầu tham gia Liên Trì Hải Hội của Phật A Di Đà. Chúng ta có thể tham gia Liên Trì Hải Hội chính là vào Phật pháp tạng, đó là cách nói của tịnh độ tông chúng ta.
Người xưa nói “Nếu thấy được Di Đà lo gì không khai ngộ”, cái khai ngộ đó chính là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật của thiền tông. Do đây có thể biết, thấy Phật cũng đồng với đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh của thiền tông. Thế nhưng trong tông môn dùng phương pháp tham cứu để đạt đến cảnh giới này rất khó, vào thời đại hiện nay gần như không còn thấy.
Lão pháp sư Đàm Hư so với thời đại của chúng ta sớm hơn nửa thế kỷ. Đại sư thường hay khai đạo cho hậu học. Ngài nói chính mình ngay một đời thấy qua rất nhiều thiện tri thức xuất gia, tại gia tu hành, ngài nói cũng thấy qua người được định, tu thiền được thiền định, ví dụ lão hòa thượng Hư Vân của thiền tông. Lão hòa thượng Hư Vân được thiền định, nhưng khai ngộ hay không chúng ta không biết. Đại sư Đàm Hư nói, ngài chưa từng thấy qua người khai ngộ, cũng không hề nghe nói qua. Vào thời đại đó của Đại sư Đàm Hư, lão hòa thượng Hư Vân còn tại thế, cũng bao gồm trong đó. Đàm lão khẳng định ngài được thiền định, nhưng không thể khẳng định ngài khai ngộ.
Được thiền định là chuyện không dễ. Nếu chính mình không phát nguyện, tương lai nhất định sanh trời tứ thiền, địa vị rất cao, phước báu rất lớn. Chúng ta biết lão hòa thượng Hư Vân phát nguyện thân cận Bồ tát Di Lặc. Ngài đích thực sanh đến Đâu Suất nội viện, việc này không giả. Vậy người niệm Phật chúng ta nhất định phải hiểu được then chốt tu học. Niệm Phật thành Phật, thẳng tắt ổn định, mau chóng đáng tin, cứu cánh bỉ ngạn.
Vận dụng pháp môn niệm Phật, “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Sau khi sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, hoằng nguyện của họ phát ra ở nhân địa đều có thể thực hiện. Trong Tứ hoằng thệ nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, dù hạ hạ phẩm vãng sanh, nếu họ hoằng nguyện quảng độ tất cả chúng sanh thì đều có thể thực hiện được. Không giống nơi đây của chúng ta, nguyện của chúng ta đã phát mà không làm được, nên gọi là “Lực bất tòng tâm”.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không như vậy, tuy phàm thánh đồng cư hạ hạ phẩm vãng sanh, phiền não tập khí một phẩm cũng chưa đoạn, nhưng họ vẫn có thể đến tận hư không khắp pháp giới cúng dường chư Phật, độ hoá chúng sanh. Dựa vào cái gì? Nhờ vào gia trì của bổn nguyện, bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà. Thế mới biết pháp môn tịnh độ thù thắng không gì bằng. Thế xuất thế gian bất cứ pháp môn nào đều không thể so sánh. Ngay đời này chúng ta có duyên gặp được không phải là ngẫu nhiên, không phải là việc trùng hợp. Kinh Phật nói, đó là thiện căn phước đức nhân duyên từ vô lượng kiếp, đời này mới gặp được. Sau khi gặp, cả đời này chúng ta có thể thành tựu hay không? Kinh Phật cũng nói, người gặp được phân làm bốn loại, căn tánh không như nhau.
Người thượng căn nghe rồi liền tin tưởng, tin rồi liền phát nguyện, liền chăm chỉ nỗ lực tu học, y giáo phụng hành, một đời nhất định được sanh, đó là người thượng thượng căn.
Thứ kế một bậc không thể tự động tự phát, rất dễ dàng lười biếng giải đãi, cần phải có người khích lệ, cần phải có thiện tri thức đề cử, thì họ sẽ làm được. Họ chỉ cần được người khích lệ cũng có thể phấn chấn đoạn ác tu thiện, niệm Phật cầu sanh, và có thể vãng sanh.
Loại người căn tánh thứ ba thì kém một chút. Phải có thiện tri thức cần lao khẩn thiết khuyên bảo hết lời, họ mới hồi đầu, tương đối không dễ. Cho nên chúng sanh Diêm Phù Đề cang cường khó độ. Phật Bồ tát thị hiện ở thế gian này, dù có khó, các ngài đều không sợ. Các ngài có trí tuệ, có phương tiện khéo léo, hết lời khuyên can dạy bảo chúng ta. Thời gian lâu dần, chúng ta sống trong xã hội bị nhiều thiệt thòi, gặp nhiều chướng ngại, lúc đó mới chịu quay đầu, cũng có thể thành tựu.
Hàng thứ tư tuy gặp được nhưng tri kiến bất chánh. Chư Phật Bồ tát đến khuyên bảo, họ cũng không thể quay đầu. Loại này chúng ta xem thấy rất nhiều trong Phật pháp. Sau khi học được vài năm thì đi học ngoại đạo. Phật Bồ tát đến giáo hoá, họ vẫn không thể quay đầu. Đó là do tập khí phiền não nghiệp chướng của chính họ quá nặng. Bên ngoài gặp phải ác duyên, trong ác duyên cũng không ngoài danh vọng lợi dưỡng. Bên ngoài bị mê hoặc của danh vọng lợi dưỡng, bên trong có tham sân si mạn. Nội ngoại kết hợp nên họ bỏ đạo mà đi, vô cùng đáng tiếc. Tuy nhiên Phật không bỏ rơi họ. Phật vẫn đợi họ quay đầu. Ngay đời này không thể quay đầu thì chờ đời sau. Đời sau không quay đầu thì đợi đời sau nữa.
Thành thật mà nói, chúng ta không nên cười ngạo người khác, không chừng bản thân chúng ta chính là loại người đó. Không phải ngày nay chúng ta mới niệm Phật A Di Đà, không phải đời này mới tu tịnh độ, mà trong quá khứ đời đời kiếp kiếp, không biết bao nhiêu lần chúng ta gặp được pháp môn này. Không phải người ta vừa bị mê hoặc, mà họ đang từ từ tu tập, hy vọng đời này thông minh hơn một chút, không còn chạy rong nữa. Điểm này trong giáo học của người xưa, các ngài khéo léo dùng phương thức ngăn ngừa rất chu đáo. Đó là sư thừa mà thế xuất thế gian pháp chúng ta đã nói.
Chúng ta lạy một người làm thầy, chúng ta theo một vị thầy học thì phải theo chắc vị thầy này. Ngoài thầy ra, người khác đến dạy cho ta, nếu ta nghe họ và đi theo họ thì không còn là học trò của thầy giáo này. Người thế gian gọi là khinh sư phản đạo. Cho nên thời trước thầy giáo kèm thúc học trò, trừ khi cùng học với một mình thầy ra, bất cứ thiện tri thức nào khác giảng kinh nói pháp đều không được nghe. Việc ngăn cấm này tốt, giúp học trò không đến nỗi vượt qui. Vì sao? Học trò khi mới học, trí tuệ chưa khai mở, thế pháp Phật pháp chưa phân biệt thứ nào thật, thứ nào giả; chưa phân biệt tà chánh, thiện ác phải quấy, thậm chí đến lợi hại. Người sơ học không có trí tuệ không thể phân biệt. Không cần nói chân vọng tà chánh, nếu bạn không có năng lực phân biệt thì lợi hại trước mắt bạn cũng đều không thể phân được rõ ràng. Cho nên làm học trò có điều kiện để làm học trò; làm thầy giáo có bổn phận của thầy giáo. Điều kiện của học trò là nhất định phải phục tùng thầy giáo, tôn sư trọng đạo. Chúng ta theo một vị thầy giáo thì nhất định phải nghe lời dạy của thầy.
Tôi ở vào thời đại mạt pháp. Nói đến sư thừa, có lẽ tôi là người sau cùng. Từ tôi về sau có thể không còn nữa. Cả đời này, tôi cầu học đều một thầy giáo chỉ dạy. Khi chưa học Phật pháp, tôi học triết học với một mình tiên sinh Phương Đông Mỹ. Cho nên thứ học được rất thuần không tạp, có thể chuyên tâm, ít lâu sau liền nhận được hiệu quả, chân thật gọi là làm chơi ăn thiệt. Tôi học Phật, thân cận với Đại Sư Chương Gia. Ngài dạy tôi ba năm, cho nên trong quá trình cầu học của tôi, một chút khó khăn cũng không có, không phức tạp. Một thầy dạy một môn, “một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”. Đại sư Chương Gia viên tịch một năm, tôi quen biết với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Tôi theo ngài mười năm. Ngài răn dạy tôi chỉ nghe một mình ngài. Tức là ngoài ngài ra, không được nghe bất cứ người nào nói pháp. Tôi tuân thủ.
Nếu bạn thân cận một vị thầy giáo, khi người khác giảng kinh nói pháp, hoặc người khác giảng khai thị cho bạn, khuyên dạy bạn, bạn thảy đều nghe hết, thì tâm của bạn nhất định tán loạn, không ổn định, tâm bạn liền bị biến đổi, bạn liền đi với người khác. Như vậy nhân duyên thù thắng không gì bằng của chính bạn đã bị lỡ qua, bị vuột mất. Cho nên không chỉ không được nghe người khác nói chuyện mà sách chưa được sự đồng ý của thầy cũng không xem. Sau khi học Phật, tôi rất ít xem sách bởi vì đều phải được sự đồng ý của thầy. Trước khi học Phật, trước khi tôi tiếp xúc Phật pháp, tôi ưa thích đọc sách nên thường đọc rất nhiều thứ. Nhưng sau khi học Phật, tôi liền vâng theo lời dạy của thầy, không chỉ sách thế gian mà toàn bộ sách khác, tôi đều không xem. Ngay đến kinh điển của Phật giáo, tôi cũng lướt qua không nhiều. Tuy nhiên khi người ta nhắc đến, tôi đều có thể hiểu. Vĩnh viễn giữ gìn tâm địa thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí tuệ.
Tôi được ân đức giáo huấn của thầy rất lớn. Tâm tôi mỗi niệm báo ân đối với thầy mạnh hơn nhiều lần so với người khác. Tôi cũng chân thật được lợi ích, đó là do tôi thật biết nghe lời, chân thật hợp tác với thầy. Thầy toàn tâm toàn lực dạy chúng ta, chúng ta phải hợp tác với họ mới có thể đạt lợi ích chân thật của giáo học. Đạo lý này không thể không hiểu. Thành tựu của thế xuất thế gian pháp, có rất nhiều người thành tựu kiệt xuất. Bạn thử tự đi tìm hiểu, nhất định họ tuân thủ giáo huấn của thầy giáo mới được thành tựu. Thành tựu của họ mới chắc thực, có gốc rễ bám sâu, sau đó cành lá mới xum xuê. Gốc của bạn bám không sâu thì làm sao được. Không luận thời đại thay đổi thế nào, tôi tin tưởng nguyên lý nguyên tắc học tập vĩnh viễn sẽ không thay đổi.
Thế nhưng thời đại hiện tại không giống thời xưa. Ngày xưa khi chúng ta làm con cái, bị ràng buộc bởi cha mẹ, nhất định không dám phản kháng; đi học ở trường học nhận giáo huấn của thầy cũng không dám phản kháng ý thầy. Từ nhỏ đã tập thói quen giữ qui củ. Còn hiện nay là dân chủ mở rộng, đề xướng tự do phóng túng, cho nên con cái không nghe lời cha mẹ. Con cái ngày ngày xem truyền hình, chơi vi tính, biết quá nhiều thứ, rồi quay sang nói cha mẹ làm sai việc này, làm không đúng việc kia. Ở Đài Bắc, tôi gặp một thầy giáo trung học cũng là người học Phật, ông kể, con cái của ông thường hay về nhà dạy ông. Chúng hiểu biết rất nhiều. Học trò không nghe thầy giáo dạy bảo thì xã hội làm sao có thể được an định hoà bình. Loại thói quen này nếu tiếp tục phát triển thì xã hội tương lai là thế giới đại loạn.
Ai phá hoại xã hội? Ai tạo ra những động loạn này để tất cả chúng sanh chịu những đại khổ đại nạn? Xin nói với các vị, ma vương thứ nhất chính là truyền hình. Truyền hình vi tính là đại ma vương hủy diệt thế giới. Lời nói này không phải tôi nói mà thầy tôi nói, tiên sinh Đông Phương Mỹ. Lão sư Phương rất cảm khái, từng có người đến hỏi thầy, vừa lúc hôm đó tôi cũng có mặt ở nhà thầy nên nghe được. Người ta hỏi thầy, “Nước Mỹ ngày nay là nước mạnh nhất trên toàn thế giới; đương nhiên nước mạnh cũng sẽ bị diệt vọng như La Mã đã bị diệt vong. Nếu nước Mỹ tương lai bị diệt vong thì nhân tố thứ nhất là gì?” Thầy Phương trả lời là truyền hình.
Nước Mỹ không bị diệt do bên ngoài, làm gì có ai có thể đối đầu với họ. Chỉ có truyền hình làm cho thế hệ thanh niên trẻ nhỏ thảy đều bị hủy diệt. Chúng ngày ngày xem thấy, tiếp xúc toàn mặt không tốt. Nội dung diễn trên truyền hình đều là sát đạo dâm vọng, luôn quanh quẩn những đề tài này. Gần đây nhất, chúng ta xem thấy báo chí đưa tin, học trò nước Mỹ cầm súng ngắn giết thầy giáo, giết bạn học. Nước Mỹ không cần đánh giặc bên ngoài, chính trong nội bộ tự đánh nhau, do ai dạy? Truyền hình dạy, vi tính dạy. Có người nói với tôi, trong vi tính còn dạy làm thuốc nổ, làm bom nguyên tử. Tương lai, một học sinh cao trung, từ vi tính cũng có thể chế tạo được bom nguyên tử. Bạn nghĩ xem như thế được sao?
Phương tiên sinh nói lời này không sai. Truyền hình, vi tính là đại ma vương. Ma vương này không có người nào không yêu nó. Chúng ta học Phật phải hiểu rõ chân tướng sự thật, nhất định phải nỗ lực chăm chỉ tu học, niệm Phật mà di dân đến thế giới Cực Lạc. Thế giới này đã loạn, chúng ta phải di dân đến nơi khác. Ngay từ bây giờ phải chuẩn bị sớm nếu không e không kịp. Đến được thế giới Tây Phương Cực Lạc, cũng giống như kinh này nói, hạ hạ phẩm vãng sanh, được oai thần bổn nguyện Phật A Di Đà gia trì, trí tuệ đức năng của bạn cùng với pháp thân đại sĩ không hai không khác.
Kinh nói rất hay, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là Bồ tát A Duy Việt Trí, việc này thật không thể nghĩ bàn. Bồ tát A Duy Việt Trí không phải là Bồ tát Thập Trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. Bồ tát A Duy Việt Trí là Thất Địa trở lên. Hạ hạ phẩm vãng sanh sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tuy phiền não của chúng ta một phẩm cũng chưa đoạn nhưng đến thế giới Cực Lạc thần thông cùng đạo lực giống như Bồ tát Thất Địa, vậy thì còn gì bằng. Cho nên có thể làm được “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên
- Tag :
- HT Tịnh Không