Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 43

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10049)
Phần 43


GIẢNG KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 43)

Pháp Sư Tịnh Không

“CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT, KHAI ĐẠO QUẦN SANH”

Cũng như “thượng cúng chư Phật, hạ hóa chúng sanh”. Nếu chính mình không có tam học Giới Định Huệ thì bạn không thể cúng Phật, cũng không thể lợi sanh. Bốn chúng đồng tu chúng ta, không luận tại gia xuất gia, nhất định phải chân tu tam học. Giới Định Huệ vừa triển khai chính là từng việc nhỏ nhất ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.

Ví dụ, giặt quần áo, nấu cơm là việc hàng ngày của người phụ nữ. Giặt quần áo là tu Giới Định Huệ, nấu cơm cũng vậy. Nếu bạn thông đạt tường tận, từ sớm đến tối khởi tâm động niệm không hề rời khỏi Bồ tát hạnh thì bạn đang tu Bồ tát đạo. Còn không hiểu rõ, không thông đạt, tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi thì khác biệt sẽ lớn. Truy cứu căn nguyên của khác biệt ở ngay một niệm, giác hay mê. Một niệm giác, chúng ta giặt quần áo theo trình tự, có phương pháp. Đó là trì giới. Giặt quần áo phải có một khoảng thời gian mấy mươi phút nhẫn nại chờ. Đó là tu định. Quần áo giặt sạch sẽ, ủi thẳng đẹp. Đó là trí tuệ.

Tất cả việc lớn việc nhỏ đều luôn tương ưng với tam vô lậu học. Tương ưng với tam vô lậu học thì tương ưng với lục độ, tương ưng với mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền. Nếu triển khai ra liền viên mãn tương ưng với Bồ tát lục độ vạn hạnh. Cho nên Bồ tát đạo tu ở ngay cuộc sống thường ngày. Mọi nơi mọi chỗ đều viên mãn Bồ tát hạnh. Chúng ta dùng loại tâm tình này cúng dường chư Phật, phải thực tiễn bổn phận của mình vào hiện tiền.

Làm thế nào “cúng dường chư Phật”? Niệm Phật chính là cúng dường. Phải biết niệm, phải “phát tâm bồ đề, một lòng chuyên niệm”. Tám chữ này cúng dường chư Phật, cũng đồng thời tự độ. Cho nên khi phát nguyện vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni hoan hỉ tán thán, Phật A Di Đà hoan hỉ tiếp dẫnmười phương ba đời tất cả chư Như Lai đều đồng âm đến khuyên bảo chúng ta. Trên kinh A Di Đà, vì sao chư Phật Như Lai lại tán thán? Vì các ngài chỉ có một nguyện, một tâm “phổ độ chúng sanh, sớm ngày thành Phật”. Phật Bồ tát sẽ không hài lòng khi thấy chúng ta trễ một ngày. Pháp môn niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là pháp môn ngay đời này thành Phật, là pháp môn đệ nhất tất cả chư Phật tiếp dẫn chúng sanh, không hề quanh co uyển chuyển, dạy bạn ngay một đời chứng được cứu cánh viên mãn. Bạn nghĩ xem pháp môn này thù thắng dường nào.

Tuy nhiên pháp môn này nhất định chỉ độ chúng sanh căn tánh chín muồi. Làm sao biết chúng sanh căn tánh chín muồi? Sau khi nghe dạy, họ tin tưởng, tuyệt nhiên không hoài nghi, liền có thể phát nguyện không thoái chuyển. Họ dõng mãnh tinh tấn thành thật niệm Phật, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Bổn tông gọi họ là chúng sanh căn tánh chín muồi, nói cách khác, duyên của họ làm Phật hiện tại đã chín muồi. Rất không dễ dàng. Họ không làm Bồ tát, A La Hánlàm Phật. Kinh Di Đà nói “không thể thiếu thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước kia”. Họ là thiện căn, phước đức, nhân duyên, ba điều kiện chủ yếu đồng thời đầy đủ nên nhất định được sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc bất thoái thành Phật. Cứ hễ sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền làm Phật, dù hạ hạ phẩm vãng sanh. Trong 48 nguyện của kinh này, Phật A Di Đà cho biết, người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ tát. Thực ra A Duy Việt Trí chính là Phật, không phải Bồ tát thông thường.

Cho nên chư Phật Như Lai nói pháp môn này khó tin. Đương nhiên khó tin vì duyên làm Phật chưa chín muồi nên họ không tin tưởng. Chỉ có người làm Phật tin tưởng, còn không phải người làm Phật thì không tin tưởng. Đạo lý là như vậy. Người căn tánh Bồ tát không tin tưởng, người căn tánh Thanh Văn, Duyên giác đương nhiên càng không tin tưởng. Chỉ người căn tánh nhất Phật thừa mới tin sâu không hoài nghi. Họ cúng dường chư Phật qua việc xưng niệm một danh hiệu này, “một niệm tương ưng một niệm Phật”. Niệm này cúng dường hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả chư Phật, gọi là pháp môn bình đẳng phổ cúng tất cả chư Phật Như Lai.

Ngày mai là quốc khánh của Singapore. Tối nay, các vị phát tâm cần ở đây niệm hai ngày hai đêm thì phước báu cúng dường không cần phải nói. Chúng ta cũng không cách gì tính được. Bạn cúng dường chư Phật có hiệu quả chân thật hay không? Bạn niệm Phật thành tâm hay không? Bạn niệm được tương ưng hay không? Nếu dùng tâm chân thành mà tương ưng thì công đức đó không thể nghĩ bàn. Niệm Phật là nhân trí tuệ, thành Phật là quả.

Khai đạo quần sanh” là độ người. Chúng ta có thể đem pháp môn thù thắng như vậy, dùng phương tiện khéo léo rộng vì tất cả đại chúnggiới thiệu. “Khai” là khai mở bế tắc cho họ bằng ngôn giáo. Trong “đạo” thì dùng thân giáo, làm gương cho họ xem. Thân giáo thù thắng hơn nhiều so với ngôn giáo. Chúng ta khuyên người niệm Phật, nói đến lở da miệng, họ vẫn không hoàn toàn tin tưởng, vẫn khó tiếp nhận, bán tín bán nghi. Hôm nay niệm Phật đường xây dựng, chúng ta bảo họ đích thân đến đây niệm Phật một ngày thì họ sẽ liền tường tận, vì chính mình được thể nghiệm.

Niệm Phật đường này hoàn toàn khác với các niệm Phật đường khác. Đạo tràng này thanh tịnh trang nghiêm, không làm pháp hội, không làm kinh sám Phật sự. Ngoài điển tích của tịnh tông ra, không xen tạp bất cứ kinh điển nào. Có nhiều pháp sư dẫn chúng, bạn đến đâu cũng không tìm được. Nhóm tỳ kheo thanh tịnh. Ngày trước họ thanh tịnh hay không không liên quan, chỉ cần đến Singapore hai tháng liền được thanh tịnh. Thanh tịnh tỳ kheo nơi đây không cần danh vọng lợi dưỡng, không cần bạn cung kính cúng dường, không cần bất cứ thứ gì. Họ đều phát khởi được tâm thanh tịnh nhất. Mọi người cùng nhau niệm Phật, cảm ứng không thể nghĩ bàn. Tôi tin các vị đồng tu, đầu óc thanh tịnh, bình lặng một chút cũng có thể biết đạo tràng này đang có Phật Bồ tát niệm Phật. Chúng ta ở trong đạo tràng cùng niệm với Phật Bồ tát. Thử nghĩ xem thù thắng dường nào. Vậy ai là Phật Bồ tát? Bạn cố tìm cũng không thể tìm ra. Nếu bạn tìm thì Phật hiệu của bạn niệm sẽ không tương ưng vì xen tạp, phá hư mất công phu. Niệm Phật nhất định không được xen tạp. Người xưa ghi chép rất nhiều về việc xen tạp.

Chẳng hạn triều nhà Minh, Thích Kế Quang là một vị tướng quân cũng là Phật giáo đồ kiền thành. Bình thường ông tụng kinh Kim Cang rất có lực. Một hôm ông mộng thấy một binh sĩ trận vong là thuộc hạ của ông, xin ông đọc quyển kinh Kim Cang để siêu độ cho anh ấy. Khi tỉnh dậy, ông liền cung kính đọc kinh, hồi hướng cho vị binh sĩ này. Tối hôm sau, ông lại mộng thấy binh sĩ này đến cảm tạ và nói rằng: “Cảm tạ tướng quân, nhưng tôi chỉ nhận nửa bộ kinh Kim Cang”. Ông hỏi vì sao. Binh sĩ trả lời: “Vì khi ngài đọc kinh Kim Cang ngay giữa xen tạp hai chữ ‘không dùng’, cho nên hiệu quả chỉ được phân nửa”. Ông nhớ mình không nói “không dùng” khi đọc kinh. Lát sau, bỗng nhiên ông nghĩ ra. Khi ông đọc kinh, người hầu của ông bưng đến một tách trà. Ông tuy không nói, chỉ xua tay, nhưng trong lòng đã khởi lên ý niệmkhông dùng”. Vậy mà hiệu quả liền mất đi phân nửa. Có thể thấy xen tạp là việc hư hại. Hôm sau, Thích tướng quân cung kính tụng lại một bộ nữa. Buổi tối lại mộng thấy người binh sĩ đến cảm tạ ông. Anh ấy đã nhận toàn bộ thọ dụng và siêu sanh.

Do đó niệm Phật tụng kinh không nên xen tạp. Nếu bạn nghe tôi nói Phật đường này có Phật đang ở, bạn liền tìm kiếm, như vậy bạn xen tạp và phá hư toàn bộ công phu niệm Phật của chính mình. Phải làm thế nào quán tưởng, ngoài mình ra, mỗi người đều là Phật, người người đều là chư Phật Như Lai hoá thân, thì công phu của bạn không thể nghĩ bàn, vì tâm bạn rất chân thành. Niệm Phật với nhiều Phật, không khí càng thịnh. Hai mươi bốn giờ nhất định sẽ không mệt mỏi, càng niệm càng hoan hỉ, vì ở chung với nhiều chư Phật Như Lai. Thông thường, người gặp việc vui tinh thần thoải mái, cùng ở với một vị Phật đã thấy vinh dự rồi, còn ở chung với nhiều Phật càng thù thắng hơn. Phải xem mỗi mỗi là Phật thật, không phải Phật giả. Nhất định không tưởng tượng họ là Phật mà họ chính là Phật thật. Những vị Phật này đến giúp ta niệm Phật.

Niệm Phật đường này rất thù thắng, công đức niệm Phật vô hạn. Ở đây còn có một tầng ý nghĩa sâu, chính là những vị Bồ tát đã chứng “pháp tánh không”, “pháp tướng vô sở hữu”, vì sao phải cầu vãng sanh? Vì sao còn khuyến hoá chúng sanh? Có phải vì họ nhiều chuyện? Không phải. Sau khi chứng được pháp không, tường tận thông đạt tất cả pháp thế xuất thế gian; sau khi bất khả đắc vô sở hữu, lòng từ bi trong tự tánh tự nhiên sanh khởi. Phát tâm đó không phải miễn cưỡng, không do người khác khuyên mà trong tự nhiên sanh khởi ra. Pháp vốn như vậy.

Kinh Duy Ma nói, những vị Bồ tát này “tuy chí chư Phật quốc, tức chúng sanh không”, họ thông đạt tường tận tất cả pháp thế xuất thế gian, pháp giới nhất chân cùng mười pháp giới, “mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện”, thế nhưng họ vẫn thường tu tịnh độ, giáo hoá chúng sanh, niệm Phật cầu sanh A Di Đà Phật quốc độ. Họ làm như vậy vì muốn thị hiện tấm gương cho những người chưa được độ thấy. Đó là từ bi chân thật. Tại sao phải độ những chúng sanh này? Mình và người không hai. Xin nói với các vị, chúng sanh chưa độ hết thì tự giác không thể viên mãn. Cũng như thân thể này của chúng ta có rất nhiều tế bào. Chỗ nào trên thân nổi lên u nhọt, tế bào ở chỗ đó có bệnh. Nếu ta không chữa hết thì thân thể chúng ta sẽ không khoẻ mạnh tròn đầy. Mười phương thế giới còn những chúng sanh mê hoặc điên đảo, còn những chúng sanh luân hồi sáu cõi, thì cũng giống u nhọt nổi trên thân vậy. Trong cái nhìn của chư Phật Bồ tát, tình dữ vô tình đồng một pháp thân, đồng một lý thể, đồng một tâm tánh, gọi là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”.

Ngày nay thế giớitai nạn, người thông thường nhận nỗi thống khổ. Còn người chân thật thông đạt chân tướng sự thật liền biết đó là một bộ phận trên toàn thân thể chúng ta. Chúng ta sẽ không nề hà giúp họ. Hiện tại có cấp nạn trước phải cứu cấp. Cứu cấp đương nhiên thuộc về tài bố thí. Đầu tiên phải lấy tài bố thí làm nhân duyên, cùng kết duyên với những chúng sanh này. Sau khi có duyên với họ, chúng ta dùng pháp bố thí khuyến hoá họ vĩnh trừ ác nghiệp, đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, liền cải thiện hoàn cảnh đời sống, vĩnh viễn không bị tai hại. Đến đây nhất định dựa vào chỉ đạo của Phật pháp.

“HÓA HIỆN KỲ THÂN, DO NHƯ ĐIỆN QUANG”

Câu này hoàn toàn chiếu ứng với câu trước “chư Phật sát trung, giai năng thị hiện”. “Hoá hiện kỳ thân” chính là thị hiện, tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp. Tuy hóa hiện kỳ thân nhưng chính mình rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. “Do như điện quang”, biết tất cả những hoá hiện đều là mộng huyễn bào ảnh. Bạn thấy họ thành tựu Phật pháp, thành tựu sự nghiệp độ chúng sanh, vô lượng vô biên công đức, nhưng chính mình tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần. Điểm này rất then chốt.

Điện quang” ý nói sanh diệt đồng thời, hiển thị chân tướng sự thật hóa hiện. Sanh diệt đồng thời chính là “không sanh không diệt” trong Phật pháp.

“LIỆT MA KIẾN VÕNG, GIẢI CHƯ TRIỀN PHƯỢC”

Đoạn phía trước là tự thọ dụng của Bồ tát, “hoá hiện kỳ thân, do như điện quang” là trí tuệ chân thật. Không có trí tuệ chân thật thì không thể giúp đỡ chúng sanh. Còn có trí tuệ, giúp đỡ chúng sanh thì không những chính mình không mệt mỏi, trái lại còn tăng thêm định huệ. Rất nhiều trường hợp không vào được cảnh giới này để giáo hoá chúng sanh nên bị chúng sanh dẫn đi mất. Thậm chí từ thời Thích Ca Mâu Ni Phật, nhiều người không hiểu rõ chân tướng sự thật, không thấu triệt tường tận. Họ “ngã pháp” hai chấp không buông bỏ, nói cách khác trong lòng họ vẫn phải quấy nhân ngã, phiền não tập khí rất nồng hậu chưa đoạn; gặp duyên bên ngoài, họ liền khởi hiện hành, sanh phiền não, rồi tạo ác nghiệp, và đọa lạc luân hồi. Nguyên nhân do họ chưa triệt để tường tận.

Nếu mang theo một ít tập khí vẫn không hề gì, đó là A La Hán Bồ tát, luôn có loại thị hiện này. Theo kinh Phật, Xá Lợi Phất là vị đệ tử trí tuệ trong hàng đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni nhưng vẫn còn tập khí sân hận. Ca Diếp tôn giả là vị có sức định rất sâu, truyền nhân của thiền tông. Năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật đem thiền tông truyền cho Ca Diếp. Ca Diếp trở thành tổ thứ nhất của thiền. Mặc dù thiền định sâu nhưng khi nghe thiên nhân tấu lên loại âm nhạc mỹ miều, Ca Diếp bất tri bất giác liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhảy múa khiêu vũ theo. Bản thân ông cũng không kìm chế nổi. Việc này cho thấy tập khí sâu nặng, nhưng họ nhờ công phu vẫn không đến nỗi rơi vào sáu cõi luân hồi.

Kinh Phật nêu lên một số câu chuyện của A La Hán, Bồ tát Quyền Giáo để chúng ta cảnh giác. Họ giác ngộ quay đầu rất nhanh nên không chướng ngại, còn phàm phu chúng ta ở trong mê hoặc không biết quay đầu thì phiền phức to. Không biết quay đầu, ác nghiệp càng tạo càng nặng.

Họ quay đầu nhanh, giác ngộ mau, độ hoá chúng sanh là “liệt ma kiến võng, giải chư triền phược”. Phía trước chúng ta đã từng đọc qua, dùng sức định huệ phá sở tri chướngphiền não chướng. “Ma kiến” chính là sở tri chướng, “triền phược” là phiền não chướng. Chính mình phải có định huệ, phải có phương tiện khéo léo thuộc về giới sở nhiếp. Do đây mà biết không được rời khỏi tam học. Tự độ, độ người đều phải tương ưng với tam học. Chúng ta ở trong sáu cõi ba đường, Phật pháp thường gọi là hiểm đạo, biết giữ lấy tự thân không ô nhiễm, không bị đọa lạc. Được cái bản lĩnh này, có công phu thì chính mình vĩnh viễn ở nơi chánh định, không luận cảnh duyên thế nào, trong lòng vĩnh viễn thanh tịnh, tường tận, không mê hoặc, bạn mới có năng lực giúp người khác phá tà tri tà kiến.

Kiến” ví dụ cho cái lưới, “ma kiến” chính là tri kiến sai lầm, tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm. Phật pháp dạy chánh tri chánh kiến, hoàn toàn tương phản với ma kiến. Làm thế nào điều chỉnh quan niệm sai lầm của họ? Đối với thế gian chúng ta, biện pháp tốt nhất là giảng kinh nói pháp. Sự việc này không chỉ bằng thời gian ngắn mà là thời gian dài. Mục đích giảng kinh nói pháp phải giúp người khai ngộ. Nếu họ không khai ngộ thì dù nghe một trăm năm cũng uổng công, thậm chí còn đem kinh điển của Phật biến thành ma kiến. Chỗ này chúng ta thường nói “không hiểu Như Lai chân thật nghĩa”. Hoặc hiểu lầm, hiểu sai ý nghĩa của Như Lai, người xưa gọi là “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan”, đem Phật kinh biến thành tư tưởngkiến giải sai lầm. Cho nên kinh Hoa Nghiêm, Đại Trí độ luận thường nói “Phật pháp vô nhân thuyết, tùy trí mạc năng giải”. Người thế gian thông minh trí thức liệu có thể xem hiểu được Phật kinh không? Không hiểu, vì kinh điển Phật, ý nghĩa từng câu từng chữ ở ngoài lời, đó là chỗ khó của Phật pháp. Nếu bạn ở trong văn tự, trong thanh âm mà cầu, thì nhất định không cầu được Phật pháp. Phải hiểu tường tận định nghĩa hai chữ Phật pháp.

Phật pháp là pháp giác ngộ, nếu bạn ở trong văn tự âm thanh mà cầu thì quyết không thể khai ngộ, vì chấp tướng. Lìa tướng mới có thể khai ngộ. Còn chấp tướng bạn chưa lìa khỏi phân biệt chấp trước. Phải buông bỏ phân biệt chấp trước mới có thể khai ngộ. Phật trên kinh thường tán thánngười khéo nói, nói mà không nói, không nói mà nói. Người khéo nghe, nghe mà không nghe, không nghe mà nghe”, họ có chỗ ngộ. Kinh Kim Cang, Phật nói rất hay, Phật không có định pháp để nói. Phật đã không có pháp có thể nói, thì Phật pháp còn có ý nghĩa gì? Nếu chúng ta cứ muốn nghĩ trong kinh có đạo lý gì, ý nghĩa gì, thì chúng ta sai. Kinh điển của Phật bốn mươi chín năm không có ý nghĩa. Nếu có ý nghĩa, thì Phật thật có nói pháp. Bốn mươi chín năm, Phật không hề xen tạp một chút ý kiến của mình. Cho nên Ngài tự nhận, Ngài không hề nói gì. Không nói nhưng vì sao lại nói suốt bốn mươi chín năm? Sự việc này như thế nào? Thực ra những gì Phật nói đều không phải chính mình, không hề có chút ý kiến của chính mình. Những gì Ngài nói đều là của cổ Phật. Thái độ của Ngài giống y Khổng lão phu tử “thuật nhi bất tác”, đều thuật lại từ người khác, không hề có chút ý kiến của chính mình.

Lại nói với các vị, người khác là ai? Là tất cả chư Phật Như Lai. Tất cả chư Phật Như Lai là một vị nào? Đó chân thậtchân như bổn tánh. Tự tánh cảm ứng tương thông với tất cả chúng sanh, trong tự nhiên lưu xuất ra, pháp vốn như vậy. Kinh Hoa Nghiêm mới nói “trần thuyết sát thuyết, vô gián đoạn thuyết”. Chúng ta đem những đại kinh này hợp lại liền thể hội được ý nghĩa, đó mới là chân thật nói pháp, mới đem hết thảy những tri kiến sai lầm của chúng ta chân thật phá trừ. Do đó nói pháp phải chú trọng “thiện xảo”. “Xảo” là phương pháp xảo diệu, “thiện” là khiến cho người nghe ngộ nhập. Xảo mà không thiện thì người nghe không thể ngộ nhập.

Vậy làm thế nào mới có thể ngộ nhập? Có cần phải tìm một người chân thật cao minh để nói pháp? Ngày xưa rất nhiều tình huống, người nói pháp chưa khai ngộ, người nghe pháp đã khai ngộ rồi. Đúng như câu nói “biết nói không bằng biết nghe”. Các vị đồng tu nghe kinh đã nhiều năm, tại sao không thể ngộ nhập? Vì bạn không biết nghe. Tại sao không biết nghe? Vì tâm của bạn không định.

Hiện tại chúng taphương tiện khéo léo, chúng ta niệm trong niệm Phật đường thêm vài ngày thì tâm liền được định. Khi nghe lại kinh sẽ không như nhau, sẽ có chỗ ngộ. Từ chỗ này, tôi nghĩ một số đồng tu ắt có chút thể ngộ. Tại sao người thời xưa xem kinh nghe giảng lại rất dễ dàng thể hội, vòn người hiện đại dường như thông minh hơn, nhưng nghe kinh mấy mươi năm, vẫn cả đờimơ hồ hồ không thể khai ngộ? Điểm này chúng ta phải hiểu. Người xưa học Phật không luận tại gia xuất gia đều qua quá trình năm năm học giáo. Năm năm không phải học giới luật, mà chỉ tuân thủ lời răn dạy của thầy. Ngày trước nếu muốn học Phật, năm năm đầu đến đạo tràng làm tạp vụ. Hàng ngày bị sai bảo việc nặng nhọc, mục đích tạo điều kiện cho bạn tu phước. Không có phước không được.

Năm năm tu phước tu huệ. Huệ tu như thế nào? Huệ tu căn bản trí, dạy bạn vô tri, làm cho tâm bạn hoàn toàn định lại. Ở thiền tông thì tham cứu, làm vắng bặt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong thiền đường, mỗi ngày bạn phải ngồi thiền. Đường chủ cầm trên tay một cây hương bản để đánh những ai ngồi vọng động, vọng tưởng. Thậm chí thấy bạn không vọng tưởng cũng đánh, vì không có vọng tưởng thì bạn hôn trầm.

Thầy ở thiền đường rất khéo. Ngày ngày đánh hương bản thực tế cũng không dễ dàng. Bạn phải đánh cho họ khai ngộ mới được. Dùng hương bản đó đánh chết người mà không khai ngộ được thì họ có tội. Cho nên khi đánh tức là giúp bạn khai ngộ. Nếu đánh mà không khai ngộ thì không đánh. Cái đánh đó coi như sai.

Giáo hạ là dạy bạn đọc kinh. Mỗi tông phái, mỗi đạo tràng có cách học không như nhau. Giống như Thiên Thai trong năm năm phải thuộc ba bộ kinh lớn. Thứ nhất, kinh Pháp Hoa văn cú, trước tác của đại sư Trí Giả, ngay đến chú giải theo kinh cũng phải thuộc. Thứ hai, kinh Pháp Hoa huyền nghĩa thích sám, ba cuốn đóng bìa cứng rất dày; ngoài ra còn có phương pháp tu hành của ngài “Ma Ha Chỉ Quán”. Đó là ba bộ kinh lớn của Thiên Thai, trong năm năm phải thuộc nhuần nhuyễn. Ngày ngày làm việc, làm việc xong thì phải mau học thuộc kinh. Bạn không có chỗ ngồi trong giảng đường để nghe kinh, trong thiền đường cũng không có chỗ. Suốt năm năm chỉ phục vụ đại chúng. Đó là khoảng thời gian tu phước tu huệ. Chăm sóc đi lại sinh hoạt của đại chúngtu phước. Học thuộc kinh điểntu huệ.

Tam học giới định huệ hoàn thành, tâm bạn liền định lại, bạn sẽ không vọng tưởng. Nếu có vọng tưởng thì không thể thuộc được. Dùng phương pháp này để tu căn bản trí. Sau năm năm nền tảng như vậy, tiếp tục năm năm vào giảng đường nghe giảng kinh thì làm sao không khai ngộ. Nhiều ít cũng sẽ có chỗ ngộ. Tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ, luôn có chỗ ngộ, nên đối với tu học của họ pháp hỉ sung mãn, rất có đạo lý. Còn người hiện tại chúng ta thường bỏ mất đi nền tảng. Hơn nữa vừa tiếp xúc Phật pháp, xem qua rất nhiều tư liệu, nghe rất nhiều người giảng, nhưng đầu óc bị rối tung, hồ đồ, mê hoặc. Cho nên hiện tại không có người khai ngộ. Tuy chúng ta không phải là “liệt ma kiến võng”, nhưng đã đọa vào lưới của ma không thể ra khỏi.

Thế nên niệm Phật đường này có công đức hy hữu. Mọi người đến niệm Phật mỗi ngày, từ ba đến năm năm, lại nghe tôi giảng kinh, có chỗ ngộ, đem tất cả phiền não tri kiến thảy đều niệm tiêu, chỉ có một niệm “A Di Đà Phật”. Niệm Phật đường của chúng ta hoàn toàn khác với các niệm Phật đường khác. Bốn bề đều là Phật tượng của Phật A Di Đà. Tôi từng nói, nhiều tượng Phật đến như vậy thì các vị chính là đại chúng trong Hải hội Liên Trì. Sẽ có một vị Phật chính là bạn. Bạn hiện thân nơi tượng Phật, giống y Phật A Di Đà. Cái niệm Phật đường này rất thân thiết, đó là hoàn cảnh y báo tu học thù thắng của chúng ta, cũng là tăng thượng duyên tốt nhất. Chúng ta hoan nghênh đồng tu niệm Phật các nơi trên toàn thế giới đến niệm Phật đường này. Chính các vị sẽ cảm thấy mà không cần tôi nói, bạn ở đây một tuần thì ngay trong đời, không luận tham gia bất cứ đạo tràng nào, dự Phật thất niệm Phật sẽ thấy không thù thắng như ở đây. Bạn ở đây một tuần, cảm thụ nhất định không giống các nơi khác. Niệm Phật đường này đã niệm được mấy năm, kết hợp nghe giảng kinh, đó là phương pháp ép bất đắc dĩ. Nếu mỗi ngày niệm Phật, còn có hai giờ ngồi nói chuyện xen tạp thì mọi người thoái tâm, cho nên hiện tại mỗi ngày giảng kinh hai giờ đồng hồ, mục đích bơm hơi cho bạn, phòng bạn thoái tâm. Mỗi ngày giảng kinh nhằm giúp bạn phá sở tri chướng, phiền não chướng, đưa bạn khế nhập cảnh giới minh tâm kiến tánh.

Cụ thể làm thế nào? Trước tiên niệm Phật đường cố gắng niệm tốt ba năm, sau đó mới nghe giảng kinh. Đó là ta chiếu theo qui củ mà làm. Tuy nhiên, sau ba năm niệm, e rằng mọi người đều chạy hết, nên chúng ta lại ngày ngày khuyên nhủ, đem công đức lợi ích thù thắng giải thích tường tận, khiến mọi người hoan hỉ niệm Phật. Thực tế chỉ cần niệm trên nửa năm, bạn liền sanh tâm hoan hỉ, liền dần dần khế nhập cảnh giới, kinh này có nghe hay không cũng không hề gì, bạn chân thật được thọ dụng. Cho nên ở giai đoạn mở đầu, giảng kinh rất cần thiết.

Hết quyển 2 (Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12501)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11646)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12052)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11445)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12380)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53061)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21398)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26047)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14382)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16090)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16847)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17586)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12534)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11610)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11618)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14511)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19569)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12318)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13863)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15524)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17196)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20198)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13841)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14557)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18348)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11944)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15853)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18910)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant