Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 44

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 11124)
Phần 44


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 44)

 

Pháp Sư Tịnh Không

 

PHẦN II

“ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN”

VIỄN SIÊU THANH VĂN, BÍCH CHI PHẬT ĐỊA; NHẬP KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ NGUYỆN PHÁP MÔN; THIỆN LẬP PHƯƠNG TIỆN, HIỂN THỊ TAM THỪA. Ư THỬ TRUNG HẠ, NHI HIỆN DIỆT ĐỘ”.

Đó là tướng thứ bảy trong tám tướng thành đạochuyển pháp luân”. Đoạn này ý nói chư Phật Như Lai thị hiện sáu cõi, vì chúng ta mà làm tấm gương hoằng pháp lợi sanh. Phần sau, chúng ta sẽ bàn đến việc làm thế nào đem thị hiện của Phật thực tiễn ngay cuộc sống thường ngày và trong hoàn cảnh công tác của chính mình, như vậy mới gọi là học Phật pháp chân thật.

“Viễn siêu Thanh văn, Bích Chi Phật địa”

Nghĩa là nhất định không đọa lạc nhị thừa. Trong cái nhìn của phàm phu thì hàng nhị thừathánh nhân; hàng nhị thừanăng lực siêu việt sáu cõi luân hồi. Tuy nhiên, thành thật mà nói, loại công phu nghị lực tu trì đó của họ mặc dù người thông thường chúng ta không thể so sánh nhưng khi so họ với Bồ tát thì cự ly này kém xa. Đối với người tiểu thừa, Thanh văn chính là A La Hán, Bích Chi Phật chính là Duyên giác, nên trong pháp đại thừa, Thế Tôn thường hay trách cứ. Việc trách cứ nhằm mục đích khích lệ họ, khuyên họ bỏ tiểu hướng đại.

Tiểu thừa tuy phá ngã chấp, bỏ được chấp trước, nhưng vẫn còn phân biệt nên có thể siêu việt sáu cõi mà không thể siêu việt mười pháp giới. Phật nói, những con người này chẳng qua ở trong Thiên Chân Niết Bàn trụ chỉ một giai đoạn, không thể vĩnh viễn đọa trong Nhị thừa; nhất định họ sẽ quay đầu nhưng sớm trễ không đồng.

Duyên giác tương đối thông minh, căn tương đối sắc bén nên quay đầu nhanh hơn. Còn A La Hán căn tánh độn hơn, quay đầu chậm, nhưng nhất định cũng sẽ quay đầu. Quay đầu là quay tiểu hướng đại. Do căn tánh không đồng, duyên khác biệt, thông thường chúng ta gọi là cơ hội nên họ phải thường gặp đại thừa, thường gặp thiện tri thức thì quay đầu mới nhanh.

Khác biệt giữa tiểu thừaBồ Tát ở chỗ, người tiểu thừa không chủ động đi giúp người như câu nói phần sau của đoạn kinh: “Làm bạn không mời của tất cả chúng sanh”, chỗ này người tiểu thừa không làm được. Cũng không phải người tiểu thừa không độ chúng sanh. Nếu chúng sanh cầu đến họ thì họ sẽ xem chúng sanh đó có thiện căn hay không, có duyên phận hay không. Bạn có thiện căn, có duyên phận thì họ hoan hỉ giúp và dạy bảo bạn. Nếu họ xem thấy bạn không có thiện căn, không có duyên phận thì họ sẽ rất lãnh đạm với bạn. Không như Bồ tát dùng tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, không phân biệt, không chấp trước. Điểm này xét về mặt đức hạnh thì A La Hán không thể sánh với Bồ tát; đương nhiên sức định, đạo lực, trí tuệ cũng không thể bằng Bồ tát. Tuy công phu đoạn chứng của Bồ tát giống y như họ nhưng trí tuệ đạo lực không như nhau.

Thí dụ, trong đại kinh nói, tầng công phu đoạn kiếnphiền não của Bồ Tát viên giáo thất tín vị giống A La Hán, đó là bình đẳng. Ngoài đoạn phiền não giống nhau ra, thì thần thông, đạo lực, trí tuệ, thiền định không giống nhau, Bồ Tát thất tín vị cao hơn rất nhiều so với A La Hán. Đạo lý này tuyệt nhiên không khó hiểu, vì tâm lượng của Bồ tát lớn, còn tâm lượng của A La Hán nhỏ nên không như nhau.

Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói, ở thời kỳ mạt pháp, người đương cơ là người như thế nào? “Đại tâm phàm phu”. Đại tâm phàm phu còn đáng quý hơn Thanh Văn, Duyên Giác. Thanh Văn, Duyên Giác không có cơ duyên tu học đại kinh như kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa. Không phải Phật không bình đẳng mà vì họ không tin tưởng, không bằng lòng tiếp nhận. Ở điểm này họ thua xa đại tâm phàm phu.

Gọi là phàm phu vì một phẩm phiền não còn chưa đoạn, không những A La Hán không thể so sánh, mà tiểu thừa Tu Đà Hoàn cũng không thể so sánh. Tuy nhiên nếu luận tâm lượng, luận kiến giải, thì chân thật siêu việt tiểu thừa, siêu việt Thanh Văn, Duyên Giác. Đó căn tánh một loại nhất thừa viên giáo, rất đáng quý.

Những Bồ tát dự hội siêu vượt hơn rất xa hàng nhị thừa, đoạn kinh văn này dụng ý tán thán Bồ tát.

“Nhập không, vô tướng, vô nguyện pháp môn”

Vô nguyện”, có kinh gọi là Vô tác, ý nghĩa như nhau, đại tiểu thừa đều có. Lại gọi “tam giải thoát pháp môn”, cũng chính là ba loại pháp này. Trong tiểu thừa nói bạn có thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, nhất định từ ba pháp môn này mà thành tựu. Đại thừa pháp thì nói, ba pháp môn giúp bạn siêu việt mười pháp giới, chứng được pháp giới nhất chân. Cho nên “tam giải thoát pháp môn” thông cả đại tiểu thừa, danh tướng tuy như nhau nhưng cảnh giới không giống nhau.

Ví dụ nói “không môn”, người tiểu thừa chứng ngã không, siêu việt sáu cõi; người đại thừa chứng pháp không thì không chỉ ngã là không mà pháp cũng không, cho nên họ cũng siêu việt mười pháp giới, chứng pháp giới nhất chân. Cửa không là từ tự tánh, từ trên lý thể tất cả vạn sự vạn vật mà nói, cũng như trên kinh văn: “Tướng có tánh không, sự có lý không”; họ có thể từ tướng thấy tánh, từ sự quan sát lý, chân thật tường tận sự tướng chỉ là huyễn hoá như trên kinh Kim Cang nói: “mộng huyễn bào ảnh”. Bạn không thể nói nó không có, cũng không thể nói nó có. Nếu bạn nói không có, thì tại sao nó hiện tướng, đích thực có tướng tồn tại? Nếu bạn nói có, vậy thì cái tướng này là giả, không phải thật tướng mà là sát na sanh diệt không thực tại. Nếu như bạn cho rằng tướng là thật có thì bạn lại sai, bạn mê trên giả tướng đó. Tướng là giả, không phải thật, từ cửa này mà bước vào, cũng chính là từ pháp môn hay phương pháp này mà ngộ nhập, thoát sanh tử, siêu ba cõi. Đó là từ cửa không mà vào và chứng đạo. Nếu bạn không vào được thì học môn này không lợi ích, gọi là không khế cơ, hoặc không khế hợp căn cơ của mình. Không phải căn cơ thì tu học pháp môn sẽ không dễ gì khế nhập.

Một cửa nữa là “vô tướng”. Tướng là hữu môn, có thể từ hữu môn mà vào. Đã “hữu” thì vì sao gọi là vô tướng? Bởi vì tướng là duyên sanh, kinh Bát Nhã có câu: “Vạn pháp duyên sanh”. Phàm hễ pháp do nhân duyên sanh đều không có tự tánh, cho nên tỉ mỉ quan sát, ta thấy tướng là giả tướng. Nếu bạn chân thật thấy tất cả tướng đều là giả tướng thì bạn đã nhìn thấu, chân thật thông suốt, hay chân thật thông đạt. Sau khi nhìn thấu, bạn liền tự nhiên không còn chấp trước đối với hiện tướng, liền có thể buông bỏ chấp trước. Vừa buông bỏ chấp trước thì siêu việt sáu cõi, như vậy bạn từ cửa vô tướng mà vào.

Nếu không cách gì vào được cửa vô tướng thì vẫn còn một cửa nữa là “vô nguyện”. Vô nguyện còn gọi là “vô tác”. Trong Phật pháp, việc thứ nhất là dạy bạn phát nguyện. Không có nguyện thì làm sao thành công? Một số đồng tu đến hỏi tôi, chúng ta làm việc tốt nhưng không cầu bất cứ thứ gì thì đó mới là việc tốt chân thật. Lời họ nói tuy không sai, nhưng trên thực tế, đúng mà sai. Bạn không mong cầu, nhưng bạn có thật đạt đến không mong cầu chăng? Bụng đói phải có cơm ăn, mệt rồi còn phải nghỉ ngơi thì sao bạn có thể nói vô sở cầu? Chân thật đạt đến vô cầu không phải là cảnh giới của phàm phu chúng ta. Mức độ thấp nhất phải là Pháp Thân Đại Sĩkinh Hoa Nghiêm nói, đó là chân thật đến được vô niệm. Cho dù trong cảnh giới đó, họ vẫn thị hiệnsở cầu. Đừng nói Bồ Tát Viên Sơ Trụ, Bồ Tát Đẳng Giác, ngay chư Phật Như Lai thừa nguyện tái lai đến giúp chúng sanh chúng ta cũng phải thị hiện phát nguyện. Thích Ca Mâu Ni Phật không thị hiện tám tướng thành đạo hay sao? Ngài không dạy chúng ta phát tứ hoằng thệ nguyện hay sao? A Di Đà Phật phát bốn mươi tám nguyện, vậy vì sao vô nguyện? Vô nguyện thì làm sao có thể thành tựu? Cho nên chúng ta phải hiểu tường tận văn tự trong đây. Nếu cứ nhìn văn hiểu nghĩa thì ba đời chư Phật sẽ hàm oan.

Vô nguyện” ở đây là “lìa tâm năng sở”, cái nguyện này mới là cái nguyện chân thật. Người thế gian đều có nguyện vọng nhưng nguyện vọng của người thế gian không dài lâu, qua vài ngày họ liền thay đổi, gặp được duyên họ lại thoái tâm, do nguyên nhân gì? Bởi vì cái nguyện họ phát ra là vọng tâm, không phải chân tâm. Người thế gian thường hỏi: vì sao phải phát nguyện? Vì bạn còn một đạo lý, một lý do. Khi nguyện không thoái chuyển đã thay đổi thì ta biết đó là giả, không phải thật.

Chân thật phát nguyện thì không có điều kiện. Chư Phật Như Laivô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, cũng không có điều kiện. Đối với tất cả chúng sanh hữu tình hay vô tình, các Ngài đều quan tâm thanh tịnh bình đẳng, thương yêu bình đẳng. Phàm hễ có điều kiện đều là giả, đều không thật. Có điều kiện là có năng có sở. Năng sở là hai pháp. Lục tổ Huệ Năng đại sư từng nói, hai pháp thì không phải Phật pháp, hoặc Phật pháppháp không hai. Đoạn dứt hai bên năng sở mới gọi là vô nguyện hay vô tác. Sau đó chúng ta mới hiểu câu đại đức xưa: “Làm mà không làm, không làm mà làm”, lìa khỏi hai bên, hai bên đều không chấp trước.

Không phải nói vô nguyện thì không làm. Bạn phải làm. A Di Đà Phật phát bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện đều hiện thực. Chúng ta lại hỏi A Di Đà Phậtchấp trước đối với bốn mươi tám nguyện hay không? Không, tâm địa thanh tịnh không nhiễm một trần, Ngài liền vô nguyện. Có nguyện cùng vô nguyện là một, không phải hai.

Do đây có thể biết, cái cửa vô nguyệnpháp môn không hai. Cho nên vào đạo là từ cửa không, từ cửa có, từ cửa không hai mà vào. Vô tác vô nguyện chính là cửa không hai, hai mà không hai: “Nguyện tức vô nguyện, vô nguyện tức nguyện”. Rất nhiều Bồ Tát đại thừa từ cửa này mà khế nhập cảnh giới Như Lai quả địa, tức pháp giới nhất chân.

Chúng ta tu học tịnh độ, sanh vào thời kỳ mạt pháp, phải hiểu đạo lý này. Chúng tanăng lực từ ba cửa mà vào hay không? E rằng bất cứ cửa nào trong ba cửa chúng ta cũng không thể vào. Ba cửa là con đường thông lộ. Hiện tại chúng ta phải mở con đường sau, không đi ba cửa này được. Thế mới nói, tịnh độ tôngpháp môn đặc biệt, “môn dư đại đạo”. Ngoài ba cửa chính qui vẫn còn một cửa đặc biệt mà rất nhiều Bồ tát không biết, nên cửa này gọi là pháp khó tin.

Nếu bạn nói cho người khác nghe “không, vô tướng, vô nguyện”, mọi người sẽ không hoài nghi, vì mọi người đều biết nên dễ dàng tin tưởng. Còn nếu bạn nói niệm Phật vãng sanh thì họ không tin tưởng. Niệm Phật vãng sanh dường như không có trong ba cửa này, nó là một pháp môn đặc biệt riêng biệt, “môn dư đại đạo” đại tiểu thừa đều có thể khế nhập. Kinh đại tiểu thừa thường nói, không luận họ tu học pháp môn nào, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, đến sau cùng cũng quy nguyên không ngoài ba cửa này.

Tịnh tông chúng tabí quyết vào cửa. Hiện tại chúng ta xây dựng niệm Phật đường, mỗi vị đồng tu bước vào niệm Phật đường đều sanh tâm hoan hỉ, được Phật lực gia trì. Trước kia, bạn chưa bước vào thì bạn hoài nghi, khó tin tưởng, cũng có người hoài nghi thể lực mình không đủ, một ngày đêm làm sao chịu nổi huống hồ hai ngày đêm trở lên. Thế nhưng sau khi bước vào niệm Phật đường, càng niệm càng hoan hỉ, chính mình đều cảm thấy ngoài sức tưởng tượng, thậm chí không tin mình có được thể lực này. Từ đó tín tâm liền sanh khởi. Không chỉ hai ngày đêm mà bảy ngày đêm cũng được, thể lực của bạn nhất định đủ. Làm sao biết được đủ? Ngạn ngữ có câu: “Người gặp việc vui tinh thần thoải mái”. Bạn bước vào niệm Phật đường hoan hỉ thì tinh thần liền lên cao. Nếu bạn bước vào mà không hoan hỉ thì sẽ không có tinh thần. Hoan hỉ là thứ bổ dưỡng tốt nhất cho sinh lý chúng ta. Bất cứ dinh dưỡng nào cũng không thể sánh được với dinh dưỡng hoan hỉ.

Phật pháp đại thừa dạy người thường xuyên sanh tâm hoan hỉ, thế nhưng làm gì được nhiều việc vui đến vậy? Chỉ niệm Phật mới chân thật hoan hỉ. Hoan hỉ của niệm Phật phải chính bạn đích thân cảm thọ, không bước vào niệm Phật đường thì không thể cảm thọ. Giống như trong sáu cõi chúng ta, bạn thấy người trời sắc giới không cần ăn uống. Không những họ đoạn tuyệt ăn uống, mà họ còn không bao giờ bị bệnh. Vậy họ dùng phương pháp gì để duy trì sắc thân? Kinh nói: “Thiền duyệt vi thực”. Thực là thứ bổ dưỡng chúng ta phải ăn uống để bồi bổ thân thể. Họ không cần ăn uống mà dùng thiền duyệt an vui trong thiền định để nuôi thân thể.

Ngày nay chúng taniệm Phật đường niệm Phật tam muội, còn cao hơn so với thiền duyệt của người trời sắc giới. Thành thực mà nói thiền duyệt của họ không có Phật lực gia trì. Chúng ta niệm Phật tam muội, không chỉ được A Di Đà Phật oai thần bổn nguyện gia trì, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều gia trì, thử hỏi làm sao bạn không hoan hỉ? Chưa bước vào niệm Phật đường, chỉ vừa nghe đã hoan hỉ, huống hồ ở ngay trong đó, pháp hỉ sung mãn, tinh thần phấn khởi trăm phần, càng niệm càng hoan hỉ, càng niệm càng có tinh thần, càng có thể lực. Đối với người sức khỏe không tốt, thường hay bệnh, nếu ở trong niệm Phật đường thì những thứ bệnh nhỏ đó đều không còn, đều niệm tiêu tan.

Chính chúng ta phải có lòng tin, phải biết oai thần gia trì của Phật Bồ Tát không thể nghĩ bàn. Pháp môn niệm Phật thù thắng không gì bằng. Công phu niệm Phật nếu đắc lực, luôn nhìn thấu buông bỏ thì công phu của bạn mới chân thật có lực. Ngày nay chúng ta không hy vọng quá cao, mà hạ thấp tối đa mức độ xuống “công phu thành khối”. Chỉ cần bạn niệm đến công phu thành khối thì tương lai chắc chắn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, hay nói cách khác, ngay hiện đời chắc chắn làm Phật. Trong mười pháp giới, sự chọn lựa này là thù thắng nhất.

Đồng tu đến hỏi tôi, công phu thành khối như thế nào? Trong lòng chỉ nhớ Phật niệm Phật. Ngoài nhớ Phật niệm Phật ra, các vọng niệm khác đều không khởi. Vọng niệmphiền não. Phiền não tuyệt nhiên đoạn được thì cảnh giới đó cao. Việc này không dễ dàng. Chúng ta niệm Phật, nhớ cũng là niệm. Trong lòng tưởng Phật nên sức niệm sẽ mạnh, khiến phiền não bị đè xuống. Phiền não tuy có nhưng không khởi tác dụng, không khởi hiện hành, đó gọi là công phu thành khối. Nếu chúng ta lìa khỏi niệm Phật đường, bước vào cuộc sống thường ngày vẫn khởi lòng tham, gặp việc không vui vẫn khởi tâm sân hận, lúc đó phải biết công phu của bạn chưa đạt trình độ này. Công phu chân thật đạt thành khối thì gặp việc hoan hỉ không khởi tâm tham ái, gặp việc không vui không khởi tâm sân hận. Tâm của bạn vĩnh viễn bình lặng, vĩnh viễn giữ được cảnh giới trong niệm Phật đường. Vào niệm Phật đường rèn luyện, chí ít phải luyện đến công phu này thì mới xem là thành tựu, là niệm Phật đúng cách. Đã đúng cách thì nhất định vãng sanh.

Một số đồng tu than khó. Không sai, rất khó, làm gì dễ dàng thành Phật như vậy! Bình thường phải dụng công. Công phu gì? Nhìn thấu buông bỏ. Ngay trong đời chúng ta, đối với tất cả mọi người, mọi việc, mọi vật, phải thấy nhạt đi một chút. Không nên quá chấp trước. Phàm mọi việc phải học lớn hoá nhỏ, nhỏ hoá không. Không nên chấp trước từng ly từng tí thì công phu chúng ta mới có lực. Mọi thứ đều chăm chỉ, so đo tính toán sẽ rất đáng lo ngại, càng không dễ dàng đạt đến công phu cảnh giới này. Việc gì cũng nên qua loa, có thì tốt, không có cũng tốt, thiệt thòi cũng tốt, chịu lỗ cũng tốt,… mọi thứ đều tốt; không nên tính toán, cũng không cần phải hỏi qua; nhiều một việc không bằng ít đi một việc, ít đi một việc không bằng không có việc gì, tất cả tùy duyên qua ngày mới được.

Những đồng tu lãnh đạo Cư Sĩ Lâm chân thật rất hiếm. Chúng ta ở bên cạnh quan sát khởi tâm động niệm của họ, tất cả việc làm của họ khiến chúng ta bội phục. Họ làm đúng pháp, rất tương ưng, đều hoá nặng thành nhẹ, đều có thể tuỳ duyên mà không phan duyên. Phan duyênnhất định phải làm, nhất định phải chấp trước.

“Thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa”

Thiện là khéo léo. Phật pháp chú trọng khế lý khế cơ. Khế lý nhất định phải tương ưng với tánh đức, trí tuệ đức năng đầy đủ trong tự tánh. Nếu chúng ta dùng câu phía trước: “Không, vô tướng, vô nguyện”, đó là tánh đức cùng tương ưng với đây thì họ liền siêu việt. Như vậy, pháp môn niệm Phật, bạn có thể tương ưng với nguyện của Phật ( Nguyện của Phật gồm bốn mươi tám nguyện trên kinh), tương ưng với đức của Phật. “Đức” là danh hiệu, công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn. Danh hiệu nếu hoàn toàn dịch thành ý nghĩa Trung văn là “Vô Lượng Giác”. “A” dịch là vô, “Di Đà” dịch là lượng, “Phật” dịch là giác. Mỗi giờ mỗi lúc, mọi chỗ mọi nơi, đối với người với việc với vật, giác mà không mê gọi là A Di Đà Phật. Mê rồi thì là phàm phu, giác ngộ thì thành Phật. Cho nên mỗi niệm tương ưng với giác mới có thể vào được cửa. Đó là khế lý.

Ngoài khế lý còn phải khế cơ. Phật pháp độ người hiện đại, độ người khu vực này của chúng ta. Phật pháp không độ người xưa, không độ người vị lai, cũng không độ người thế giới phương khác, mà độ đại chúng hiện tiền. Nên bạn phải hiểu căn cơ của đại chúng hiện tiền.

Đồng tu dẫn chúng niệm Phật đường phải thường hay khích lệ khuyến tấn lẫn nhau; phải nghiên cứu cải tiến lẫn nhau, không được chấp trước thành kiến của chính mình. Bạn nhất định phải tường tận, chư Phật Như Lai, tất cả Bồ Tát đều không có thành kiến. Thành kiến là gì? Là chấp trước. Chư Phật Như Lai đều “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Các Ngài không có ý kiến của riêng mình, mà lấy ý nghĩ của mọi người làm ý nghĩ, cho nên mọi người thích thế nào thì chúng ta làm như thế đó. Người đông thì phải thành lập thanh quy. Quy củ luôn là thiểu số phục tùng đa số, đó là chế độ dân chủ. Nhà Phật hơn ba ngàn năm trước đã nói đến dân chủ, cộng hòa, lục hòa, “lợi hòa đồng huân”. Như vậy Phật giáo đề xướng dân chủ sớm nhất, cách đây hơn ba ngàn năm. Không những đề xướng mà còn áp dụng. Phật và Bồ tát đều không có ý của riêng mình.

Ngày trước tổ sư đại đức lập ra những qui củ tùy theo căn tánh của chúng sanh. Nếu hiện tại chúng ta một mực không đổi, chiếu theo qui củ của các Ngài mà làm, hoàn toàn chiếu theo Bách Trượng Thanh Qui thì thành cái gì? Đó là đem người hiện tại chúng ta ngược về quá khứ, đều thành người triều nhà Đường, các vị cũng đều biến thành người nhà Đường. Cho nên phải hiểu tinh thần, nguyên tắc của nó, thậm chí trên thực tế cách làm chúng ta cũng cần phải tu đính. Bạn xem, pháp luật thế gian trải qua mấy năm cần tu đính một lần. Vì sao? Pháp luật của mười năm trước định ra, lúc đó có tác dụng với xã hội đương thời. Sau mười năm, xã hội thay đổi nhiều, pháp luật lúc trước không còn thích hợp với hiện tại. Cho nên qui củ có thể cải đính, giới luật nhà Phật cũng có thể cải đính.

Bách Trượng Thanh Qui chínhgiới luật của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thời điểm trước đã trải qua một cuộc tu đính rất lớn, đó là Trung Quốc hoá, hiện đại hóa, bổn thổ hoá, nhưng tinh thần nguyên tắc giới luật của Phật không thay đổi. Cách làm phải thích hợp với người hiện đại chúng ta, thích hợp với người địa phương mới có thể nói được thông, đó gọi là khế cơ. Do đó, người xưa định thanh qui đáng để chúng ta tham khảo. Chúng ta thay đổi như thế nào cho thích ứng với niệm Phật đường hiện tiền, thích ứng với đồng tu của niệm Phật đường thì bạn mới gọi là chân thật khế cơ.

Căn cứ vào đâu để định quy củ niệm Phật đường chúng ta? Nguyên lý nguyên tắc không thay đổi, nhưng một số điều kiện bên trong thì phải căn cứ vào hoạt động hiện thực mà chế định. Sau khi chế định vẫn phải thường tu sửa lại, nhằm tránh tình trạng một số đồng tu cảm thấy không thuận tiện. Đồng tu dẫn chúng phải học loại tinh thần của Khổng Lão Phu tử: “Nhập Thái miếu, mỗi sự vấn”. Đồng tu dẫn chúng phải thường thỉnh giáo với pháp sư, chẳng hạn thời khóa hôm nay các vị cảm thấy như thế nào, có chỗ nào cần cải tiến không. Thành thật cung kính thỉnh giáo, không qua loa, khách sáo. Ngoài ra còn phải thường hướng đến mỗi đồng tu tham gia niệm Phật, hỏi nhiều ở họ, thỉnh giáo nhiều lần với họ, khiến đạo tràng chúng ta được cải tiến mỗi ngày. Cải sửa khuyết điểm thì mới tiến bộ. Ngày ngày sửa, ngày ngày tiến bộ, vậy thì còn gì bằng, đạo tràng tự nhiên sẽ thành đạo tràng đệ nhất mô phạm của thế gian. Do đâu mà có? Do ngày ngày cải tiến, phát hiện không thích hợp thì lập tức sửa đổi, sửa không thích hợp lại sửa tiếp, như vậy mới khế cơ, mới gọi là “hằng thuận chúng sanh, tùy hỉ công đức”.

Hai câu nói của Bồ Tát Phổ Hiền không phải tuỳ tiện nói, mà chân thật làm đến được khế cơ. Chúng ta tu tịnh độ, lý luận chúng ta nương theo, phương pháp, cảnh giới, thảy đều nương vào kinh Vô Lượng Thọ. Tương ưng kinh Vô Lượng Thọ là khế lý. Những phương pháp thúc đẩy khiến mỗi vị đồng tu hoan hỉ tiếp nhận, pháp hỉ sung mãn, thì niệm Phật đường này thành công. Đồng tu dẫn chúng không hề có chút ý riêng của mình. Cũng vậy, lãnh tụ thế xuất thế gian chân thật hiền minh khôngý nghĩ riêng. Họ lắng nghe nhiều, sau đó bình lặng chọn lựa. Ý kiến nào tốt ta chọn. Khi chọn lựa cũng phải trưng cầu sự đồng ý của mọi người. Bạn có trí tuệ, có năng lực, chọn lấy phương thức nào thì giải thích tỉ mỉ với mọi người, trưng cầu tán đồng của mọi người, như vậy mà thúc đẩy phát huy.

Pháp đại thừa và nhà Phật có thuật ngữ: “Không trụ hai bên, ở trung đạo”, đó chân thật là thiện lập phương tiện. Cái tâm đó mới thanh tịnh, là chỗ mà chúng ta nên học theo. Trong lòng Phật Bồ Tát thanh tịnh trừng thanh, vốn dĩ không một vật, không một ý kiến nào; một chút thành kiến cũng không có.

Thích Ca Mâu Ni Phậtchúng ta giảng kinh nói pháp suốt bốn mươi chín năm cũng không có ý riêng. Việc này mọi người phải biết. Phật ở hội Bát Nhã nói, Ngài không giảng kinh, nếu có người nói Phật giảng kinhbáng Phật. Chúng ta xem chú giải kinh Hoa Nghiêm của đại sư Thanh Lương, Phật nói kinh là thuật lại chứ không sáng tác, Phật hoàn toàn không giảng kinh. Ngài chỉ nói ra những gì cổ Phật đã nói, không phải chính Ngài nói, không có ý riêng của Ngài. Đó là thánh nhân xuất thế gian.

Thánh nhân thế gian như Khổng Lão Phu Tử của Trung Quốc, cả đời Phu Tử cũng có thái độ như vậy, thuật lại chứ không sáng tác. Ông chuyển cáo của cổ thánh tiên hiền cho mọi người, không có ý của riêng mình. Thích Ca Mâu Ni Phật nói bốn mươi chín năm không phải là lời của chính mình. Nhưng xin nói với các vị, chân thật là chính mình. Vì sao? Những điều Ngài nói lưu xuất từ tự tánh, không phải lưu xuất từ tâm ý thức. Lưu xuất từ tâm ý thức mới là có ý riêng. Những gì Ngài nói đều từ chân như bổn tánh.

Các vị phải biết, tâm ý thức mỗi người không giống nhau, nhưng chân như bổn tánh thì đều như nhau. Do đây mà biết, từ tự tánh Thích Ca Mâu Ni Phật lưu xuất ra cũng là từ tự tánh của chúng ta lưu xuất. Đến một ngày chúng ta minh tâm kiến tánh, sau đó mở kinh điển thì thảy đều là thứ từ tự tánh của chính mình, mới biết kinh quyển không phải chuyên lợi của Thích Ca Mâu Ni Phật, mà tất cả chúng sanh đều có. Bạn xem, mật thiết dường nào. Ngài kiến tánh rồi, chúng ta kiến tánh sẽ cùng Ngài kiến tánh không hề khác biệt. Chúng ta đem công đức tu hành từ vô lượng kiếp của Ngài biến thành công đức của chính mình. Công đức chúng ta tu tích được cũng có thể biến thành công đức của người khác. Đến lúc đó không còn chướng ngại, “ta và người không hai”, “sanh Phật không hai”, tức chúng sanh cùng Phật không hai.

Hiển thị tam thừa”. “Hiển” là minh hiển, “thị” là thị hiện. Pháp tam thừathị hiện, là pháp phương tiện. Thế Tôn sau cùng trong kinh Pháp Hoa đưa ra kết luận: “Duy hữu nhất thừa pháp, vô nhị diệc vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết”. Chỗ này rất rõ ràng, “tam thừa” là Phật phương tiện nói, còn chân thật nói thì chỉ có pháp nhất thừa. Cái gì gọi là nhất thừa? Thành Phật gọi là nhất thừa. Bổn nguyện của chư Phật Như Lai đều hy vọng chúng ta cùng tất cả chúng sanh ngay một đời này thành Phật, không hề dạy chúng ta làm Bồ Tát, A La Hán. Kỳ vọng của các Ngài đối với chúng ta rất đáng cảm kích. Vấn đềchúng ta có làm được hay không. Đáp án phải khẳng định, tất cả chúng sanh nhất định đều có thể chứng quả Phật cứu cánh viên mãn. Vấn đề ở chính bạn, bạn có chịu tin vào bản thân mình hay không? Nếu không tin chính mình thì không còn cách nào.

Trong nhà Phật, “tíntrước tiên là tin chính mình. Trong A Di Đà kinh Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư giảng sáu cái “tín”, thứ nhất là tin chính mình. Không có lòng tin đối với chính mình, không tin tưởng ngay một đời này mình có thể làm Phật, thì tất cả chư Phật cũng không còn cách nào, bạn nhất định không thể thành Phật. Mấu chốt này rất lớn, đây là điều kiện thứ nhất. Tín thứ hai mới là “tín tha”, tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật, tin tưởng A Di Đà Phật. Tin tưởng lý luận, phương pháp, cảnh giớiThích Ca Mâu Ni Phật đã nói là chính xác, quyết không sai lầm. Ta chịu y giáo phụng hành, tin tưởng bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, nguyện nguyện đều hiện thực, ta y theo pháp môn này để tu thì Ngài nhất định sẽ đến tiếp dẫn ta vãng sanh bất thoái thành Phật, đó là tín tha.

Phật pháp không giống các tôn giáo khác. Đối với tôn giáo khác, việc đầu tiên là phải tin Thần, không tin chính mình. Có năm tôi hoằng pháp ở Hoa kỳ, gặp một số mục sư Ki Tô giáo. Họ nói tịnh độ tông chúng ta rất giống Ki Tô giáo của họ. Tôi hỏi giống chỗ nào? Họ nói: “Đều là chữ tín, chúng tôi tin Thiên Chúa, các vị tin A Di Đà Phật”. Tôi nói không giống nhau. Họ hỏi tại sao không giống nhau? Tôi nói, chúng tôi trước tiên tin chính mình, thứ hai mới tin A Di Đà Phật. Các vị hoàn toàn tin tưởng Thiên Chúa, không có lòng tự tin thì làm sao như nhau được? Nhất định phải xây dựng lòng tự tin, tin tưởng Phật đã nói. Phật chân thật hy vọng mọi người ngay trong đời viên mãn thành Phật, pháp môn tịnh độ chân thật là “thiện lập phương tiện”. Bốn chữ này nói được đến chỗ cứu cánh.

Lý luận của pháp môn này, hiểu hay không hiểu không hề gì. Không hiểu cũng có thể thành tựu. Bạn nói xem, pháp này thuận tiệnthiện xảo dường nào! Không hiểu đều có thể thành tựu, miễn thành thật mà niệm. Vậy vì sao chúng ta còn phải giảng kinh? Chúng ta giảng kinh bởi vì mọi người không có phước. Thế nào mới là có phước? Người thành thật niệm là có phước. Ngày ngày chỉ một câu A Di Đà Phật không nghĩ đến bất cứ thứ gì. Chúng ta không có phước báu vì từ sớm đến tối nghĩ tưởng xằng bậy, cho nên cần giảng kinh. Bạn nghe, bạn giác ngộ, tường tận, sau đó một ngày từ sớm đến tối không còn nghĩ tưởng xằng bậy, không còn một vọng niệm nào, chỉ có câu A Di Đà Phật, thì ba tạng, mười hai bộ đều xem thành rác rưởi, không cần đến. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh bốn mươi chín năm cũng là lời thừa.

Cho nên Phật độ chúng sanh có hai loại người dễ độ nhất. Một là thượng căn lợi trí, khuyên họ thì họ liền thông đạt tường tận, một vọng niệm cũng không còn, cứ trung thực mà niệm. Một loại nữa là người ngu hèn. Ngu hèn là gì? Họ không muốn hiểu, bảo họ niệm thì họ trung thực niệm, một ngày từ sớm đến tối không có bất cứ vọng niệm nào, loại người này có thể thành công. Khó độ nhất chính là ở giữa hai loại người này. Chúng ta thuộc về loại người ở giữa, rất phiền phức. Cho nên, Thế Tôn bốn mươi chín năm khổ cực cần lao đều vì loại người chúng ta. Ngài không thể không đem đạo lý, phương pháp, cảnh giới nói một cách tỉ mỉ. Chúng ta thật tường tận, thật thông suốt thì mới chịu buông bỏ. Buông bỏ chính là đại phước báu.

Thế gian, loại người nào có phước báu lớn nhất? Người không vọng niệm là có phước báu, tuyệt đối không phải người địa vị cao, nhiều của cải, đó không phải phước báu. Hiện tiền tuy hưởng thụ đời sống vật chất nhưng bạn hưởng được mấy năm? Chết rồi làm sao? Luân hồi ba cõi sáu đường, vậy sao xem là có phước. Còn người trong lòng không một vọng tưởng, từ sớm đến tối nhớ Phật niệm Phật, qua vài năm họ liền làm Phật, vậy mới gọi là đại phước báu. Chân thật thông hiểu tường tận, lúc đó bạn mới biết niệm Phật đường công đức thù thắng không gì bằng. Cho nên Phật nói tam thừaphương tiện nói, ngũ thừa càng không cần phải nói. Mục đích Phật dạy chúng ta chỉ một đời thành Phật.

Có người hoài nghibản thân ngu si, tạo nghiệp chướng rất nặng, tội nghiệp rất sâu thì có thể thành hay không? Kinh nói, một câu Phật hiệu tiêu tám mươi ức trọng tội sanh tử. Các vị niệm một ngày một đêm bao nhiêu niệm? Theo đó tính xem số lượng niệm này tiêu được bao nhiêu tội nghiệp? Không thể nghĩ bàn. Lời Phật nói là thật, không phải giả, đích thực có hiệu quả như vậy. Thế nhưng đã niệm một ngày một đêm rồi mà vì sao nghiệp chướng vẫn nặng. Vì nghiệp chướng của bạn quá nhiều, một ngày một đêm tiêu đáng kể nhưng nghiệp chướng nguyên gốc của bạn so với đây không biết gấp bao nhiêu lần, bạn vẫn còn phải tiếp tục tiêu nghiệp. Ngày ngày đến niệm, ngày ngày tiêu nghiệp, đạo lý chính là như vậy. Nghiệp chướng dù có nặng hơn nhưng nếu tiếp tục không ngừng, “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, niệm ba năm thì tội nghiệp vô lượng kiếp của bạn thảy đều tiêu hết.

Làm sao biết tội nghiệp tiêu hết? Bạn vãng sanh tự tại, đứng mà đi, ngồi mà đi, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải cõi phàm thánh đồng cư mà đều vãng sanh cõi thật báo. Trong kinh có nói ba bậc vãng sanh, bạn thuộc thượng phẩm vãng sanh, như vậy mới biết câu Phật hiệu này tiêu nghiệp chướng không thể nghĩ bàn.

Khoảng năm Càn Long đầu nhà Thanh, pháp sư Từ Vân Quán Đảnh nói trong chú giải kinh Quán Vô Lượng Thọ, còn gọi là Quán kinh Trực Chỉ, thâu tập từ Đại tạng kinh. Ngài nói, nghiệp chướng của chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay cực trọng, bất cứ kinh luận nào trong Phật pháp, bất cứ sám pháp nào đều không sám trừ được. Ví dụ một người bị bệnh nặng, tất cả thuốc men đều vô hiệu, chỉ còn một phương pháp duy nhấtniệm Phật có thể tiêu trừ. Như vậy bạn mới biết công đức niệm Phật rất lớn, pháp môn niệm Phật thù thắng đến vậy.

Tôi đọc qua chú giải cảm thấy bội phục. Nếu Ngài không phải là người tái sanh thì không thể khế nhập được cảnh giới và không thể nói ra câu nói này. Trong đạo Phật, pháp sư Quán Đảnh được xem là nhà thông thái; Tông, Giáo, Hiển, Mật, Ngài đều quán thông. Trước tác của Ngài rất phong phú. Trong Vạn Tự Tục Tạng kinh thâu tập khá đầy đủ, khoảng hơn ba mươi loại. Ngài có cả chú giải kinh Lăng Nghiêm. Từ xưa đến nay, Lăng Nghiêm thần chú trong kinh Lăng Nghiêm không người nào chú giải, nhưng trong chú giải của Ngài, ngay đến Lăng Nghiêm thần chú Ngài cũng chú giải, cho nên xưa nay chú giải Lăng Nghiêm thần chú chỉ có một mình Ngài.

Như vậy, tam thừa là Phật phương tiện nói, nhất thừa mới là nói thật. Pháp nhất thừa chính là niệm Phật vãng sanh tịnh độ. Mười phương tất cả chư Phật Như Lai đều khuyên người niệm Phật, đều giảng kinh tịnh độ, các kinh điển khác không nhất thiết giảng vì phải xem khế cơ. Không khế cơ, Phật sẽ không nói, chỉ có tịnh độ ba kinh thì nhất định phải nói. Vì sao? Vì khế cơ được tất cả chúng sanh, cho nên chư Phật Như Lai giảng ba kinh tịnh độ, đồng thời khuyên người niệm Phật cầu sanh tịnh độ. Trừ khi bạn không tin tưởng, không ưa thích thì Phật mới khai mở pháp môn khác, khai ba thừa. Điều này hiển thị rõ: “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”. Bạn không cầu vãng sanh mà cầu thứ khác cũng được, Phật vẫn dạy bạn. Thậm chí bạn cho rằng làm người không tệ, Phật cũng dạy bạn đời sau có được thân người. Bạn muốn sanh thiên, Phật liền dạy bạn phương pháp sanh thiên. Bạn thấy, Phật đích thực không cố chấp, không thành kiến. Phật không yêu cầu chúng sanh tùy thuận Ngài, ngược lại Ngài có thể tùy thuận tất cả chúng sanh.

Chỗ này chúng ta phải học tập để tùy thuận người khác, không nên yêu cầu người khác tùy thuận mình. Không học thì thật đáng tiếc. Đây cũng là một điều trong mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền.

“Ư thử trung hạ, nhi hiện diệt độ”

Đây là tướng thứ tám, “Nhập Bát Niết Bàn”. Chỉ có hai câu mà ý nghĩa rất sâu rộng. Phật Bồ Tátdiệt độ hay không? Xin nói với các vị, không có. Phật đã chứng không sanh không diệt thì làm gì còn sanh tử. Sanh tử chỉ là thị hiện, giống như biểu diễn trên sân khấu, lên đài xuống đài là biểu diễn, không phải thật. Vì “ư thử trung hạ”, đối với người căn tánh trung hạ mà diệt độ, xuất sanh. Còn người căn tánh thượng đẳng thì họ rất rõ ràng, Phật “đến mà không đến, đi mà không đi”. Kinh Bát Nhã nói “Như Lai giả”, ý nghĩa Như Lai là “Không có chỗ đến, cũng không có chỗ đi”. Như Lai là xuất sanh, “sanh mà không sanh, diệt mà không diệt”, căn bản là không có sanh diệt. Chúng ta sẽ bàn tỉ mỉ khi giảng đoạn “không sanh không diệt” ở kinh Hoa Nghiêm.

Chư Phật Như Lai không có sanh diệt, vậy chúng tasanh diệt không? Chúng ta cũng không có sanh diệt. Giả như chúng tasanh diệt, vậy chúng ta khác chư Phật Như Lai rồi. Chúng ta chỉ khác chư Phật Như Laimê ngộ mà thôi. Ngoài mê ngộ ra, không có thứ nào khác nhau. Thí dụ không sanh không diệt, chư Phật Như Lai rõ ràng tường tận, vì các Ngài giác, còn chúng ta không rõ ràng, không tường tận nên cho rằng thật có sanh diệt, vậy là hiểu sai. Nói thật thì không người nào hiểu, mọi người sẽ kháng nghị, cho rằng tôi nói năng xằng bậy. Còn tôi nói giả thì liền gật đầu thừa nhận. Bạn nghĩ xem, vậy còn cách nào?

Chư Phật Như Lai chỉ có ở trên hội Hoa Nghiêm nói thật với những vị pháp thân đại sĩ. Họ đều gật đầu. Nói giả thì họ lắc đầu. Ngược lại trường hợp chúng ta, nói giả thì gật đầu, nói thật thì lắc đầu. Đây là điểm khác nhau giữa chúng ta với chư Phật Bồ Tát, đều ở hai chữ “mê ngộ”. Tất cả vạn sự vạn pháp, thể tánh, hiện tướng, tác dụng không liên quan với mê ngộ. Mê ngộ là ở người, mê ngộ không ở pháp, hay nói cách khác, trong pháp khôngmê ngộ. Chính bởi đạo lý này, nên Phật mới nói “chỉ nói pháp Nhất thừa”. Tất cả chúng sanh đích thực có thể bình đẳng thành Phật. Trên từ Bồ Tát Đẳng Giác, dưới đến địa ngục A Tỳ đều bình đẳng thành Phật, vậy thì còn gì sánh bằng.

Khiến tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật thì nương vào pháp môn gì? Xin nói với các vị, bất cứ pháp môn nào cũng làm đến được, “pháp môn bình đẳng, không phân cao thấp”. Thế nhưng căn tánh của chúng sanh không như nhau. Từ ở nơi căn tánh của chúng sanh mà nói, để bình đẳng thành Phật chỉ có “pháp môn niệm Phật” là thù thắng nhất. Còn nếu trên lý luận mà nói thì bất cứ pháp môn nào cũng đều như nhau. Căn tánh, cơ duyên không như nhau, gặp các pháp môn đó vẫn không thể thành tựu, không hề thuận tiệnthù thắng như pháp môn này. Cho nên Thế Tôn thị hiện tám tướng thành đạo đều đối với người căn tánh trung, hạ mà thị hiện, còn hàng thượng căn thì không. Chúng ta từ ngay trong biểu diễn của các Ngài mà thể hội, giác ngộ, hay đại triệt đại ngộ.

“ĐẮC VÔ SANH VÔ DIỆT CHƯ TAM MA ĐỊA; CẬP ĐẮC NHẤT THIẾT ĐÀ LA NI MÔN; TÙY THỜI NGỘ NHẬP HOA NGHIÊM TAM MUỘI; CỤ TÚC TỔNG TRÌ BÁCH THIÊN TAM MUỘI”

“Đắc vô sanh vô diệt chư tam ma địa”

Đoạn nhỏ này nói: “Định huệ đẳng trì”. Kinh văn tuy không dài nhưng ý nghĩa rất sâu rộng. Những Bồ Tát này vì tất cả chúng sanh thị hiện tám tướng thành đạo. Phật pháp Đại thừa nói, Bồ Tát Viên Giáo Sơ Trụ đã có năng lực này. Vậy thì công phu của Bồ Tát Sơ Trụ đoạn được kiến tư phiền não, trần sa phiền não, phá một phẩm vô minh. Đáng dùng thân gì để độ, họ liền thị hiện ra thân phận đó. Phá một phẩm vô minh, họ có thể ứng hoá trăm ngàn ức thân. Nếu chúng ta muốn thành tựu công đức lợi ích thù thắng như vậy thì không tu không được. Chúng ta ngưỡng vọng, muốn nhanh đạt có được không? Được. Niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì đạt được, hơn nữa còn thù thắng hơn nhiều so với Bồ Tát Viên Giáo Sơ Trụ. Đó là điểm không thể nghĩ bàn của pháp môn tịnh độ.

Vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạchạ hạ phẩm vãng sanh, thực tế kiến tư phiền não một phẩm chưa phá thì dựa vào cái gì để vãng sanh? Dựa vào công phu nhớ Phật niệm Phật, làm cho phiền não bị khống chế, không phải đoạn phiền não. Đoạn phiền não rất khó, một đời chúng ta không dễ gì làm được. Trong vô lượng pháp môn, tiêu chuẩn đều phải đoạn phiền não, chỉ có pháp môn niệm Phật không cần, mà chỉ yêu cầu bạn phục phiền não. Phục phiền não dễ hơn nhiều so với đoạn phiền não. Mỗi vị đồng tu đều có thể làm được, vấn đề là bạn không chịu làm thì không cách gì. Chỉ cần nhớ Phật niệm Phật, công phu sâu thì liền có thể phục phiền não.

Vừa rồi tôi nói qua, có sự thật làm chứng cứ, bạn xem từ xưa đến nay người niệm Phậtniệm Phật đường niệm ba năm, năm năm thành tựu, số người quá đông không biết bao nhiêu mà kể. Niệm Phật đường này nhất định đúng pháp, mọi người cùng ở với nhau đều một phương hướng, một mục tiêu niệm Phật cầu sanh tịnh độ. Họ y theo lý luận nguyên tắc trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đàtu học. Niệm Phật đường đúng lý đúng pháp chỉ ba đến năm năm thì thành tựu vượt bậc, thế gian không gì có thể so sánh, thậm chí xuất thế gian Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cũng đều không thể so sánh.

Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là như thế nào? Kinh giảng rất rõ: “Đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát”. Câu nói này ở trong bốn mươi tám nguyện, do A Di Đà Phật nói. Văn kinh thì do Thích Ca Mâu Ni Phật chuyển nói. Hai vị Phật đều giảng như vậy, chúng ta còn không tin hay sao? A Duy Việt TríBồ Tát Thất Địa trở lên, tức một phẩm phiền não chưa đoạn, hạ hạ phẩm vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, được oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì nên trí tuệ, thiền định, thần thông, đạo lực của mình gần giống Bồ Tát Thất Bát địa. Đó không phải chính mình chân thật tu được, mà do oai thần bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì.

Chúng ta chỉ cần nỗ lực thời gian ba đến năm năm sẽ thành công. Người ta dùng ba đến năm năm đi học Phật học viện, khi học ra vẫn là phàm phu sanh tử, còn trong niệm Phật đường ba đến năm năm thì làm Phật. Không thể so sánh.

Cho nên lợi hại được mất phải đưa lên bàn cân đong đo tính đếm cho kỹ lưỡng, sau đó mới chọn lựa trí tuệ chân thật. Không nên theo pháp thế gian, chỉ ở niệm Phật đường ba đến năm năm sẽ được niệm Phật tam muội. Công phu thành khối là hạ phẩm trong niệm Phật tam muội. Sự nhất tâm bất loạntrung phẩm niệm Phật tam muội. Lý nhất tâm bất loạnthượng phẩm niệm Phật tam muội. “Đắc vô sanh vô diệt chư tam ma địa” chính là niệm Phật tam muội, cũng là công phu thành khối, lợi ích không thể nghĩ bàn.

Vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc là không sanh không diệt. Người niệm Phậtniệm Phật đường nếu hạ quyết tâm thì hiện tại đã không sanh không diệt, không cần đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới không sanh không diệt. Cảnh giới này là cảnh giới hiện chứng của chúng ta, liễu sanh tử ra ba cõi chính ở hiện tiền, như Phật và Pháp Thân Đại Sĩ đã chứng.

Tam ma địa” là tiếng Phạn, dịch thành ý Trung Quốcchánh thọ, hay chánh định. Thọ là hưởng thọ, vô số cảm thọ ngay cuộc sống thường ngày của chúng ta, cái thọ này bình thường, còn giản biệt cái thọ của phàm phu sáu cõi thì không bình thường. Chúng ta trong cuộc sống thường ngày có vô số cảm thọ, Phật đem vô lượng vô biên cảm thọ quy nạp thành năm loại lớn. Năm loại lớn này phân thành hai loại thân và tâm.

Thân có khổ thọ, lạc thọ. Cảm thọ nhiều hơn cũng không ngoài hai loại lớn này. Trong tâm có cảm thọ, chúng ta gọi là đời sống tinh thần. Phật quy nạp thành hai loại buồn vui. Ngoài ra còn một loại gọi là “xả thọ”. Thân không khổ vui, tâm cũng không buồn lo. Thọ của tất cả chúng sanh trong sáu cõi luôn không ngoài năm loại lớn này. Thực tế, xả thọ chính là chánh thọ. Nhưng tại vì sao không gọi chánh thọ mà lại gọi là xả thọ? Vì xả thọ thời gian rất ngắn, không thể giữ dài lâu, chỉ tạm thời xả khổ vui lo mừng. Nó không phải là thiền định chân thật, không phải chánh thọ chân thật.

Người trời sắc giới, trời vô sắc giới đều trụ ở xả thọ. Trời vô sắc, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng là cao nhất, thọ mạng tám vạn đại kiếp. Thời gian quá dài ngoài sức tưởng tượng. Các vị nên biết, một đại kiếpmột lần thành trụ hoại không của thế giới. Thế giới này thành trụ hoại không tám vạn lần, họ xả thọ thời gian dài đến vậy. Sau tám vạn đại kiếp, họ lại khởi tâm động niệm, lại có lo mừng khổ vui, không vĩnh hằng. Do đó tứ thiền bát định, thế gian thiền định thảy đều thuộc về xả thọ. Đến lúc nào mới có thể trở thành chánh thọ? Siêu việt sáu cõi luân hồi. Trên hội Lăng Nghiêm, Thế Tôn đã nói: “A La Hán chứng cửu thứ đệ định”. Bát địnhtrời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, định thứ chín siêu việt ba cõi sáu đường, lúc này gọi là chánh thọ. Họ không còn thoái chuyển mà được chánh định chánh thọTam ma địa”.

Thông thường chúng ta nói tất cả thiền định đều có thể nhiếp tâm, làm tâm lìa vui buồn, thân lìa khổ vui, thân tâm an ổn gọi là Tam ma địa. Tuy nhiên, Tam ma địa chỗ này cao cấp hơn bởi vì không sanh không diệt. Phàm phu chúng ta một phẩm phiền não chưa đoạn, nếu muốn được cảnh giới này thì pháp môn thuận tiện nhất chính là niệm Phật cầu sanh tịnh độ. Chỉ cần sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, bạn sẽ liền chứng được Tam ma địa. Sự chứng đắc không nương vào công phu của chính mình, cho nên pháp môn tịnh độ mới được gọi là pháp môn nhị lực. Sức mạnh của chính chúng ta là nhớ Phật niệm Phật, khống chế tập khí phiền não của mình, đạt công phu thành khối. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạctha lực, là sức mạnh của A Di Đà Phật. Pháp môn nhị lực này không có trong các pháp môn khác mà chỉ có riêng ở tịnh độ.

“Cập đắc nhất thiết Đà La Ni môn”

Đà La Ni là tiếng Phạn, dịch thành ý Trung Quốctổng trì. Tổng tất cả pháp, trì tất cả ý. Dùng lời hiện tại mà nói thì tổng cương lĩnh của hết thảy Phật pháp gọi là Đà La Ni môn. Nắm vững tổng cương lĩnh bạn sẽ đạt được. Thông thường giải thích tổng cương lĩnh, chủ yếu là “tất cả ác không sanh, tất cả thiện thêm lớn”. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta niệm Phật thì tất cả Đà La Ni Môn chính là chấp trì danh hiệu. Các vị thử nghĩ xem, một ngày từ sớm đến tối một câu Nam Mô A Di Đà Phật, mọi ý niệm khác thảy đều không có, vậy ý niệm không có chính là việc ác không sanh. Không cần nói tạo ác, ý niệm ác cũng không có. Chỉ một câu vạn đức hồng danh là thế xuất thế gian đệ nhất thiện pháp. Từng câu từng câu tiếp tục niệm là tăng trưởng thiện pháp.

Các vị bước vào niệm Phật đường liền được Đà La Ni môn. Tuy khi rời khỏi niệm Phật đường công phu liền mất hết, hoặc sẽ loạn lên, nhưng trong một tuần lễthời gian một ngày “không sanh không diệt các tam ma địa, tức đắc tất cả đà la ni môn” cũng coi như rất cừ khôi. Mỗi tuần đến luyện một lần. Sau hai, ba năm công phu của bạn sẽ rất cao. Còn nếu rảnh rỗi, ngày ngày tiếp nhận huấn luyện thì ba năm bạn liền thành Phật, tội nghiệp trong vô lượng kiếp đều sẽ tiêu sạch trơn.

Trong vãng sanh truyện, chúng ta thấy rất nhiều người niệm Phật vãng sanh. Có người đứng mà đi, ngồi mà đi, biết trước giờ chết, không bị bệnh. Họ ra đi hoan hỉ, tự tại, nhờ công phu gì? Đều nhờ công phu niệm Phật thành tựu. Một số người lại bảo, vào niệm Phật đường này niệm ba năm phải chết, không nên đi. Như vậy thì còn gì để nói? Loại ý niệm mê hoặc điên đảo, xả không được sáu cõi luân hồi, xả không được ba đường ác thì vẫn phải tiếp nối cảnh giới tham sống sợ chết. Vọng niệm chưa xả bỏ chắc chắn sẽ còn sanh tử.

Pháp môn niệm Phật không có sanh tử, bạn không nên cho rằng đó là chết. Vãng sanh là sống mà vãng sanh, chết thì không thể vãng sanh, nên pháp môn này mới gọi là không sanh không diệt. Khi vãng sanh, bạn rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Phật đến tiếp dẫn, ta cùng đi với Phật, không cần túi da thối này nữa. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc phải đổi thân kim sắc tử ma, tướng mạo trang nghiêm giống y tướng mạo của A Di Đà Phật. Thân vô lượng tướng, tướng vô lượng vẻ đẹp.

Tướng của chúng ta thật quá xấu, đến nơi đâu cũng không có người hoan nghênh nên chúng ta phải đổi thân này thành thân tướng hảo. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là sống mà ra đi, quyết không phải chết mà đi. Cho nên tôi thường nói, pháp môn của chúng tapháp môn không già, không bệnh, không chết. Chỉ cần bạn niệm Phật đến tâm địa thanh tịnh thì bất cứ bệnh khổ nào cũng sẽ niệm tiêu, bạn sẽ không bị bệnh, cũng không già yếu, ngày ngày hoan hỉ. Hoan hỉ thì sẽ trẻ trung.

Vì sao con người già? Lo buồn thì già. Người xưa cũng nói: “Lo có thể khiến cho người già”. Bạn hay lo buồn sẽ dễ dàng lão hoá. Hay hoan hỉ thì làm sao già! Ở niệm Phật đường buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, pháp hỉ sung mãn, bạn sẽ không già không bệnh không chết mà đi làm Phật. Hơn nữa, khi công phu chín muồi thì sanh tử tự tại, muốn lúc nào đi ngay lúc đó, muốn ở thêm vài năm cũng không ngại gì. Sau khi công phu thuần thục, đó không phải là thân nghiệp báo. Ngày nay chúng ta muốn ở thêm vài năm cũng không được. Thọ mạng đến rồi không đi không được, đi không tự tại, hoặc thọ mạng chưa đến muốn chết cũng không chết được, rất phiền phức.

Công phu niệm Phật thành tựu, bạn liền tự tại, lúc đó bạn biết chính mình phải làm thế nào. Có ở thêm vài năm nữa trên thế gian cũng chỉ vì lý do độ chúng sanh. Bạn vì giúp đỡ những chúng sanh có duyên với mình nên ở thêm vài năm, đó mới là lý do. Quyết không phải do ham thích hưởng thụ. Hưởng thụ thế gian làm gì sánh được với thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chỗ này của chúng ta, phòng ốc đều không tệ, nhưng ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thì phòng này không có người nào muốn ở. Tất cả đều là cung điện bằng bảy báu. Bên trên phòng chúng ta chỉ họa một số phù điêu, thiếp vàng trên giấy vàng rất mỏng dán một lớp. Còn những đồ vật ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đều thuần vàng. Đất bằng lưu ly. Lưu ly chính là ngọc tỉ thúy màu xanh trong suốt, loại quý nhất trong các loại ngọc. Từ mặt đất có thể nhìn thấu xuống lòng đất. Vàng ròng để đắp đường. Như vậy bạn còn gì lưu luyến thế gian này.

Việc ăn uống, kinh nói, ý niệm vừa nghĩ muốn ăn thứ gì thì đồ ăn đã bày ra trước mắt. Chúng ta không còn là phàm phu sáu cõi; ý niệm muốn ăn là tập khí ở sáu cõi; khi tập khí khởi lên, nó tự nhiên liền hiện hành. Vừa giác ngộ thì lập tức không còn, biến mất sạch sẽ tinh khiết. Cho nên thế giới Tây Phương Cực Lạc không có nhà bếp, cũng không có rác rưởi. Vô cùng tự tại.

Cung điện của bạn ở sạch sẽ tinh khiết, trống rỗng không có bất cứ thứ gì. Bạn muốn thứ nào thì thứ đó hiện ra, khi không cần nữa thì không còn. Làm gì giống chúng ta hiện tại đồ đạc để lộn xộn rối rắm, dọn dẹp cũng rất phiền.

Tuy nhiên, người đã công phu tới tại sao không mau đi hưởng phước mà cứ lưu lại nơi đây? Đó là họ xả mình vì người, giúp đỡ một số chúng sanh, có duyên mang theo nhiều người cùng đi. Còn nếu họ không có những duyên phận này với chúng sanh thì khi công phu thành tựu, không ai không chịu đi sớm.

Người thông thường chúng ta muốn đi không được. Chân thậtnăng lực thì ai mà chẳng hy vọng đi sớm để sớm một ngày thấy Phật. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, mỗi ngày bạn không chỉ cúng dường mười vạn ức Phật như trên kinh, mà thực tế mỗi ngày bạn cúng dường vô lượng vô biên chư Phật. Thế Tôn nói mười vạn ức là vì chúng sanh thế giới mà nói. Vì chúng sanh thế giới này tình chấp sâu nặng, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc luôn nghĩ đến địa cầu từ trước là quê hương của mình, nên cần quan tâm một chút đến quê hương hiện tại. Lúc nào bạn cũng có thể quay lại địa cầu để thăm viếng. Phật nói pháp dụng ý ở chỗ này, năng lực thực tế siêu vượt hơn đây rất nhiều lần. Thế giới Tây Phương tốt đẹp như vậy, đến đó thành tựu thù thắng như vậy, vì sao chúng ta không chịu đi?

Nếu chúng ta tu các pháp môn khác sẽ không dễ gì đạt, nhưng tu pháp môn tịnh độ thì rất dễ đạt. Cho nên đối với các pháp môn khác, Bồ Tát trong các pháp môn khác nói chân thật là pháp khó tin. Không vào cảnh giới thì họ không tin, “nan tín chi pháp”. Chúng tôi nói với mọi người, niệm Phật đường này thù thắng. Họ nghe không tin, đến khi ở đây niệm Phật vài ngày họ mới tin tưởng. Ngay đến việc nhỏ xíu như vậy mà họ còn khó tin, huống hồ kinh Phật nói cảnh giới viên mãn thù thắng. Cho nên tỉ mỉ mà thể hội, đem việc nhỏ so sánh với những việc thù thắng, chúng ta mới có thể thể hội một chút, tăng thêm một chút tín tâm, tăng thêm nguyện lực. Tín nguyện niệm Phật cầu sanh tịnh độ nhất định sẽ thành tựu.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11248)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10103)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14210)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15186)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11880)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12466)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13044)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12559)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19474)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11722)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10806)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13405)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11518)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17881)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11051)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12090)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14061)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10587)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant