Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu

27 Tháng Mười 201520:09(Xem: 12518)
Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu
BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Kinh văn số 1672

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, Luận tập bộ toàn
Đời Tống, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-Na-Bạt-Ma dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Sa-môn Thích Như Điển phương trượng chùa Viên Giác Đức quốc
Dịch từ chữ Hán sang chữ Việt nhân khai mạc khoá tu học Phật Pháp Âu châu lần thứ 19
Tại Göterborg Thụy Điển, ngày 27.07.2007
Hiệu đính lần thứ nhất ngày 27 tháng 10 năm 2015
 

 

   Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết

   Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm

   Trọn bị vô minh che, ngăn ngại

   Ta nay vì họ hưng lợi ích.

   Ví như khắc hoạ, tạo tượng Phật,

   Người trí thấy được nên cung kính,

   Ta nương Như Lai nói chính Pháp

   Đại vương cũng nên tin nhận sâu.

   Ngài trước tuy nghe lời Thích-Ca

   Nay nếu nghe nhận thêm nhận thức.

   Giống như ao hoa sắc thanh tịnh

   Ánh trăng tỏa chiếu sáng hơn ngày.

   Phật nói sáu niệm phải tu tập

   Nghĩa là: Tam Bảo, Thí, Giới, Thiên.

   Tu hành mười thiện tịnh ba nghiệp,

   Lìa rượu, phóng dậttà mạng,

   Quán thân, mạng, tài chóng nguy ngập

   Nên thí Phước Điền cứu nghèo cùng,

   Thí làm bền chắc không gì sánh

   Là người thân cận tối đệ nhất.

   Chăm tu tịnh giới trừ vết uế,

   Cũng chớ mong muốn, cầu các Hữu.

   Ví như gieo trồng trong đại địa

   Giới sinh các thiện cũng như thế.

   Tu Nhẫn, nhu hoà, bỏ sân khuể

   Phật nói hành này tối thượng nhất.

   Như thế Tinh tiến và Thiền, Trí

   Đủ sáu hành này vượt sống chết.

   Có thể ở nhà hiếu cha mẹ

   Đó tức gọi là thắng phúc điền,

   Hiện đời danh tiếng lớn truyền khắp,

   Vị lai phúc báo chuyển vô lượng.

   Giết, trộm, dâm, dối, đam mê rượu,

   Giường chạm cao rộng và xông hương,

   Hát ca xướng kỹ, ăn quá thời,

   Các ác như thế phải xa lìa.

   Nếu chút thời gian tu giới này

   Thọ vui cõi trời, lên niết-bàn.

   Xan tật, tham dục và xiểm ngụy,

   Cuống hoặc, điên đảogiải đãi

   Các pháp ác, bất thiện như thế

   Đại vương phải quán, chóng vứt bỏ.

   Đoan chính, tôn cao và năm dục                             

   Phải biết nguy ngập và phù phiếm,

   Chớ cậy vào pháp không chắc ấy.

   Kiêu dật, phóng túng sinh các khổ,

   Muốn tăng các thiện, chứng cam lồ

   Phải nên xa lià như vứt độc.

   Có thể tinh cần bỏ kiêu mạn

   Ví như trừ mây hiển trăng thu,

   Giống như Chỉ-Kế và Nan-Đà,

   Cũng như Sai-Ma... các hiền thánh.

   Như Lai nói có ba loại lời:

   Lời nhập ý, chân thật, hư vọng,

   Nhập ý như hoa, Thật như mật,

   Hư vọng ác hèn như phẩn uế,

   Phải nên tu tập hai loại trước,

   Nhanh chóng dứt trừ loại hư vọng.

   Bốn loại pháp từ sáng vào sáng

   Vua  phải phân biệt, suy nghĩ kỹ,

   Hai loại vào sáng thì nên tu,

   Nếu là si tối phải chóng bỏ,

   Quả Am-ba-la hoá bốn loại

   Người khó phân biệt cũng như vậy.

   Phải lấy trí huệ quán sát sâu

   Nếu thật hiền thiện nên gần gũi.

   Tuy thấy người nữ cực đoan nghiêm

   Phải tưởng như mẹ, như người hầu,

   Nếu khởi tâm tham dục ái nhiễm

   Phải nên chính tu quán bất tịnh.

   Tâm này tháo động phải cấm chế

   Như giữ thân mạng hoặc trân bảo,

   Tâm dục nếu khởi phải kinh sợ

   Như sợ đao kiếm, các ác thú.

   Dục làm bất lợi như oán độc

   Đấng Mâu-Ni nói lời như thế.

   Sinh tử luân hồi quá ngục trói

   Nên phải chăm tu cầu giải thoát.

   Sáu Nhập tháo động ruổi các cảnh

   Phải nên thu giữ chớ buông lung.

   Có thể như thế nhiếp các căn

   Hơn cả dũng tướng thắng giặc mạnh.

   Thân này bất tịnh chín lỗ chảy

   Chẳng có cùng tận như sông biển,

   Da mỏng đậy che dường thanh tịnh

   Như anh lạc giả tự trang nghiêm,

   Những người có trí chính phân biệt

   Biết nó dối gạt liền vứt bỏ.

   Ví như người ghẻ cạnh lửa nồng

   Thoạt tuy tạm thích sau thêm khổ,

   Tưởng của tham dục cũng như thế

   Lúc đầu chút lạc sau nhiều hoạn.

   Thấy thật tướng thân đều bất tịnh

   Ngay đó quán không, không có ngã,

   Nếu có thể tu tập quán này

   Trong các lợi ích vô thượng nhất.

   Tuy có dòng tộc và nghe nhiều

   Nếu không giới, trí như cầm thú,

   Tuy chỗ xấu hèn, ít thấy nghe

   Tu được giới, trí gọi thắng sỹ.

   Tám pháp: lợi, suy... khó thể tránh

   Nếu trừ bỏ được thật không sánh.

   Các vị Sa-môn, Bà-la-môn

   Có cha mẹ, vợ con, quyến thuộc

   Chớ vì ý họ, nhận lời họ

   Rộng tạo bất thiện, hành phi pháp,

   Nếu vì như thế khởi các lỗi

   Vị lai khổ lớn chỉ mình nhận.

   Phàm tạo các ác chưa báo ngay,

   Không như đao kiếm liền thương, hại

   Lâm chung tướng tội mới cùng hiện,

   Sau vào địa ngục chịu các khổ.

   Tín, Thí, Giới, văn, Tuệ, Tàm, Quý

   Bảy pháp như thế gọi Thánh tài

   Chân thật, không sánh, Mâu-Ni nói

   Siêu việt các trân bảo thế gian.

   Đại vương nếu tập thắng tài này

   Không lâu cũng chứng quả đạo trường.

   Giỏi cờ, rượu ngọt, đàn sáo hay

   Giải đãi, kiêu dật và bạn ác,

   Phi thời, khinh tháo, nhiều động loạn

   Bảy pháp như đây phải lìa xa.

   Tri túc thứ nhất hơn các tài

   Lời như thế được Thế tôn nói,

   Biết đủ, tuy nghèo được gọi giầu,

   Có của , nhiều dục gọi là nghèo,

   Nếu nhiều tài nghiệp tăng các khổ,

   Như rồng nhiều đầu thêm độc tố.

   Phải quán vị ngon như thuốc độc

   Dùng nước trí huệ vẩy khiến sạch.

   Vì giữ thân này nên phải ăn

   Chớ tham vị sắc, tăng kiêu mạn,

   Nơi các dục nhiễm phải sinh chán.

   Điều hoà thân này khiến an ổn,

   Cần cầu đạo vô thượng niết-bàn,

   Sau rồi nên phải tu trai giới.

   Một đêm phân biệt có năm thời,

   Ở trong hai thời phải ngủ nghỉ,

   Đầu đêm, giữa, cuối quán sinh tử,

   Phải chăm cầu thoát chớ qua không.

   Bốn định vô lượng phải tu tập

   Đó gọi là mở đường Phạm Thiên,

   Nếu chuyên trói niệm bốn tâm thiền

   Mạng hết ắt sinh nơi trời ấy.

   Hữu vi dời đổi đều vô thường

   Khổ, không, bại hoại, chẳng kiên cố,

   Không ngã, không lạc, chẳng thanh tịnh,

   Như thế đều gọi: pháp đối trị.

   Nếu ai quán sâu pháp môn này,

   Vị lai thường ở vị tôn quý.

   Tu hành năm giới, đoạn năm tà,

   Cũng là điều đại vương nên niệm:

   Ví như chút muối thả sông Hằng

   Chẳng thể khiến nước có vị mặn,

   Ác nhỏ ít nếu gặp các thiện,

   Tiêu tan bại hoại cũng như thế.

   Năm tà nếu tăng, cướp công đức

   Vua phải trừ diệt chớ cho tăng,

   Năm căn như: Tín..., các nguồn thiện,

   Thì phải tu tập khiến tăng thêm.

   Tám khổ như: sinh...thường hực cháy

   Thường dùng nước huệ rưới cho diệt.

   Muốn cầu thiên lạc và niết-bàn

   Phải thường tu tập chính tri kiến.

   Tuy có trí bén, vào đạo tà,

   Công đức vi diệu mãi không thừa.

   Bốn loại điên đảo hại các thiện

   Cho nên phải quán chớ cho sinh:

   Sắc chẳng phải ngã, ngã chẳng sắc

   Trong ngã không sắc, sắc không ngã,

   Nơi sắc sinh bốn loại tâm này,

   Các ấm còn lại cũng như thế,

   Hai mươi tâm này gọi điên đảo,

   Có thể trừ được là tối thượng.

   Pháp không tự khởi, vô minh sinh

   Chẳng Tự Tại hay thời, hữu làm,

   Đều từ vô minh, nghiệp ái khởi,

   Nếu không nhân duyên liền dứt hoại.

   Đại vương đã biết các nhân này

   Phải thắp đèn huệ trừ si tối.

   Các kết: thân kiến, giới thủ, nghi

   Ba thứ hay chướng đạo vô lậu,

   Nếu vua hủy hoại khiến diệt tan

   Pháp Thánh giải thoát sẽ hiển hiện.

   Ví như người mù hỏi tướng nước

   Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể biết,

   Dục cầu niết-bàn cũng như thế

   Chỉ tự tinh cần sau mới chứng.

   Dục giả quyến thuộctri thức

   Nhưng gặp được thì cực khó có,

   Cho nên Đại Vương phải tinh tiến

   Rồi sau có thể chứng tịch diệt.

   Thí, Giới, Nghe Nhiều và Thiền Định

   Nhân đây dần gần bốn chân đế.

   Nhân chủ nên phải tu tuệ minh,

  Hành ba pháp này cầu giải thoát

  Có thể tu thừa tối thượng này

  Ắt nhiếp tất cả các thiện khác.

  Đại Vương phải tu pháp Niệm Thân,

  Thế Tôn gọi là đạo thanh tịnh,

  Nếu không niệm này, tăng giác ác

  Cho nên cần phải chăm tu tập.

  Mạng người ngắn ngủi chẳng dừng lâu

  Như bọt trên nước, khởi liền diệt,

  Khoảng thở ra, hít vào, ngủ nghỉ

  Niệm niệm hằng sút thường suy giảm,

  Không lâu liền sẽ thấy tiêu diệt,

  Da thịt thối nát cực đáng chán

  Đờm xanh, trương hoại, máu bầm chảy,

  Trùng dòi ăn hút đến khô kiệt,

  Tóc, lông, móng, răng mỗi phân tán,

  Gió thổi, nắng thiêu lần khô tận.

  Phải biết thân này chẳng vững bền

  Tích tụ bởi vô lượng khổ não,

  Cho nên hiền thánh, người có trí

  Đều quán lỗi ấy mà vứt bỏ.

  Tu-Di, biển rộng với sông dài

  Bảy mặt trời chiếu đều tan hết,

  Kiên cố như vậy còn phá hủy

  Huống lại là thân nguy ngập này,

  Vô thường đã đến không cứu hộ,

  Không thể cậy tình hoặc truy cầu.

  Cho nên Đại Vương phải quán kỹ

  Chóng sinh chán lià cầu thắng pháp.

  Thân người khó được, nghe pháp khó

  Giống như rùa mù gặp lỗ trôi,

  Nếu đã được thân hiếm có này

  Phải nên chăm tâm nghe chính pháp.

  Được thân vi diệu mà tạo ác

  Ví như đồ quý đựng các độc,

  Sinh ở trung quốc, gặp bạn lành

  Chuyên niệm, phát tâm, khởi chính nguyện.

  Lâu trồng công đức đủ các căn

  Nay vua đầy đủ các thiện này,

  Nếu lại gần gũi người tri kiến,

  Phật gọi đây là tịnh Phạm hành,

  Cho nên phải nên vui tùy thuận,

  Chư Phật do đây chứng niết-bàn.

  Đã gặp pháp thanh tịnh vi diệu

  Phải nên chí cầu đạo lìa dục.

  Sinh tử hiểm nạn khổ vô lượng

  Nói đến cùng kiếp cũng chẳng hết,

  Ta nay vì vua lược phân biệt

  Phải nên lắng nghe khéo suy nghĩ.

  Ba cõi biến chuyển không giới hạn,

  Cha mẹ, vợ con nhân lẫn nhau

  Oán thân, yêu ghét chỗ vô thường,

  Như bánh xe lửa há cùng tận?

  Vô thỉ sinh tử thế giới lại

  Sữa mẹ đã uống hơn đại hải,

  Nếu chẳng tinh cần chứng trí Không

 Tương lai lại  uống không cùng tận.

  Lăn khắp năm đường, trải trời, người

  Nếu góp xương cao hơn Tu-Di,

 Nước mắt của ái biệt sầu bi

 Cũng chẳng phải sông biển so bì.

 Nếu tính cha mẹ của một người

 Vượt quá thế gian số cây cỏ.

 Tuy hưởng năm dục vui trên trời

 Rốt trở lại đọa ác thú khổ,

 Chư thiên thọ mạng cực lâu dài

 Thọ lạc khoảng ấy khó tuyên nói,

 Hát xướng ca múa dòng diệu thanh

 Ai âm hoà nhã rất trong xa,

 Kỳ-bà diệu sắc cực đoan nghiêm

 Vây quanh hầu vệ cùng hoan lạc,

 Cỗ bàn trăm vị đều đầy đủ

 Tùy theo ý thích đến tự nhiên,

 Ao báu hương, nước tịnh tràn đầy,

 Khắp nơi giăng phủ hoa vi diệu,

 Các chim sắc lạ tụ bên trên

 Hót hòa nhau phát xa diệu âm,

 Chư thiên du hí, tắm trong ấy

 Vui thích như thế chẳng thể nói.

 Hết phúc lâm chung năm suy hiện

 Bấy giờ ngồi khổ nhớ vui trước.

 Cho nên tuy có vui thiên nữ

 Người trí thấy đó đã sinh chán.

 Tuy ở trân bảo lên lầu quán

 Cũng ắt thối đọa nơi thối bẩn,

 Tuy trong vườn Nan-Đà trên trời

 Cũng lại phải vào rừng đao kiếm,

 Tuy tắm ao Mạn-Đà chư thiên

 Rốt ắt rơi vào ngục sông tro,

 Tuy ở địa vị vua Chuyển Luân

 Rốt là đồng bộc bị truy đuổi,

 Tuy thọ vui lìa dục Phạm Thiên

 Lại rơi vô gián khổ thiêu đốt,

 Tuy ở thiên cung đầy ánh sáng

 Sau vào trong địa ngục hắc ám,

 Gọi là địa ngục Hoạt, Hắc-Thằng,

 Thiêu, cắt, chém, đâm và vô gián ,

 Tám địa ngục này thường thiêu đốt

 Đều là nghiệp báo chúng sinh ác.

 Hoặc chịu khổ lớn như ép dầu,

 Hoặc nghiền thân thể như bụi phấn,

 Hoặc phanh chi tiết cho phân tán,

 Hoặc lại chém cắt và thiêu nấu,

 Hoặc lấy đồng sôi đổ vào miệng

 Hoặc lấy móng sắt xé thân hình,

 Chó sắt tranh nhau lại ăn nuốt,

 Chim sắt tụ lại cùng mổ xé,

 Các loại trùng  độc đều gặm nhắm,

 Hoặc cột đồng cháy xuyên qua thân,

 Lửa lớn hừng hực cùng đỗng nhiên

 Vì nhân tội nghiệp không trốn thoát.

 Vạc dầu sôi sục đến cao vọt

 Tội nhân điên đảo choàng nhảy vào.

 Mạng người nguy ngập cực nhanh chóng 

 Ví như khoảng hơi thở chư thiên,

 Nếu ai với mạng ngắn như thế,

 Nghe các khổ trên không kinh sợ,

 Phải biết tâm ấy rất kiên cố

 Giống như kim cương khó bẻ gãy.

 Nếu thấy tranh vẽ, nghe người nói,

 Hoặc theo kinh sách tự nhớ nghĩ,

 Khi biết như thế đã khó nhẫn

 Huống lại thân mình tự trải qua?

 Địa ngục lớn không ngừng, không cứu  

 Trong đó các khổ không cùng tận.

 Nếu lại có ai trong một ngày

 Bị ba trăm giáo đâm thân thể

 So một niệm khổ ngục A-Tì

 Trăm nghìn vạn phần chẳng được một.

 Chịu khổ lớn này trải một kiếp,

 Duyên tội nghiệp hết lại được miễn.

 Khổ não như thế từ ai sinh?

 Đều là ba nghiệp bất thiện khởi.

 Tuy nay Đại Vương không nạn ấy

 Nếu không tu nhân, rốt đoạ lạc,

 Ở trong súc sinh khổ vô lượng

 Hoặc bị  trói buộc hoặc đòn roi.

 Vì không có Tín, Giới, Đa Văn

 Luôn với ác tâm ăn nuốt nhau,

 Xương, lông, da, thịt đến tàn hại, 

 Hoặc là minh châu, lông, sừng, răng,                                                                                                                    

 Bị người đóng cưỡi không tự tại

 Thường chịu khổ ngói đá dao gậy.

 Trong đường ngạ quỷ khổ cũng vậy

 Các sự mong cầu chẳng tùy ý,

 Đói khát bức bách, khốn lạnh nóng,

  Các khổ thiếu, mệt nhiều vô lượng,

  Bụng lớn như núi, họng như kim

  Phẩn uế máu tanh, không thể nói,

  Loã hình phủ tóc cực xấu ác

  Như cây đa-la bị đốt, chặt

  Đêm miệng ắt bị lửa lớn đốt,

  Các trùng cùng đến tranh ăn hút,

  Phân tiểu cấu uế các bất tịnh

  Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể được,

  Nếu lại tìm cầu được ít phần

  Lại cướp đoạt nhau cùng tan mất.

  Trăng mát đêm thu như nạn lửa,

  Ôn hoà ngày xuân hoá khổ lạnh,

  Nếu đến vườn rừng, quả hết sạch,

  Nếu đến dòng trong biến cạn khô.

  Vì duyên tội nghiệp thọ lâu dài,

  Trải qua một vạn năm nghìn năm,

  Chịu các khổ độc không chỗ khuyết

   Đều là quả báo của ngạ quỷ.

  Chính Giác nói nhân khổ não này

  Gọi là nghiệp xan tham, tật đố.

  Nếu phúc trời hết còn sót thiện

  Nhân đó được làm vua cõi người,

  Sau nếu giải đãi, phúc đều hết

  Ắt đoạ ba ác chẳng chút nghi.

  Hoặc sinh Tu-la khởi cống cao

  Khuể, tật, tham, hại tăng các não.

  Chư thiên tuy có báo thiện hành

  Vì xan tật kia mất lợi lạc.

  Cho nên phải biết kết tật đố

  Là pháp nhiễm, ác phải vứt bỏ.

  Đại Vương, ngài nay đã biết đủ

  Sinh tử lỗi ác nhiều các khổ,

  Phải nên chăm tu thiện xuất thế

  Như khát muốn uống, cứu cháy đầu,

  Nếu thêm tinh tiến dứt các Hữu

  Trong các thiện là vô thượng nhất.

  Phải chăm trì giới, tu thiền, trí

  Điều phục tâm kia, cầu niết-bàn.

  Niết-bàn vi diệu tuyệt các tướng

  Không khổ sinh, lão, bệnh, não sầu,

  Cũng không sông núi với nhật nguyệt

  Cho nên phải nên chóng chứng biết.

  Nếu muốn chứng được trí Vô Sư

  Phải nên chuyên tu Thất Giác pháp,

  Nếu ai ngồi thuyền Giác phần này

  Dễ vượt thoát biển sinh tử lớn.

  Mười bốn pháp chẳng được Phật nói

Chỉ sinh tâm tin, chớ nghi hoặc,

Chỉ phải chính niệm chăm tinh tiến

Quyết định tu tập các pháp thiện.

Vô minh duyên hành, thức, danh sắc,

Sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,

Hữu ắt duyên sinh, sinh duyên tử

Nếu hết sinh tử, nhân duyên diệt,

Như thế chính quán mười hai duyên

Người này ắt thấy Thánh Sư Tử.

Nếu muốn lần lượt thấy Tứ Đế

Phải chăm tu tập Bát Chính Đạo.

Tuy ở chỗ tôn vinh, năm dục

Cũng được Thánh Đạo dứt các kết.

Quả này chẳng thể cầu người khác

Ắt phải tự tâm mới chứng được.

Ta nói các khổ và niết-bàn

Vì muốn lợi ích cho Đại Vương,

Không nên khởi sinh tâm kinh sợ,

Chỉ chăm tụng tập, hành các thiện.

Tâm là căn bản của các pháp

Nếu trước điều phục các việc vui.

Ta nói pháp yếu, lược phân biệt

Vua chẳng nên sinh tâm nhàm đủ,

Nếu bậc trí lớn nói rộng thêm

Cũng phải lắng tâm chăm nghe nhận.

Vua nay gọi là Pháp Khí Lớn

Nếu rộng nghe pháp ắt nhiều ích.

Nếu thấy ai tu ba nghiệp thiện

Phải sinh tâm tùy hỉ, giúp sâu,

Tự mình hành thiệntùy hỉ

Công đức như vậy trọn hồi hướng.

Vua phải ngưỡng học các hiền thánh

Như đức Quán Âm ...độ chúng sinh,

Vị lai ắt sẽ thành chính giác

Cõi không sinh, lão, ba độc hại.

Đại Vương nếu tu trên các thiện

Ắt danh xưng đẹp rộng lan truyền,

Sau đó dùng đây giáo hoá người

Khiến khắp tất cả thành chính giác.

Sông xiết phiền não trôi chúng sinh

Vì sâu kinh sợ khổ hực cháy,

Muốn diệt các trần lao như thế

Phải tu chân thật giải thoát đế.

Lià các pháp thế gian giả danh

Ắt được chỗ bất động thanh tịnh.

Nếu có người vợ tâm độc hại

Người vợ như thế nên lìa xa,

Nếu trinh lương, hoà ái, kính chồng

Khiêm hạ, chăm chỉ như nô tì  

Hằng nghĩ đến thân hữu, di mẫu  

Nên tôn kính như thần trong nhà.

Pháp  được ta nói là như vậy

Vua nên ngày đêm chăm tu hành.


BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23893)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41130)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19640)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23903)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21696)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23241)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27439)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26483)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29241)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33092)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20143)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25696)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20854)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31198)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38452)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21361)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44167)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29763)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42069)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22093)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45633)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32040)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23887)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24290)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29174)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33839)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27623)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32044)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 20988)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28801)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21498)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 27959)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22013)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21379)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19443)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19385)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19769)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19184)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29083)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20558)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28213)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23583)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33084)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31765)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21335)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39549)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21496)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19317)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26246)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24753)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21714)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22318)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29067)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22507)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20436)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23437)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21177)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35204)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24512)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31276)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant