Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Luận Kim Cang Châm

31 Tháng Mười 201510:52(Xem: 11960)
Luận Kim Cang Châm
LUẬN KIM CANG CHÂM
 (Asvaghosas Vajra-Suci) 

 Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, Luận Tập Bộ Toàn
 Thứ tự Kinh Văn số 1642. Từ trang 169 đến trang 171.
 Pháp Xứng Bồ-Tát tạo
Tây Thiên Dịch Kinh Tam Tạng Triêu Tán Đại Phu Thí Hồng Lư;
Thiếu Khanh Truyền Giáo Đại Sư phụng chiếu dịch.
                                                      Sa-môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác
                                                                               Hannover Đức Quốc                                                      
 Dịch từ chữ Hán sang chữ Việt tại tu viện Đa Bảo Úc-Đại-Lợi
Từ ngày 22.12.2004, nhân lần nhập thất lần thứ hai
 Hiệu đính xong lần thứ nhất vào ngày 18 tháng 10 năm 2015.

 

Luận Kim Cang Châm

     

Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính; lại trong đó , năng thuyên là chính, chỉ điều này là cao nhất, không có pháp cao hơn. Thế gian nếu không có nghiệp này thì làm sao hành động?  Do cái năng thuyên này, hoặc yêu hoặc giận từ đây mà khởi; như trong tất cả dòng tộc , Bà-la-môn là cao, nay cái ngôn thuyên này cũng lại như vậy.

     Lý này không đúng, tại sao thế? Bà-la-môn kia họ nào, mệnh nào? Lại, làm sao biết hành nghiệp thế nào? Làm sao được cái tên Bà-la-môn này?

     Lại, Vệ- Đà này, vì sao gọi là chính? Đế-Thích Hoàn Nhân vì sao mà bàng sinh, bàng sinh rồi làm sao sinh nơi Nguyệt Thiên, Nhật Thiên Hoàn Nhân, trở lại sinh bàng sinh; gió trời, lửa trời, nước trời Hoàn Nhân, xoay vòng lui tới, làm sao như vậy?

    Lại, họ vọng chấp rằng, trong cõi trời chết rồi, lại sinh trong cõi trời; trong cõi người chết rồi, lại sinh trong cõi người; bàng sinh cũng thế.

    Trong bốn Vệ-Đà nói như thế, đều không phải chính lý. Mạng này là gì? Nhân nào gọi là mạng? Bà-la-môn…cũng lại như vậy.

    Lại, Bà-la-môn ngoại đạo của ông nói: Được nói bởi chính điển, núi Bà-La-Đế sinh ra bảy cầm thú, núi Na-Bà-La-đà và núi Biệt-Lộc-Ca-Lăng-Nặc-Ly; núi ấy có các loài chim Oanh vũ, cò, ngỗng, hươu…;sinh trong loài người Câu-Lỗ-Khất-Lệ; từ đó chết rồi, sinh trong Bà-la-môn, giải thích luận của bốn Vệ-Đà.

    Các loài cầm thú hươu, ngỗng uyên ương này, sinh ra trong loài người, mạng thú của chúng là Bà-la-môn hay không phải Bà-la-môn?Tại sao thế? Mạng của chúng nếu là(Bà-la-môn) thì không phải cầm thú; mạng của chúng nếu không phải (Bà-la-môn) mà chúng lại sinh làm Bà-la-môn. Điều này phi lý.

    Bà-la-môn chấp rằng, luận của bốn Vệ-Đà là gốc của vạn pháp, cũng tên là chân như; không ở nơi họ tộc khác mà chấp nhận thọ thực. Nhưng ,ở chỗ thủ-đà-la thọ nhận vô số lợi, thì chính là ngược với tự tông, sao gọi là thanh tịnh? Do đây nên cũng không phải là Bà-la-môn chân chính .

   Lại, pháp Bà-la-môn của bốn Vệ-Đà vọng chấp vào chính mạngchính pháp của chủng tộc Bà-la-môn cũng lại phi lý. Làm sao gọi là chính pháp? chủng tính gián tạp , làm sao gọi là tối thượng , tại sao thế? Không phải là tối thượnggián đoạn, tạp nhạp .Sự này thế nào? Ví như tên cha là Na-Lạc-Khất-Xoa thì con tên là Binh-Nga-La-Tiên. Lại như tên cha là A-Nga Tất-Đế, con của ông ta cũng tên là A-Nga tất-Đế(Hai tên hợp); lại như tên cha là Bố-Sa Dã(hợp hai )-Tả, con ông ta lại tên là Kiều-Thi-Ca; lại như nghười cha tên là Câu-Xá-Tử, con ông ta tên là Tăng-tát Đa( hợp hai)-Nga; lại như cha tên Ca-Si-Na, con ông ta tên Ca-Si-Na; lại như cha tên Bà-Tả-Ngô Sào-Ma( hợp hai), con tên Kiều-Hằng-Ma; lại như cha tên Ca-La-Xá (dẫn), con tên là Nạp-Lô-Na-Tả; cha tên Để-Dật-Để-Lý, con tên Đệ-Đế-Lý-Nữ-Ca (hai hợp); lại cha tên Nại-Ca-Mâu, con tên Tiên Giác; lại như người săn bắn,hái rau, đánh cá sinh, thì con gọi là  Phược-Dã (nhị hợp)-Tăng-Tử-Giác-Khất-Lệ (nhị hợp dẫn ); cha có họ Thủ-đà-la thì con tên Vĩ-Thấp-Di-Hằng-Lãm; mẹ là Chiên-Đà-La thì con tên là Phược-Sắt-Trạch (nhị hợp). Mẹ tên Điểu-Lý-Phược (nhị hợp)-Thi, thì người nữ được trời sinh, không phải Bà-la-môn.

    Như đã được nói ở trên, thì vì cớ gì chấp mà nói rằng Bà-la-môn là cao nhất trong nhân gian? Lại như chấp kinh Mậu-Lô (nhị hợp)-Để là chính thì cũng lại phi lý. Cho nên pháp Bà-la-môn cũng không có đạo lý.

    Lại, như pháp Bà-la-môn chấp , các vật như thịt mới, tử khoáng và mặn thì Tuất- Đà mới thọ. Bà-la-môn của ông chẳng nên thọ nó, nay sao lại không như thế nữa?

    Lại, như họ chấp rằng :Bà-la-môn nếu bán sữa thì đi trên hư không bị rớt, không phải Bà-la-môn; ăn thịt mà bị rơi từ hư không thì cũng phi lý như thế. Cho nên phải biết rằng, Bà-la-môn mua bán sữa, thịt thì không phải là pháp Tuất-Đà.

    Do điều này phải biết rằng, tất cả những ai không ăn thịt, sữa và không mua, bán, đều được gọi chung là Bà-la-môn tà. Cho nên phải biết rằng, tính chuyện bán sữa, thịt không phải Bà-la-môn, đây là vọng chấp phi pháp.

    Lại, họ thế gianvọng chấptối thượng cũng không phải là chính pháp. Như Sát-đế-lợi , Tì-Xá, Tuất- Đạt, mỗi tộc đều chấp là tối thượng, thì cũng đều phải gọi chung là tộc tính Bà-la-môn.

    Lại, chấp rằng hành khổ thân xác gọi là Bà-la-môn, thì tất cả những ai có thân khổ cũng phải gọi là Bà-la-môn.

    Lại, họ vọng chấp rằng, giết Bà-la-môn bị tội nặng, hại quyến thuộc của họ tội cũng như thế. Lại, chấp rằng họ từ miệng trời sinh ra, tộc tính Sát-đế-lợi từ thân trời thanh tịnh sinh ra, Tì-xá, Thủ-đà từ chân mà sinh ra, nên nếu giết họ thì bị tội nặng.

    Cái chấp của họ phi lý, tại sao thế? Vì có thể giết những tộc tính khác mà không có tội, hại quyến thuộc khác cũng không có tội.Do điều này  nên là vọng chấp,không khế hợp với chính lý.

    Lại, họ vọng chấp rằng, phá hoại sự thực hành của họ, phá hoại nơi hành cúng của họ và sự nhận bố thí họ, thì hoặc bằng trí hoặc bằng thân đều bị tội nặng. Điều này không đúng, tại sao thế? Trong thân, trong trí, cái gì được danh hiệu Bà-la-môn? Thích đáng là, Thủ-đà-la...cũng đều có thân và trí, đều đáng được gọi là Bà-la-môn tà.

    Lại, họ vọng chấp rằng, giải hiểu bốn bộ Vệ-Đà ,Di-bà cùng Tăng khư luận, Vĩ thế sử ca, cho đến các luận – đều trọn thông đạt sáng tỏ thì gọi là Bà-la-môn. Điều này cũng phi lý. Như Thủ-đà...cũng hiểu luận của họ, rõ nghĩa của họ, đều đáng được gọi là Bà-la-môn tà.

    Nếu tu khổ hành mà gọi là Bà-la-môn thì Thủ-đà ...kia cũng có thể hành cái đó, cũng phải được gọi là Bà-la-môn.

    Hiểu các thuật số mà được gọi là Bà-la-môn thì, những người đánh cá, các người ham vui kia, hiểu đủ loại thuật số khác nhau, cũng có thể được gọi là Bà-la-môn tà.

    Cho nên phải biết rằng, hành không phải Bà-la-môn, nghiệp không phải Bà-la-môn, hành cúng , thọ thực...không phải Bà-la-môn. Sát-đế-lợi, Tì-xá, Thủ-đà kia cũng có thể làm như thế, phải đều được gọi là Bà-la-môn.

    Cho nên phải biết rằng, không phải tộc tính, không phải nghiệp, không phải hành, không phải sinh, cho đến có đức mà gọi là Bà-la-môn.

    Họ nhân cái gì mà lập là hoa Quân-Na, cũng giống mặt trăng? Lìa tất cả nhiễm , khéo tu thắng hành, oai nghi không thiếu, giới hành đầy đủ; khéo điều phục các căn, dứt trừ phiền não; không ta, không người, lìa các chấp trước, và tham sân si trọn đều lìa bỏ, như thế mới gọi là Bà-la-môn chân chính.

    Lại, lìa ái nhiễm cho đến súc sinh, chẳng sinh tham trước, tu hành thanh tịnh, gọi là Bà-la-môn.

    Cho nên, biết được điều này được nói bởi Tốc-Cốt-Lô Đại Tiên: Bà-la-môn này không phải tộc tính, không phải nghiệp, không phải đức, không phải hành, cũng không phải công xảo. Nếu Chiên-đà-la, giỏi bốn Vệ-đà, có thể giỏi nghề nghiệp, đức hành đầy đủ, cũng có thể gọi là Bà-la-môn tà.

    Cho nên phải biết rằng, không phải mạng, không phải dòng tộc, không phải trí, không phải thân, cũng không phải hành nghiệp mà gọi là Bà-la-môn.

    Lại, như Thủ-đà, tu học khổ hành, hiểu bốn Vệ-Đà, được năm thông của bậc Tiên, thì Bà-la-môn các ông làm sao nêu sự việc này , rằng đây là chủng tính thấp?

    Lại, đạo Tiên kia, bốn chủng tính đều được, làm sao các chủng tính khác thì gọi là chẳng phải tối thượng?

    Lại, như Đế-Thích, do quá khứ tu nghiệp thanh tịnh nên được sinh làm trời ấy thì vốn là chủng tính thấp, chính văn của kinh ấy nói như thế; Bà-Già-Vãn và Đế-Thích này, họ là chủng tính thấp, bằng chứng cật vấn như thế đều căn cứ như ở trước.

    Lại, kinh ấy nói, Đại Tự Tại ThiênThiên Hậu , từ trong miệng, sinh ra Đế-Thích thiên và khí thế gian; không phải là thế gian sinh ra Đại Tự Tại Thiên và sinh ra Thiên Hậu; gốc có thể sinh ngọn, ngọn không thể sinh gốc. Cho nên lời này ngược với chính thuyết của nó. Vốn là chủng tính thấp, làm sao vọng chấp từ kia mà sinh, nên biết là phi lý.

   Lại, như Thủ-đà-la mạng chung sinh Đại Tự Tại Thiên kia, Bà-la-môn các ông làm sao đưa ra sự việc rằng nó là chủng tính thấp?

    Lại, như ông nói, pháp Bà-la-môn,bổ khí bằng nhĩ dược, khổ hành tuyệt thực gọi là Bà-la-môn.

    Thủ-đà-la...kia cũng có thể làm điều đó, đây phải được gọi là Bà-la-môn tà.

    Lại, họ chấp rằng, nhận đồ ăn trong tay của Thủ-đà thì trải qua một tháng, thân hiện tại này sẽ biến làm thân Thủ-đà, hậu báo sẽ quyết định sinh làm chó. Lại, Bà-la-môn cưới người nữ Thủ-đà làm vợ thì cha mẹ, gia đình ,tôi tớ đều trọn lìa xa, chết đọa địa ngục.

    Cái chấp này phi lý. Họ Bà-la-môn với Thủ-đà kia có gì khác nhau? Như đại tiên Ca-Si-Na từ thai hươu mà sinh, khổ hành tu học bèn chứng đạo Tiên. Vị tiên này há có thể từ Bà-la-môn mà sinh tà?

    Như đại tiên Phược-Giả-Bà vì được sinh từ người nữ đánh cá , nên khổ hành tu họcthành đạo Tiên. Vị Tiên này há là tộc tính Bà-la-môn?

    Cho nên là vọng chấp, không khế hợp với chính lý.

    Lại, như đại tiên Phược-Tư-Sắt-Ngật, được sinh bởi người nữ Điểu-Lý-Phược-Thi, khổ hành tu học mới được đạo Tiên. Vị Tiên này há là Bà-la-môn sinh?

    Lại, như đại Tiên Lộc Giác, sinh nơi thai hươu, tu học khổ hành mà thành đạo Tiên. Vị Tiên này há là Bà-la-môn tà?

    Lại, như đại Tiên Vĩ-Thấp-Phược-Di-Hằng-Lô, được sinh từ người nữ gia đình Chiên-đà-la. Vị Tiên này há là Bà-la-môn chăng?

    Cho nên phải biết rằng, điều phục các căn, không chấp ta, người, chăm tu Phạm hành, lìa xa dục nhiễm, vĩnh viễn đình chỉ các hoặc, do đây mới gọi là Bà-la-môn chân chính, chứ không phải từ tộc tính kia mà sinh. Làm sao vọng chấp rằng tộc tính Bà-la-môn là tối thượng trong thế gian?

    Cho nên phải biết, Bà-la-môn kia, không phải tộc tính, không phải mạng, không phải dòng tộc, không phải nghiệp, không phải sinh mà gọi là Bà-la-môn.

    Lại, như nhiều người vốn chủng tính thấp, trì giới tu phúc mà được sinh cõi trời, làm sao nhân tộc tính mà sinh cõi trời tà.

    Lại như đại tiên Ca-Si-Nang, đại tiên Vĩ-Dã-Bà, đại tiên Phược-Thi-Sắt-Sấp, đại tiên Giác Thiện, đại tiên Vĩ-Thấp-Phược, đại tiên Di-Hằng-La, đại tiên Nang-La-Na, các đại tiên như thế đều từ dòng chủng tộc thấp mà sinh. Nếu do nhân tu hành mà được đạo Tiên thì vì cớ gì mà chấp rằng chủng tính không tạp là tối thượng trong thế gian? Cho nên lời hư ngụy không nên tin nhận.

    Lại, như họ chấp rằng, tộc tính Bà-La-Môn sinh từ miệng Phạm Thiên, tộc tính Sát-Đế-Lợi từ tay mà sinh, chủng tính Tì-Xá sinh từ đùi Phạm Thiên, từ chân Phạm Thiên mới sinh ra Thủ-đà. Cho nên hư vọng làm nhiều chấp trước.

    Lại, chấp rằng, khổ hành giữ chắc ý chí gọi là Bà-la-môn. Thế thì người đánh cá, làm Thầy của  Thủ-đà...vững chí khổ hành đều phải gọi chung là Bà-la-môn tà.

    Lại, chấp hình thức của họ, kết bện râu tóc, lưng mang lụa thắt, tay cầm gậy gỗ, y trắng, ít ăn gọi là Bà-la-môn. Các Tuất- Đà khác cũng có thể hành cái đó, cái này đáng gọi chung là Bà-la-môn tà.

    Lại, chấp rằng bốn họ đều từ Phạm Thiên sinh. Làm sao cha là một mà tộc tính của con lại khác? Có thể nào Thủ-đà cho đến các tộc tính khác là con được sinh bởi một cha mà tộc tính khác nhau? Điều này đã không đúng thì luận thuyết kia làm sao đúng?

    Lại, Bà-la-môn từ trong miệng một Phạm Thiên mà sinh; chị em ,anh em tự giao phối với nhau, là điều bị thế gian trách mắng, các ông có thể làm điều đó thì làm sao thanh tịnh? Cho nên vọng chấp, không thanh tịnh mà xưng là thanh tịnh. Như một cha mẹ mà sinh bốn con, không thể có họ khác. Như thế nào mà vọng chấp: đây là Bà-la-môn, đây là Sát-đế-lợi, đây là Tì-xá, đây là Thủ-đà? Làm sao một cha mà con lại mỗi người họ khác? Cho nên vọng chấp bốn họ khác nhau.

    Không phải như voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, hươu, sư tử, hổ, sói hình chân khác nhau; đây là vết chân trâu cho đến vết chân voi, có thể phân ra khác nhau.

    Lại, như một cây sinh ra hoa quả, không có khác nhau ; không phải  hoa cỏ khác,chỗ sinh không giống nhau thì không thể khiến cho giống.

    Nay bốn họ của ông cũng thế, hoặc Bà-la-môn, hoặc Sát-đế-lợi cho đến Thủ-đà, vì đều được sinh từ một cha, nên làm sao vọng chấp bốn họ khác nhau?

    Lại có vua trời tên là Dụ-Địa-Sắt-Trí-La cung kính chắp tay, đến chỗ tiên nhân Phệ-bà-Ba-Lệ, đầu mặt lễ chân mà thưa với tiên nhân rằng, thế nào được gọi là đức của Bà-la-môn, lại thế nào gọi là tướng của Bà-la-môn, các tướng khác nhau lại có bao nhiêu loại, nguyện diễn nói khiến tôi hiểu rõ.

    Lúc ấy tiên nhân Phệ-Bà-Ba-Lệ  mới bảo vua rằng:nhẫn nhục, tinh tiến, tĩnh lự bát-nhã, đây mới gọi là đức của Bà-la-môn; xa lìa tham sân và các sự giết hại tất cả hữu tình, gọi là tướng thứ nhất của Bà-la-môn. Với tất cả tài vật của người khác có mà không tham thọ, gọi là tướng thứ hai của Bà-la-môn. Lìa xa tất cả tính bạo ác, hành ôn hoà, không ? ta, người, lìa bỏ trói buộc và các dục nhiễm, gọi là tướng thứ ba của Bà-la-môn. Với người nữ, thiên nữ cho đến bàng sinh hằng lìa nhiễm trước, gọi là tướng thứ tư của Bà-la-môn.

Lại còn thành thục tất cả hữu tình, hằng khởi tâm bi mẫn; điều phục các căn thanh tịnh tối thắng, gọi là tướng thứ năm của Bà-la-môn.

    Năm loại như thế trọn đều đầy đủ gọi là Bà-la-môn.

    Nếu chấp ngã , không đủ năm tướng đều gọi là Thủ-đà.

    Tiên nhân còn bảo Dụ-Địa-Sắt-Nhĩ-La rằng: không phải chủng tộc, không phải họ và tu khổ hành mà thành Bà-la-môn. Chiên-đà...kia, đủ năm tướng cũng được gọi là Bà-la-môn chân chính.

    Do lý như vậy, Bà-la-môn kia cũng gọi là Thủ-đà, Thủ-đà kia cũng gọi là Bà-la-môn.

    Dụ-Địa-Sắt-Nhĩ-La thưa với tiên nhân rằng: Bà-la-môn kia thực hành không giết, vì thực hành nên được quả thanh tịnh, điều này mới ít phần gọi là Bà-la-môn.

    Tiên nhân lại bảo Dụ-Địa-sắt-Nhĩ-La rằng: Bốn họ khác nhau này, đều do nhân duyên nghiệp quá khứ. Như hữu tình của thế gian lúc bắt đầu sinh, tất cả đều từ nơi căn ô uế mà sinh, có gì khác nhau? Cho nên thực hành giới, lại tu đức nghiệp, gọi là Bà-la-môn; cho đến Thủ-đà-la tu đức hành cũng thành Bà-la-môn.

    Nếu Bà-la-môn không tu đức nghiệp, đây cũng được gọi là Thủ-đà hạ liệt. Lại, năm căn này có thể khởi  nghiệp ác, hằng phải điều phục. Giống như biển lớn, hữu tình chìm đắm phải cầu tế độ, khiến vượt đến bờ kia.

   Lúc bấy giờ vua Dụ-Địa-Sắt-Nhĩ-La nghe tiên nói, hiểu rõ, vui mừng nhảy nhót, đem những điều được nghe hồi hướng đến vô biên hữu tình, trọn khiến hiểu ngộ; không phải vì tự mình và tham mạng sống của mình, tôi nay đêm ngày tu tập nhẫn nhục, lìa xa quyến thuộc và các tật đố, tất cả cảnh dục rốt lại chẳng đam trước; hướng cầu giải thoát , hằng tu tịnh hành.

    Tiên nhân lại bảo vua Dụ-Địa-Sắt-Nhĩ-La rằng: Không giết hữu tình, xa lìa tham sân thanh tịnh không gì sánh, như thế gọi là cái hành của Bà-la-môn. Điều phục các căn, bố thí, nhẫn nhục, chân thật Phạm hành, bi niệm thương xót bảo hộ tất cả hữu tình, tu tập trí tuệ, như thế gọi là cái hành của Bà-la-môn. Lìa khổ hành tà, phải biết các khổ của hữu tình, như thế gọi là cái hành của Bà-la-môn.

    Lại, Bà-la-môn Nga-Dã-Hằng-Lý, trong kinh chú có nói, khổ hành mà lìa chấp, điều phục các cân, bốn thời hành bố thí, ái niệm hữu tình, lìa bỏ ngủ nghỉ, hằng tu tịnh hành; trải qua nghìn kiếp mới được gọi là Bà-la-môn chân chính.

    Tiên nhân lại bảo vua Dụ-Địa-Sắt-Nhĩ-La rằng: nếu người hiểu rõ luận của bốn Vệ-Đà gọi là tộc tính tối thượng thì, tộc tính Thủ-đà-la khác cũng có thể hiểu rõ, sao chẳng gọi là tối thượng?

   Ví như bốn họ cùng đi đến thánh cảnh, vết chân có đó, không thể phân biệt rằng: đây là dấu chân của người này, không phải dấu chân của người kia. Một họ và bốn họ cũng lại như thế, do thi thiết giả, vốn không khác nhau.

    Lại, như hình trâu, ngựa của thế gian, tướng trạng tuy khác, nhưng hai căn nam, nữ cùng loại chẳng khác. Bà-la-môn với Sát-đế-lợi, Tì-xá, Thủ-đà kia,cái tướng một họ với bốn họ cũng vậy.

    Lại, như máu thịt, phân tiểu, tay chân, các căn của một người, với máu thịt...của những người khác, cũng cùng loại như thế.

    Lại, như quang sắc của hoa sen, hoa sát-hằng-lý, mặt trăng, loa ốc có thể phân khác nhau; nơi bốn họ kia sắc tướng không khác, khác nhau như thế nào?

    Lại, như trâu, ngựa cho đến voi,hươu hành dục nhiễm, nhưng không có sự giao phối nào có thể phân khác nhau. Nay Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Tì-xá, Thủ-đà cùng nhau qua lại giao phối mà hành dục nhiễm, đều cùng là thai sinh, có gì khác nhau?

    Lại, như người nữ được sinh bởi Bà-la-môn, đối với chị em cùng tộc tính Bà-la-môn khác, làm sao giao phối; chị em, anh em làm vợ chồng cũng thế. Thủ-đà-la của thế gian không hành pháp này.

    Ví như cây Ưu-đàm-bát trong thế gian, hoa quả, cành lá tuy nhiều nhưng gốc, thân không khác, không thể phân biệt hoa đây, hoa kia. Bà-la-môn các ông cũng lại như thế, không thể giao hợp chị em cùng họ, bị thế gian trách mắng, không thể làm vậy.

    Lại như lìa bỏ thân, ngữ bất tịnh, hằng tu tịnh nghiệp gọi là Bà-la-môn; Tì-xá... kia cũng có thể hành điều ấy, nên được đại tiên tên là Phược-Tư-Sắt-Đà kia.

    Lại, như lửa trong thế gian có thể đốt củi mà chẳng phân biệt, nay Bà-la-môn đối với các họ còn lại cũng chẳng khác như vậy.

    Lại như đại tiên Di-Dã-Bà của tông ông, vốn được sinh bởi người cha đánh cá, cũng không phải là Bà-la-môn sinh.

    Lại, như vua Bán-Nô-Phược, anh em năm người cùng một mẹ sinh, còn cha khác nhau; đây là do nghiệp xưa khiến cùng mẹ khác cha, không phải do tộc tính mà vọng chấp là khác

    Lại, như chỗ nước mặn trong thế gian, hình tuy có thể ẩn nhưng vị mặn chẳng phải không có, nghiệp xưa tùy theo thân mà ẩn hoặc hiển ra cũng như vậy.

    Vọng chấp như thế, những người có trí nên phải thẩm sát ,trọn không thể tin nương. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10668)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17864)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10105)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12268)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11130)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11999)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11883)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10508)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12562)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13022)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11521)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12779)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9763)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19533)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10589)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant