Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Luật Tôn

23 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9453)
4. Luật Tôn

LUẬT TÔN

I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

 Tôn này dùng luật làm chỗ căn cứ, cho nên gọi là Luật tôn. Khi Phật còn ở đời, nhơn gặp các việc mà chế ra các giới luật, tùy thời cơ mà thuyết pháp không nhất định. Sau khi Phật Niết-bàn, ngài Ưu-ba-ly kiết tập, lên pháp tọa đọc tụng đến 80 lần, nên gọi là “Bát thập tụng luật” ; ấy là kỷ nguyên đầu tiên về Luật tạng. Sau đó hơn 100 năm, nhơn sự chia rẽ về các bộ phái của Tiểu thừa, nên luật cũng lần lượt chia ra làm hai bộ phái, cho đến hai mươi bộ phái. Hai bộ phái là: Bộ Thượng tọa và bộ Đại chúng. Năm bộ phái là : 

1.- Bộ Tát-bà-đa, tức là bộ luật “Thập tụng” ; 
2.- Bộ Đàm-vô-đức, tức là bộ luật “Tứ phần” ; 
3.- Bộ Đại chúng tức la bộ luật “Tăng kỳ” ; 
4.- Bộ Di-sa-tắc, tức là bộ luật “Ngũ phần”; 
5.- Bộ Ca-diếp-di, tức là bộ luật “Giải thoát”. 

Trong 5 bộ ấy, ở Trung Hoa chỉ phiên dịchtruyền bá bốn bộ trước mà thôi; đến như bộ Ca-diếp-di thời chỉ truyền những điều căn bổn về giới, chứ chưa truyền những lý nghĩa rộng của Phật. Đời Đường ngài Tri Thủ luật sư chú giải năm bộ luật, học trò của ngài là ngài Đạo Tuyên luật sư ở Chung Nam Sơn, cho bộ Luật tứ phần là thích hiệp với căn cơ người Trung Hoa, nên chuyên môn y theo bộ luật ấy mà thuyết minh giới thể và lập hành tướng; ngoài ra, lại có ngài Pháp Lệ về Hữu tướng bộ, ngài Hoài Tố ở Đông Pháp, đối trí với ngài Chung Nam Sơn, gọi là ba tôn phái về Tứ phần luật; nhưng chỉ luật tôn của ngài Chung Nam Sơn là thạnh hành hơn hết, và truyền bá còn đến bây giờ, vì nó dung hòa cả Đại thừaTiểu thừa, giải hạnh cân nhau vậy.

II.- CHỈ TRÌTÁC TRÌ

 Tôn này giải rõ giới có hai loại là: chỉ trìtác trìChỉ trì là về phương diện ngăn bỏ điều dữ. Tác trì là về phương diện làm các điều lành; chỉ trìtác trì là thâu nhiếp hết thảy giới pháp. Trong Luật tứ phần, hai bộ giới bổn ở trước là chỉ trì, còn một phần sau là thuyết minh 20 kiền độ thuộc về tác trì. Hai bộ giới bổn tức là Tăng bộ và Ni bộ. Tăng bộ tức là những giới luật của thầy Tỳ-kheo; Ni bộ tức là những giới luật của các Tỳ-kheo-ni. Những giới luật của hai bậc ấy, cũng gọi là Cụ-túc giới. Giới luật của các bậc Tỳ-kheo có 250 giới, Tỳ-kheo-ni có 341 giới, thêm bảy điều diệt tránh nữa thời thành ra 348 giới. Kiền độ dịch nghĩa là bộ phận hay là phẩm (phẩm loại), hoặc là tụ, cả thảy có 20 : 1.- Thọ giới kiền độ ; 2.- Thuyết giới kiền độ... cho đến kiền độ thứ 20 là Tạp kiền độ. Tạp nghĩa là nói chung các pháp trong sự giữ giới luật vậy. Nhưng trong “tác” có “chỉ”, trong “chỉ” có “tác”, thường tương thông với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, không thể thiên bỏ bên nào; lại chỉ trìtác trì có tổng, biệt khác nhau, tổng thời các điều lành đều thuộc về hai món trì : chỉ trìtác trì; mà biệt thời chỉ nói riêng về giới luật giải bày từng điều sai khác.

III.- CỤ TÚC GIỚI

 Giới cấm của Tăng Ni đều có ba tầng lớp: giới cấm về bên Tăng nếu nói rộng ra thì vô lượng, như lấy về bậc trung thì có 3.000 oai nghi, 60.000 tế hạnh; còn như nói sơ lược thời có 250 giới. Giới cấm bên Ni cũng vậy, nếu nói rộng ra thì cũng vô lượng, như lấy về bậc trung mà nói thời 80.000 oai nghi, 120.000 tế hạnh, còn nói sơ lược thời 348 giới. Ngài Đạo Tuyên luật sư nói rằng : “Ước cảnh mà giải bày giới tướng, thời là vô lượng, nay chỉ dùng 250 giới làm cái giềng mối cho sự trì, phạm đó thôi”. Giới cấm của các Ni cô cũng vậy. Cho nên Tăng, Ni hai bên sau khi thọ giới Cụ-túc, đều được không lường không ngăn Giới hạnh, lượng sánh như hư không, cảnh khắp pháp giới, thảy đều đầy đủ cho nên gọi là Cụ-túc giới; đến như 5 giới, 8 giới, 10 giới và 6 pháp v.v... đều là ở trong giới Cụ-túc mà lựa ra những điều thiết yếu để tùy theo căn cơhoàn cảnh của mỗi người, khiến cho họ nương theo đó mà lần đến Cụ-túc giới vậy.

IV.- BẢY CHÚNG

 Năm giới là giới của những người tu tại gia - Ưu-bà-tắc (thiện nam), Ưu-bà-di (tín nữ), hai chúng Tám giới (tức là bát trai giới, cũng gọi là bát quan trai), là hai chúng tại gia thọ giới xuất gia trong một ngày một đêm để gieo cái giống chánh nhơn về xuất thếMười giớigiới luật của các bậc Sa-di. Sáu pháp là pháp luật của các trẻ thiếu nam thiếu nữ nhập đạo học pháp, thông thường gọi là “Thất-xoa-ma-na”. Nói tóm lại thì người trì giới, đại khái chia làm bốn bậc: Năm giới, tám giới, mười giới, và Cụ-túc giới, thêm sáu pháp vào thời thành ra năm bậc, cũng gọi la năm loại; bảy chúng trong Phật giáoy theo đó mà kiến lập. Bảy chúng là : Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thất-xoa-ma-na, Sa-di va Sa-di-ni, là năm chúng xuất gia ; Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hai chúng tại gia, hiệp lại gọi là bảy chúng trong Phật pháp.

V.- NĂM GIỚI VÀ TÁM GIỚI

 Giới cấm về Luật tạng rất nhiều, nay chỉ thuật năm giới và tám giới về hai chúng tại gia hầu cho người thấy qua một chút. Năm giới : 1.- Không sát sanh, 2.- Không trộm cắp, 3.- Không tà dâm, 4.- Không nói dối, 5.- Không uống rượu. Bốn điều trước là tự tánh tội, gọi là tánh giới, nghĩa là không luận người tại gia hay xuất gia, hễ phạm các điều ấy, quyết phải sa vào đường tội ác ; còn một giới ở sau là thuộc về điều ngăn ngừa, cho nên gọi là giá tội. Tám giới : Năm giới đầu cùng với năm giới nói trên kia giống nhau, chẳng qua đổi tà dâm là bất dâm, 6.- Không được ướp dầu thơm hay là son phấn, 7.- Không đượi coi hát nghe ca, 8.- Không đượng ngồi giường cao tốt đẹp, 9.- Không được ăn phi thời. Tám giới trước chính là giới luật, còn điều thứ chin không được ăn phi thời (quá ngọ không dùng bữa), chẳng qua là điều răn phụ thuộc, không phi thời gọi là trai, cho nên gọi là bát trai giới, lại gọi là bát quan trai, ý nghĩa là trừ cấm được tám tộI lỗI, không bị hủy phạm, cùng hay đóng chặt cửa tội ác vậy.

VI.- BỐN KHOA

 Giới cấm chia ra làm bốn khoa : 1.- Giới pháp, tức là giới luật của Phật chế ra, như không giết hại, không trộm cắp v.v...; 2.- Giới thể, nghĩa là khi người thọ giới, trong tâm giữ được cái thể tánh công năng ngăn điều quay bỏ điều dữ ; 3.- Giới hạnh, nghĩa là hết thảy hành vi đều thuận theo cái công năng giữ giới trong tâm niệm mình mà hiện ra nơi thân, khẩu, ý ba nghiệp, mỗi mỗi đều không trái phép ; 4.- Giới tướng, nghĩa là nói người trì giới thường biểu lộ ra nói sự tướng, đủ có khuôn phép, oai nghi, khiến người trông thấy đều biết là người trì giới vậy.

VII.- HÓA GIÁO VÀ CHẾ GIÁO

 Tôn này gọi rằng Phật có hóa giáo và chế giáo: Hóa giáo nghĩa là dùng giáo lýhóa độ chúng sinh, tức là những pháp môn về định, huệ, như trong các kinh luận đã nói. Còn chế giáo nghĩa là Phật dùng lời răn cấm để, ngăn ngừa những điều quay của các đệ tử, tức là pháp môn giới học như trong luật tạng đã nói - Pháp Tam vô lậu học (giới, định, huệ) cũng dùng giới cấm làm đầu, vì rằng giới hạnh trong sạch, thời định và huệ mới thành lập, để dứt trừ phiền não, chứng đạo Đại Bồ-đề.

VIII.- VIÊN DUNG TAM HỌC

 Đại thừaTiểu thừa đều có giới, định, huệ, thông thường gọi là pháp tam học. Tôn này gọi là Đại thừa viên dung tam học: vì giới pháp tức là tam tụ tịnh giới: giới thể thời dùng tạng thức chủng tử làm thể: còn giới hạnh tức là hạnh mầu nhiệm về định huệ: giới tướng tức là vận dụng cả chỉ và quán. Chỉ là làm cái thể tướng chỗ tâm thiền định, quán là làm cái công dụnh cho trí huệ, nên giới tức là định huệ, không một pháp nào là không phải định huệ. Định, huệ tức là giới, không một pháp nào là không phải giới cấm; cho nên gọi là viên dung cả pháp tam học vậy.

IX.- TAM TỤ TỊNH GIỚI


Tam tụ tịnh giới

1.- Nhiếp luật nghi giới : nghĩa là các điều dữ thảy đều dứt bỏ. 

2.- Nhiếp thiện pháp giới : nghĩa là các điều lành thảy đều vui theo mà làm. 

3.- Nhiếp chúng sinh giới : nghĩa là đối với hết thảy chúng sinh đều đủ lòng từ bi tế độ, làm sự bố thí lợi ích. Nói rằng tam tụ cũng như nói tam loại (ba loại), ba loại này thông dụng cùng nhau như giới cấm không được giết hại là đủ cả ba loại, vì không giết loài sanh mạng, tức là nhiếp luật nghi giới, nhơn đó mà lòng lành ngày càng thêm lên, ấy là nhiếp thiện pháp giới; đem lòng từ bi không giết hại, lợi ích cho chúng sinh, tức là nhiếp chúng sinh giới. Các giới cấm khác cũng vậy, tùy khi giữ một giới mà ba giới đều đủ, tuy làm một việc mà rộng khắp muôn việc, viên dung không còn chỗ chướng ngại.

 Nhiếp luật nghi giới lại chia ra làm ba loại là biệt giải thoát giới, định cọng giới và đạo cọng giới.

 1.- Biệt giải thoát giới, như là năm giới, tám giới, mười giớicụ túc giới v.v... Nhơn khi tác pháp (khi đối trước Phật, trước các vị Hòa thượngthọ giới) mà giữ đặng giới, mỗi mỗi đều có cái công năng ngăn ngừa điều quấy nơi thân, khẩu, mà mỗi mỗi đều được giải thoát, nên gọi là biệt giải thoát giới.

 2.- Định cọng giới, là trong khi tu tập thiền định, tự đặng vô tác giới thể không để tâm trì giới mà vẫn không phạm giới cùng với định tương ưng, cho nên gọi là định cọng giới.

 3.- Đạo cọng giới, là khi chứng được đạo vô lậu thời được xa lìa những điều tội ác nơi thân, khẩu, mà được giới thể vô tácgiới thể ấy cùng với đạo đồng sanh, cho nên gọi là đạo cọng giới.

 Trong biệt giải thoát giới thời có các giới cấm để giữ về thân, khẩu, ý; hai giới cấm về thân, khẩu, có cọng và bất cọng khác nhau; còn giới cấm về ý nghiệp thời thuộc về bất cọng. Cọng là nói các giới cấm ấy thông cả bậc Thanh văn và Bồ-tát đều phải giữ. Bất cọng là nói gới cấm về ý nghiệp chỉ bậc Bồ-tát giữ mà thôi; cho nên giới cấm của bậc Thanh văn là chỉ có một phần chung thuộc về thân, khẩu. Trong Tứ phần luật nói: Giới tướng cũng thuộc về nghĩa cọng; duy có ngài Đạo Tuyên luật sư chủ trương tứ phần luật cũng có một phần thông về giới cấm của ý nghiệp, nên tôn này dùng nghĩa giới cấm chung cả Tiểu thừaĐại thừa mà nhập vào trong Tam tụ tịnh giới, đem về Đại thừa; ấy là dùng chung giới hạnh của Tiểu thừa đem làm tam tụ viên đốn Đại thừa, chớ không phải ngoài Tiểu thừa mà có hành tướng khác, trọn một pháp viên đốn, ấy là yếu chỉ của Nam sơn Luật tôn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188611)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43770)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25022)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30798)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21015)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38733)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27352)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31079)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33090)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23950)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16959)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20492)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31889)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18076)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20533)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27004)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18034)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25540)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26622)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36559)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28038)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27267)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30316)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37075)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37227)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23857)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32269)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55112)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36887)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27551)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28288)
Công Phu Khuya
(Xem: 37929)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25384)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24122)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11217)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14483)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10611)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant