Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

03 Tháng Mười Hai 201510:32(Xem: 11922)
Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

KINH SAṂYUKTĀGAMA 17:
BỨNG GỐC VÀ BUÔNG BỎ


Nguyên Giác

 Kinh Saṃyuktāgama 17 Bứng Gốc Và Buông Bỏ

 
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.

Trong đó có Kinh Bahiya, dạy rằng “trong cái thấy chỉ là cái được thấy, trong cái nghe chỉ là cái được nghe…” Pháp này trong thơ thiền Việt Nam là, quên hết các pháp và chỉ còn thấy trên đầu một chữ “Như”…

Hay như trong Kinh Khemaka, Đức Phật dạy y hệt Kinh Kim Cang là “ưng vô sở trụ… chớ trụ tâm vào đâu hết…”

Hay như Kinh Kalaka Sutta, dạy chớ dựng lập thấy biết, và Đức Phật nói rằng đó là dạy về pháp "Như" tối thượng, không pháp nào cao hơn.

Hay như Kinh Cetana Sutta, dạy chớ dựng lập ý niệm.

Hôm nay, bài này sẽ khảo sát về lời dạy: hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà chúng ta nhận biết và tiếp cận. Nhưng chớ nghĩ đây là một hình thức hư vô chủ nghĩa, một kiến giải mà  chính Đức Phật đã bác bỏ. và vì chữ Không do Đức Phật tuyên thuyết hoàn toàn xa lìa hai cực có và không.

Tương tự, trong các pháp ngắn gọn đã khảo sát nêu trên, không có nghĩa là xóa bỏ tri kiến hay xóa bỏ ý niệm, chỉ đơn giản là sống với cái tâm khi niệm chưa khởi, khi tri kiến chưa dựng lập, khi không thấy một pháp nào để trụ hay vô-sở-trụ. Nói kiểu các thiền sư xa xưa, khi nghe chỉ là nghe, khi thấy chỉ là thấy, đó là tâm gì? Hay chỉ là vô tâm? Hay là tâm nguyên sơ? Nói gì cũng không trúng, vì qua nhiều bài kinh với nhiều cách tiếp cận, chúng ta thấy ngôn ngữ không nêu chính xác được. Mới biết, Đức Phật tuyệt vời tối thắng, tuyệt vời hy hữu.

*

Kinh sắp nói nơi này, hẳn là dạy cho những vị tăng đã nhiều năm học đạo, vì giới định huệcon đường tất yếu để giải thoát. Trong truyền thống, tu thiền là phải nhiếp tâm, phải nhiếp niệm và phải phòng hộ các căn – nhưng trong kinh này, không dạy nhiếp tâm, không dạy nhiếp niệm, không dạy phòng hộ các căn, chỉ đơn giản dạy là hãy bứng gốc và buông bỏ hết [mọi hiện tướng của thân tâm], và Đức Phật nói rõ đây là giáo pháp ngắn gọn.

Cũng nên ghi rằng, chư tổ Thiền Tông khi dạy pháp buông hết (công án: Tùy tha khứ) vẫn cảnh giác rằng buông bỏ mà chớ nghĩ là Không, thấy biết mà chớ nghĩ là Có...

Trong sách “Kho Báu Nhà Thiền” của Thiền sư Văn Thủ, bản Việt dịch của dịch giả Định Huệ, nơi “Chương 6: Học đạo cần phải nhận đúng như thật” có ghi lời dạy buông hết các pháp, từ Thiền sư Bá Trượng:

“Các ông trước dứt các duyên, bặt hết muôn việc, hết thảy các pháp thiện cùng bất thiện, thế gian cùng xuất thế gian, chớ có ghi nhớ, chớ có nghĩ tưởng, buông xả thân tâm cho nó tự tại, tâm như gỗ đá không còn phân biệt, tâm không dấy niệm, đất tâm không trống không thì mặt trời trí hụê tự hiện. Chỉ cần dứt hết thảy phan duyên tham, sân, ái thủ, tình chấp cấu tịnh sạch hết, đối với ngũ dục, bát phong chẳng động, chẳng bị cái thấy, nghe, hay, biết ràng buộc, chẳng bị các cảnh làm mê lầm thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người giải thoát...”(1)

Trong tác phẩm “Tham Thiên Phổ Thuyết” của Lai Quả Thiền Sư, bản Việt dịch của Thiền Sư Thích Duy Lực, nơi “Chương  10. Lục Căn Khó Nhiếp” có viết về lời dạy buông xả hết thấy nghe hay biết, xin trích:

“LỤC căn là chỉ cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phạm vi của lục căn bất quá ở trên phạm vi thân này sao lại nói khó nhiếp ? Ông muốn nhiếp, ta thì muốn buông. Vì cớ sao ? Vì nhiếp để giữ kín nó lại đó là hại lớn. Chẳng bằng thấy có tướng thì buông xả cái thấy, nghe có tiếng thì buông xả cái nghe, bốn căn kia cũng như thế. Người hành đạo trước tiên quên thấy quên nghe, kế đến tịnh thân tâm, chẳng những lục căn, lục trần được buông xả, mà lục thức theo đó cũng dừng. Thường thấy người trụ Tòng lâm đầu thân, tay chân cứng như cây khô, đi như người gỗ, ngồi như ông Địa, đây tuy chẳng hay, song so với người phóng đãng thì tốt gấp muôn lần. Như thế, chẳng qua chỉ là mắt nhắm không liếc ngó, nhưng bên trong còn động, hễ con ngươi chợt nhìn liền bị tướng lôi; tai dù không nghe, hễ đầu bỗng lay động liền bị tiếng thâu. Cách hành như thế thì đâu có nhiếp được các căn.

 Cách nhiếp chân chánh ví dụ như: Một cái phòng xung quanh có sáu cửa sổ, trong đốt một ngọn đèn thì ánh sáng từ sáu cửa chiếu ra ngoài. Muốn trừ bỏ một cửa thì dùng vải bố che lại ắt một cửa tự tối. Dùng vải che dụ cho giữ con mắt không cho nhìn bên ngoài. Muốn trừ bỏ cửa thứ hai, cũng dùng vải che, vải che tức là giữ cái tai không cho nghe bên ngoài. Bốn cửa kia cũng vậy. Cách hành như thế tạm nhiếp thì được, song chưa phải là hạnh đốn (đốn ngộ). Cách hành của Thiền tông không cần đóng sáu cửa sổ, trước tiên bỏ ngọn đèn ở giữa phòng, kế đến dẹp luôn cả cái phòng, chẳng những lục căn, lục trần tự không, lục thức cũng tự xa lìa. Thực ra không cần dẹp bỏ, đèn và phòng đều tự tiêu tan. Thử hỏi: “Hồ ly tinh (ý thức phân biệt) nay đâu còn chỗ dấu thân nữa?”. Vậy cái đạo của thiền tông trước tiên dùng nghi tình hàng phục tâm, tâm quên thì trong ngoài đều quên, chẳng đóng mà tự đóng, chẳng nhiếp mà tự nhiếp, thật chẳng đúng ư...”(2)

*

Sau đây là bản Anh dịch Kinh Saṃyuktāgama 17 của Bhikkhu Bodhi. Các chữ trong ngoặc đơn () là do Nguyên Giác ghi chú để làm rõ nghĩa.

17. Discourse on Not Belonging to Oneself

Thus have I heard. At one time the Buddha was staying at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. A certain monk rose from his seat, bared his right shoulder and with palms together said to the Buddha:

“It would be well if the Blessed One would teach me the essentials of the Dharma in brief. On having heard the Dharma I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence I shall reflect on that for whose sake a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of faith going forth from the home to homelessness for the unsurpassed supreme holy life, realizing here and now that ‘birth for me has been eradicated, the holy life has been established, what had to be done has been done, I myself know that there will be no receiving of further existence.’”

Kinh Saṃyuktāgama 17: Kinh về không thuộc về chính mình

Như vầy tôi nghe. Một thời, Đức Phật ở thành Xá Vệ, trong rừng Jeta, vườn Cấp Cô Độc. Một vị tăng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai bên phải, chắp tay bạch Đức Phật:

“Con xin cung thỉnh Đức Phật dạy con Pháp tinh yếu ngắn gọn. Khi nghe pháp xong, con sẽ tìm về nơi vắng lặng, ở một mình, thực hành pháp này nhiệt tâm. Con sẽ hành pháp này tinh cần, con sẽ suy nghĩ rằng vì pháp đó mà con trai của một tộc họ xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, với tín tâm rời nhà để sống đời không nhà vì thánh hạnh tối thượng, chứng ngộ nơi đây và bây giờ rằng “sanh đã kết thúc với con, đời sống bậc thánh đã dựng lập, những gì phải làm đã làm xong, tự con biết là sẽ không còn tái sanh nữa.”

At that time the Blessed One said to that monk: “It is well, it is well, that you speak like this: ‘Blessed One, teach me the essentials of the Dharma in brief. On having been taught the Dharma herein in brief and fully understood its meaning, I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence … up to … knowing myself that there will be no receiving of further existence.’ Are you speaking like this?” The monk said to the Buddha: “It is like this, Blessed One.”

Lúc đó, Đức Phật nói với vị sư đó: “Tốt lắm, tốt lắm, khi con nói thế này, ‘Bạch Đức Phật, hãy dạy con tinh yếu của Pháp ngắn gọn. Khi được dạy Pháp ngắn gọn xong, và hiểu đầy đủ nghĩa, con sẽ về độc cư nơi vắng lặng, hành pháp này tinh tấn. Dựng lập [tự thân] trong pháp đó không lui sụt... tới khi... tự biết rằng sẽ không tái sanh nữa.’ Con nói như thế, có đúng không?” Vị tăng nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, đúng là như thế.”

The Buddha said to the monk: “Listen, listen and pay careful attention to what I will tell you. Monk, whatever things do not belong to you, they should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated those things will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.” Then the monk said to the Buddha: “I understood, Blessed One, I understood Well Gone One!”

Đức Phật nói với vị sư: “Hãy nghe, hãy nghe và hãy chú tâm vào những gì thầy sẽ nói với con. Tỳ kheo ơi, bất cứ những gì không thuộc về con, chúng nên nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc những thứ đó sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.” Rồi vị sư đó nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, con hiểu rồi, con đã hiểu Như Lai!”

The Buddha said to the monk: “How do you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief?” The monk said to the Buddha: “Blessed One, bodily form does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. Feeling … perception … formations … consciousness does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. This will be for my benefit and welfare, for my peace for a long time. Blessed One, I thus understand in full the meaning of the teaching herein spoken in brief.”

Đức Phật nói với vị sư: “Con hiểu thế nào về nghĩa đầy đủ giáo pháp ngắn gọn thầy vừa nói?” Vị sư nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, sắc thân hình hài không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Thọ (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với cảm thọ)... tưởng (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với tri kiến về sắc, thanh, hương, vị...)... hành (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với hành, là khi tâm khởi lên lựa chọn, lượng định sau khi tri kiến đã dựng lập với tưởng)... thức (ý thức khởi lên khi 6 căn gặp 6 trần) không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ.  Như thế sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài. Bạch Đức Phật, con đã hiểu nghĩa đầy đủ như thế giáo pháp ngắn gọn vừa tuyên  thuyết.”

The Buddha said to the monk: “It is well, it is well, monk, that you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief. Why is that? Bodily form does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. In the same way feeling … perception … formations … consciousness does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated and relinquished it will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.

Đức Phật nói với vị sư: “Tốt lắm, tốt lắm, tỳ kheo, rằng con đã hiểu đầy đủ nghĩa giáo pháp thầy nói ngắn gọn. Sao lại như thế? Sắc thân hình hài không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Tương tự, thọ... tưởng... hành... thức không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc và buông bỏ nó, sẽ là lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.

Then, on hearing what the Buddha had said, the mind of that monk was greatly delighted. He paid homage to the Buddha and withdrew. Practising alone in a quiet place with diligence he was established in being without negligence. Having practiced with diligence and being established in being without negligence he was able to reflect on that for the sake of what a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of right faith going forth to homelessness … up to … he himself knew that there will be no receiving of further existence.’ Then that monk became an arahant, attaining liberation of the mind. (3)

Rồi thì, khi nghe Đức Phật nói xong, tâm của vị sư đó rất mực hoan hỷ. Vị sư đảnh lễ Đức Phật và lui ra. Thực hành đơn độc trong nơi vắng vẻ, với tinh tấn, vị sư an lập trong pháp này không biếng trễ. Thực hành với tinh tấn, và an lập trong pháp này không biếng trễ, vị sư chiêm nghiệm về những gì mà đứa con trai của gia tộc xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, tín tâm sống hạnh không nhà... tới khi... chính vị sư này biết rằng sẽ không còn nhận thân sau nào nữa.’ Rồi thì, vị sư đó trở thành một A La Hán, thành tụu giải thoát tâm.


Nguyên Giác

(1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a14958/kho-bau-nha-thien

(2) Xem: http://www.tosuthien.com/kinh-sach/tham-thien-pho-thuyet/tham-thien-pho-thuyet-quyen-thuong/10-luc-can-kho-nhiep

(3) Xem: https://suttacentral.net/en/sa17

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16018)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15026)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18951)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14445)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18627)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14427)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13584)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13548)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11816)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13253)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13650)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13935)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13247)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15024)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16159)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16449)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11903)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17591)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12873)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13703)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12858)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14854)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16382)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13125)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12082)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12772)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12906)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12769)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14173)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14109)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16471)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12376)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14379)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11307)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11025)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13190)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13889)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13156)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12998)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13501)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10220)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16264)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11963)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12970)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11643)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12669)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10794)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10933)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11065)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12613)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11319)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12508)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant