Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Một Trăm Bài Tụng được các Hiền Thành kết tập từ Kinh

21 Tháng Ba 201621:04(Xem: 17887)
Một Trăm Bài Tụng được các Hiền Thành kết tập từ Kinh
MỘT TRĂM BÀI TỤNG
ĐƯỢC CÁC HIỀN THÁNH KẾT TẬP TỪ KINH

 Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh,
quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686.

Tây Thiên dịch kinh Triêu Tán Đại Phu Thí Hồng Lô,
Thiếu Khanh Minh Giáo Đại Sư Thần Thiên Tức Tai phụng chiếu dịch Phạn-Hán.
Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác,
Hannover Đức quốc dịch Hán- Việt ngày  04.09.2007 tại Hannover.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 21 tháng 3 năm 2016.


      Kính lễ tất cả xuất thế gian

      Biển công đức tối tôn ba cõi,

      Lửa trí hay thiêu phiền não nhơ

      Chính Giác, con nay quy mạng lễ.

      Kính lễ hay cứu hiểm sinh tử

      Cạn khắp biển ưu não tham si,

      Phá núi trần lao tội nghiệp kia

      Con nay quy mạng báu Diệu Pháp.

      Kính lễ tất cả Phật xưng tán

      Bát thánh đạo thật hành trang nghiêm

      Thiền định vô vi dần tròn sáng

      Con nay quy mạng báu Thánh Chúng.   

      Tạng báu trong cung, các lầu gác

      Vàng, ngọc, ma-ni đủ loại quang

      Trân châu, lưu ly khắp trang nghiêm

      Trăm nghìn Trời, Người thường chiêm ngưỡng.   

      Nếu được ở an trên cõi Trời

      Là quả báo trang nghiêm chùa Phật;

      Tín tâm quy kính nơi Tam Bảo

      Cấp thí tài, vải trong tinh xá,

      Thọ khoái lạc trời người kia rồi

      Sẽ được quả Niết-bàn tịch diệt.

      Tinh xá lâu năm nhiều hư hoại

      Sửa lại, trang nghiêm cúng Phật, Tăng

      Thường được khoái lạc cõi trời, người

      Cũng được quả Niết-bàn tịch diệt.

      Nếu nơi tinh xá cúng vườn rừng,

      Tọa cụ, y phục và thuốc thang,

      Lại gặp lúc ác nạn đói khát

      Bố thí chúng sinh đồ uống ăn

      Như thế sẽ được phúc vô biên

      Và được Bảy Thánh Tài bậc trí,

      Tiêu trừ tất cả khổ ác đạo,

      Thọ đại phúc mãi vô cùng tận.

      Chỗ chư Phật Như Lai đi, ở

      Nếu người đến rồi sinh cung kính

      Phụng sự, cúng dường, kiêm nghe pháp,

      Tin sâu, tu học, y giới hành

      Sẽ được quả rộng lớn vô biên,

      Như biển lớn vô cùng sâu rộng

      Lấy vật đo lường không thể được

      Phúc đức rộng lớn cũng như vậy.

      Nếu ai kiến tạo điện thờ Phật

      Nóng, lạnh, gió, mưa chẳng vào lọt,

    Đắc được pháp tịch tĩnh tối thắng,

    Viên mãn tất cả tùy ý nguyện.

    Nếu ai tạc hoặc vẽ tượng Phật

    Được giải thoát ưu não, tật bệnh,

    Sau được sinh Thiên, thân thắng diệu,

    Trí lớn, cát tường và tôn quý.

    Nếu ai sửa chữa lại tượng Phật

    Sẽ được thân chắc chắn, không bệnh,

    Sống lâu, mạnh khoẻ, các tướng tốt,

    Sau được vui Niết-bàn tịch tịnh,

    Ưu não, tranh tụng đều diệt trừ,

    Dũng mãnh, biện tài người ca ngợi,

    Điều phục các căn mà sách tấn,

    Tất cả trang nghiêm, được chúng kính.

    Nếu ai tu bổ các tượng Phật

    Xa lìa lầm lỗi được sinh Thiên,

    Giầu có, đoan nghiêm được kính phục,

    Tất cả phúc đức đều đầy đủ.

    Tháp miếu hư hoại nếu sửa sang

    Người ấy không bệnh, thân viên mãn,

    Tất cả quả thế gian đáng yêu

    Tùy tâm đủ loại đều đầy đủ.                      

    Nếu tạo tượng Phật và tháp Phật

    Hình lượng nhỏ đến như hạt gạo,

    Không chỉ trên Trời hay cõi Người

    Quyết định làm vua thọ khoái lạc,

    Sinh cõi Sắc, Vô sắc cũng vậy,

    Phú quý vô biên chẳng thể lường,

    Sẽ lìa khổ sinh, lão, bệnh, tử

    Rốt ráo tròn quả Phật Bồ-Đề.

    Nếu trong tháp miếu để xá-lợi

    Và vẽ tượng Phậtcúng dường

    Được ánh sáng trí suốt đại địa

    Tịnh diệu Thiện Thệ phú quý Phật,

    An trụ vô biên chúng sinh giới

    Cùng vào tính vô tướng bình đẳng.

    Nếu trên ngọn núi chỗ an tịnh

    An trí tháp Phật và Luân tướng

    Hình lượng chỉ chừng đốt ngón tay

    Sẽ sinh trong tất cả Trời, Người

    Đoan nghiêm, phúc lớn, mạnh khoẻ, an,

    Sau làm Thiên tử Tam Thập Tam.

    Nếu ai dùng tay mở tháp Phật

    Sẽ được giàu sang và đầy đủ,

    Thân thể sáng sạch tâm nhu nhuyến,

    Biết nhiều, tính tịnh, không sân mạn.

    Nếu người trí hành bố thí độ

    Cúng Phật hương xoa và bạch đàn,

    Dâng đủ loại hương như Câu-ma…

    Sẽ được quả đáng yêu rộng lớn.

   Nếu ai tin Phật sinh hoan hỉ

   Đem diệu hương, hoa và âm nhạc

   Đủ loại cúng dường Phật Như Lai

   Sinh cõi trời, cảm ao vàng báu,

   Dùng hương diệu nhị hoa trong ao

   Thấm khắp toàn thân mà tắm gội,

   Nước Mạn-na Cát-nhĩ thanh tịnh

   Vào rồi trần cấu tự nhiên trừ,

   Sóng dâng dòng mạnh phun hương lạnh,

   Bờ báu sen hồng nở khắp cùng

   Chư thiên nhìn thấy đều vui thích,

   Cấp thí Phật, Tăng được báo này.

   Công đức như thế không thể lượng

   Cho nên cuối các kinh tụng tán.

 

   Y đẹp, đồ mặc tốt

   Cúng Phật và cúng Tăng,

   Sau khi sinh cõi Trời    

   Thiên y hương tối thượng,

   Đủ loại sắc xanh, vàng

   Trăm nghìn báu ma-ni

   Dùng để làm trang nghiêm

   Giàu sang thật vô lượng,

   Khoái lạc cũng vô biên

   Được quả thắng diệu này.

   Ai sinh trong thế gian

   Mà được làm quốc vương

   Đầy đủ các sắc tướng

   Y lụa thêu thượng diệu,

   Đủ loại hương thù thắng

   Tùy thân thường thọ dụng,

   Đều vì cúng y Phật

   Thành tựu báo như thế.

   Nếu ai sinh cõi trời

   Đủ loại báu trang nghiêm

   Thân mang châu, anh lạc,

   Đầu đội mũ ngọc báu,

   Khuyên tai và vòng tay,

   Khoái lạc giàu như thế,

   Cúng Phật đồ trang nghiêm

   Được quả trời thắng diệu.

   Nếu làm quốc vương lớn,

   Tướng thân rộng nghiêm sức

   Anh lạc châu ma-ni,

   Âm thanh ngọc vang cao,

   Cũng là ruộng Tam Bảo

   Bố thí đồ trang nghiêm.

   Người trí tâm thanh tịnh

   Cúng Phật các vòng hoa…

   Trên trời, trong cõi người

    Thường được các khoái lạc,

    Sau sinh trong hậu báo.

    Thành tựu hoa Thất Giác,

    Lại sinh thiên sơn địa

    Mà làm Đế-Thích chủ

    Cùng với các quyến thuộc

    Du hí nơi vườn rừng,

    Đủ loại hoa cúng dường

    Mà được quả như thế.

    Báu lưu ly, trân châu

    Các vàng, bạc xanh, vàng

    Trang nghiêm nơi tán lọng

    Tròn trịa như trăng rằm,

    Hoặc vua hoặc đại thần

    Dùng che trên đỉnh đầu,

    Như Phật nói, nhân này

    Thí lọng được báo ấy

    Giải thoát não tham ái,

    Không bệnh, luôn an lạc,

    Lại làm vua thế gian

    Cũng là quả thí lọng.

    Nếu nơi tháp miếu Phật

    Bố thí những tràng phan

    Sẽ làm Thiên Luân Vương

    Thế gian không ai hơn,

    Lìa xa tất cả tội,

    Ở trong các chúng sinh

    Mà làm bậc thượng thủ,

    Thường được người cúng dường.

    Nếu ai nơi tháp miếu

    Cúng thí các chuông linh,

    Không sinh nơi tội báo ,

    Thường được âm thanh Phạm.

    Nếu ai làm âm nhạc

    Đàn cầm, trống với sáo

    Cúng dường Phật, Thánh Hiền

    Khiến nghe tâm vui thích

    Sẽ được căn thiên nhĩ,

    Trang nghiêm thường thanh tịnh,

    Lại được tuệ kim cang

    Phá tan núi phiền não.

    Nếu phát tâm tin vui,

    Dùng diệu sắc, hương, vị

    Đủ loại uống ăn ngon

    Cúng dường lên chư Phật,

    Sẽ sinh trong cõi Trời

    Quyến thuộc cùng tòa báu,

    Dùng bảo khí ma-ni,

    Ăn cỗ trời vi diệu,

    Kiếp đao binh, đói khát

     Sẽ vĩnh không sinh vào

     Nếu ai dùng uống ăn

     Cúng dường các Thánh hiền,

     Sẽ sinh trong Trời, Người

     Thức ngon thường sung túc

     Đủ loại mà tối thượng.

     Người trí luôn ái kính

     Dùng đồ ăn mỹ diệu

     Cúng thí người xuất gia,

     Thường được thân giàu, vui,

     Biện tài và sống lâu

     Khoẻ mạnh, tướng đầy đủ

     Quả thí thực như vậy.

     Nếu dùng tâm từ mẫn

     Cúng thí nước ngon ngọt

     Cùng tô, sữa, lạc, tương

     Khiến người đang khát kia

     Uống rồi được an lạc,

     Cũng được quả như trước.

     Nếu lấy A-lê-lặc

     Các cỏ thuốc, lâm-đằng

     Cúng thí cho Thánh hiền,

     Sẽ sinh trong Trời, Người

     Không bệnh mà sống lâu,

     Thường được thân an lạc;

     Lại, người thí nước uống

     Sau được sinh Thiên cung

     Kiếp thọ, hoa cỏ tốt,

     Mong cầu tùy ý được,

     Đồ báu đựng rượu ngọt

     Cùng quyến thuộc chung uống,

     Lại nữa nơi kiếp thọ

     Sinh ra đồ trang nghiêm

     Hát ca các thiên nhạc

     Khiến tâm thiên chúng vui,

     Cam lộ lại theo thân,

     Thí uống được báo này.

     Nếu ai cúng trai thực

     Sẽ được sinh Trời, Người

     Xa lìa khỏi nghèo hèn

     Sống lâu, đủ tiền, báu.

     Nếu dùng các voi, ngựa

     Xe cưỡi và xe kéo

     Cúng thí Phật Như Lai

     Sẽ được thần thông lớn.

     Nếu thí giầy dép thảy

     Thường sinh dòng tộc cao,

     Thường có xe voi, ngựa,

     Vĩnh lìa khổ nghèo hèn.

     Nếu sư trưởng…có bệnh

     Nếu ai vui hầu hạ,

     Sẽ ở tất cả chỗ

     Mong cầu đều thành tựu.

     Nếu cúng thí tọa cụ,

     Sẽ sinh trên cõi trời,

     Chẳng thọ khổ lao nhọc,

     Thường ngồi chỗ thượng diệu.

     Sắp đặt đồ nằm cúng

     Sinh Thiên thường khoái lạc,

     Thân tướng rộng, ngay thẳng,

     Không sợ, người ngợi ca.

     Trồng trọt vườn rừng tạp

     Trang hoàng các phòng nhà

     Cho người, khiến ở, đi

     Thân tâm sinh vui thích,

     Sẽ cảm vườn Hoan Hỉ,

     Chỗ du hành Trời, Người

     Cùng với các Thiên nữ

     Vui chơi, thọ khoái lạc.

     Nếu trong lúc nóng bức

     Mà làm bóng mát thí

     Sẽ cảm cây Ưu-Đàm,

     Ni- câu và Bồ-đề,

     Sau lại được sinh Thiên

     Thường thọ vui năm dục.

     Giếng, suối và ao, hồ

     Khiến khắp đều đầy đủ

     Hậu báo được sinh Thiên,

     Hoặc sinh nơi Phạm Thế,

     Hưởng đủ loại khoái lạc,

     Lại chứng quả tịch tịnh.

     Nếu dùng bát-đa-la

     Cúng dường lên Tam Bảo

     Sẽ sinh tất cả chỗ

     Giàu sang mà khoái lạc,

     Ở trong thế gian kia

     Đức tôn cao tối thượng,

     Lại cảm các chúng sinh

     Luôn luôn thường cúng dường.

     Người trí nếu thí dao

     Sẽ được sinh cõi Trời,

     Vĩnh chẳng gặp đao binh.

     Nếu ai cúng thí kim

     Trí tuệ thường sắc bén

     Đoạn được các phiền não,

     Chứng đạo tịch tĩnh kia.

     Phật nói, nếu có ai

     Đắp và vẽ tượng Phật,

     Sinh ở trong cõi Trời,

     Thân thể sắc vàng ròng,

    Sáng trong như mặt trời,

    Mà các chúng Trời, Người

    Chư thiên chúng nam, nữ

    Luôn luôn thường quy mạng.

    Nếu người trí tuệ kia

    Khéo nói được pháp thí

    Sinh trên Trời, cõi Người,

    Đầy đủ lực trí, đức,

    Thường hưởng các khoái lạc,

    Vĩnh lìa khổ ưu bi,

    Nơi thân sau rốt kia

    Chứng được đạo tịch tĩnh.

    Nếu các hữu tình kia

    Biên chép báu diệu pháp

    Sẽ được trí Túc Mạng,

    Giầu sang, luôn an lạc,

    Mà diệt tất cả tội,

    Trải qua câu-chi kiếp

    Không rơi vào địa ngục

    Và ngạ quỷ, súc sinh.

    Nếu người có trí kia

    Quét rửa lập đàn tràng,

    Nhiễu vòng, rải hoa hương

    Hằng thời mà cúng dường,

    Sau sinh trong cõi Người

    Và sinh trên cõi Trời,

    Thường được hưởng giàu sang,

    Sau chứng được tịch diệt.

    Nếu dùng đèn sáng lâu

    Cúng dường Phật, Hiền Thánh,

    Sinh trong cõi Trời, Người

    Ba mắt thường thanh tịnh:

    Pháp nhãnThiên nhãn,

    Cùng với nhục nhãn vậy;

    Lại, người thí đèn kia

    Thường được sinh cõi Trời,

    Miệng cũng không câm, ngọng

    Tai, mắt chẳng điếc, mù;

    Lại, người thí đèn kia

    Không chỉ ba mắt tịnh

    Có thể pháp chính giác

    Tất cả đều thông đạt.

    Người trí nếu thí tài

    Cúng dường chúng có đức,

    Sa-môn, Bà-la-môn,

    Thí ít được nhiều quả,

    Rộng được tài thuận đạo,

    Dài lâu mà thọ dụng;

    Lại, người hành bố thí

    Thí súc sinh đồ ăn,

    Phúc đức thu hoạch được

    Thành gấp cả trăm lần.

    Nếu dùng tài, thức ăn

    Bố thí cho người tội,

    Công đức lần gia tăng

    Được phúc nghìn lần hơn;

    Nếu thí người trì giới

    Phúc trăm nghìn lần hơn;

    Cúng dường bậc vô tâm

    Được lợi trăm câu-chi.

    Nếu ai thí Hữu học

    Và bậc Vô Học kia,

    Phúc đức thu hoạch được

    So trước lại hơn nhiều.

    Nếu thí Phật Như Lai,

    Sẽ sinh trên cõi Trời,

    Phúc lớn mãi không hết,

    Luôn hưởng các khoái lạc,

    Cho đến hết luân hồi

    Mà chứng pháp tịch tĩnh.

    Con tập đây tất cả

    Kinh Già-đà Phật nói,

    Lược nói về phúc báo

    Khiến khắp sinh tin nhận.

    Giả sử nghìn mặt trời

    Cát tường chiếu đại địa,

    Trong đêm ánh trăng tròn

    Làm nở hoa sen xanh,

    Thủy thiên Tì-Sa-Môn,

    Đế-Thích, Na-La-Diên,

    Các Chư thiên thượng thủ

    Đều vì hành thí được.

    Mặt trời đi trong không

    Chiếu khắp cả trên dưới

    Làm sống các vật, mạng.

    Đến lúc cũng vô thường.

    Đế-Thích, Tứ Thiên Vương

    Cùng với các Thiên chúng

    Khi phúc thọ hết rồi

    Phải vào miệng chết oán,

    Lửa ưu, bi, khổ não

    Bị lửa thiêu, chẳng trụ.

    Cho nên khuyên các người

    Quán sát thân vô thường,

    Lìa xa tâm khát dục,   

    Chớ ham vui Trời, Người,

    Chốc lát chẳng dài lâu

    Đều quy về tán hoại.

    Con phát tâm tịnh tín

    Lìa bỏ vui hư huyễn,

    Thường đến ở trước Phật

    Chắp tay mà gần gũi

    Vì tự đại Bồ-đề

    Mà làm giải thoát chủ.

 


 HẾT

                            

Sửa bản in ngày 21/3/2016: Thanh Phi

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11930)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11334)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12058)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12549)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10757)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17968)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10165)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12345)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11230)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14319)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12089)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15346)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11992)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12388)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11155)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12073)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10598)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12548)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13155)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14801)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12663)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16539)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19632)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13101)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12648)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12249)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11830)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10893)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13490)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11937)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11836)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12755)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15653)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12886)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9855)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18004)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11151)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12169)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13034)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10290)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12177)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15288)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16585)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12203)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14261)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19685)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14137)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24587)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10676)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12483)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant