Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Công Đức Tắm Phật

27 Tháng Ba 201613:42(Xem: 13192)
Kinh Công Đức Tắm Phật
KINH CÔNG ĐỨC TẮM PHẬT

Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Nghĩa Tịnh (635-713)
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

Kinh Công Đức Tắm Phật

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá.

Ngoài ra còn có vô lượng vô biên chư đại Bồ-tát và thiên long bát bộ thảy đều đến vân tập.

Lúc bấy giờ Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát đang ngồi ở giữa đại chúng.

thương xót các chúng sinh, ngài tư duy như vầy:

"Do bởi nhân duyên gì mà chư Phật Như Lai được thân thanh tịnh và đầy đủ tướng hảo?"

Lại nghĩ như vầy:

"Tất cả chúng sinh khi gặp Như Lai và thân cận cúng dường, họ sẽ được vô lượng vô biên phúc báo. Tuy nhiên, ta vẫn không biết sau khi Như Lai vào Cứu Cánh Tịch Diệt, chúng sinh phải cúng dường như thế nào và tu công đức ra sao để khiến căn lành của họ nhanh có thể đạt tới Đạo vô thượng?"

Khi nghĩ như thế xong, ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, đỉnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, rồi quỳ hai gối, chắp tay, và bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Con có việc muốn thưa hỏi. Kính mong Như Lai cho phép."

Đức Phật bảo:

"Thiện nam tử! Ông hãy cứ hỏi. Ta sẽ tùy theo điều ông hỏi mà thuyết giảng cho."

Lúc bấy giờ Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Chư Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Chính Giác, do bởi nhân duyên gì mà được thân thanh tịnh và đầy đủ tướng hảo?

Lại nữa, tất cả chúng sinh khi gặp Như Lai và thân cận cúng dường, họ sẽ được vô lượng vô biên phúc báo. Tuy nhiên, con vẫn không biết sau khi Như Lai vào Cứu Cánh Tịch Diệt, chúng sinh phải cúng dường như thế nào và tu công đức ra sao để khiến căn lành của họ nhanh có thể đạt tới Đạo vô thượng?"

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát:

"Lành thay, lành thay! Ông vì chúng sinh đời vị lai mà có thể hỏi Ta việc như thế. Ông nay lắng nghe, hãy khéo tư duy, và thực hành theo lời Phật dạy. Ta sẽ phân biệtgiảng giải cho ông."

Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát thưa rằng:

"Dạ vâng, thưa Thế Tôn! Con vui thích muốn nghe."

Phật bảo Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát:

"Thiện nam tử! Ông phải biết rằng, do bởi bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, từ bi hỷ xả, giải thoát, giải thoát tri kiến, Mười Lực, Bốn Vô Úy, tất cả Phật Pháp, và Nhất Thiết Chủng Trí của Như Lai đều chí thiện và thanh tịnh nên Như Lai được thân thanh tịnh.

Nếu ai với tâm thanh tịnh và làm muôn sự cúng dường cho chư Phật Như Lai--họ dâng hương hoa, xâu chuỗi anh lạc, tràng phan lọng che, và an trí giường nệm ở trước Phật cùng các đồ vật để trang nghiêm xung quanh; lấy nước thơm thượng diệu để tắm rửa Tôn tượng; thắp lên những nén hương và vận ý khởi tưởng mùi hương đó xông khắp Pháp Giới; dâng cúng thức ăn nước uống; lại dùng âm nhạc ca vịnhtán thán công đức tối thắng của Như Lai; phát lời thệ nguyện thù thắnghồi hướng đến vô thượng biển Nhất Thiết Trí--thì công đức có được là vô lượng vô biêntương tục mãi cho đến khi thành Phật.

Vì sao thế? Bởi phúc trí của Như Lai là chẳng thể nghĩ bàn, vô lượng vô số, và không ai có thể sánh bằng.

Thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn đều trọn đủ Ba Thân. Đó là Pháp thân, báo thân, và hóa thân. Sau khi Ta vào tịch diệt, nếu ai muốn cúng dường Ba Thân này thì họ nên cúng dường xá-lợi của Ta.

Nhưng xá-lợi có hai loại:

Thân cốt xá-lợi
Pháp tụng xá-lợi"

Đức Phật liền nói kệ rằng:

"Các pháp từ duyên khởi
Như Lai nói nhân này
Pháp kia nhân duyên tận
đại Đạo Nhân thuyết

Nếu thiện nam tín nữ và năm chúng đệ tử xuất gia nào muốn tạo tượng Phật, hoặc những ai không sức mà muốn đóng góp chút ít, cho đến chỉ lớn bằng hạt lúa tẻ, hoặc xây một cái tháp chỉ lớn bằng quả táo, cột trụ nhỏ như cây kim, mái che nhỏ như vỏ trấu, xá-lợi nhỏ như hạt cải, hoặc biên chép bài Pháp tụng và đặt ở trong tháp đó, thì cũng như lấy kỳ trân dị bảo mà làm cúng dường. Hãy làm theo khả năng của mỗi người và nếu có thể chí thành cung kính thì cũng như chính Ta hiện thân không khác.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh nào mà có thể làm các sự cúng dường như thế, thì sẽ thành tựu 15 loại công đức thù thắng để tự trang nghiêm nơi thân:

Luôn biết hổ thẹn.
Phát khởi tín tâm thanh tịnh.
Lòng dạ ngay thẳng.
Gần gũi bạn lành.
Nhập trí tuệ vô lậu.
Thường thấy chư Phật.
Luôn thọ trì Chính Pháp.
Có thể thực hành theo lời dạy.
Tùy ý vãng sinh vào quốc độ thanh tịnh của chư Phật.
Nếu sinh trong hàng người thì sẽ sinh trong gia đình tôn quý giàu sang, được mọi người cung kính, và ai thấy cũng đều hoan hỷ.
Khi sinh ở nhân gian thì tự nhiên sẽ luôn tưởng nhớ Phật.
Bè lũ của ma quân không thể tổn hạinão loạn.
Có thể hộ trì Chính Pháp ở trong thời Mạt Pháp.
Được mười phương chư Phật gia hộ.
Sớm được thành tựu năm phần Pháp thân."

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

"Sau khi Ta diệt độ
Xá-lợi muốn cúng dường
Thì hãy xây dựng tháp
Và đặt tượng Như Lai

Tại nơi tượng tháp kia
Tô vẽ Pháp đàn tràng
Dùng muôn loại hương hoa
Rải lên ở trên đó

Lấy nước thơm tịnh diệu
Tắm gội vào tượng Phật
Các ẩm thực thượng vị
Mang hết dâng cúng dường

Tán thán Phật công đức
Vô lượng chẳng nghĩ bàn
Phương tiện trí thần thông
Sẽ nhanh qua bờ kia

Chứng đắc thân kim cang
Đầy đủ ba hai tướng
Với tám mươi vẻ đẹp
Cứu độ các chúng sinh"

Khi Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát nghe bài kệ này xong, ngài bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Chúng sinhđời sau cần phải tắm tượng như thế nào?"

Phật bảo Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát:

"Các ông cần phải khởi chính niệm đối với Như Lai, đừng chấp thường chấp đoạn, hoặc mê muội nơi có và không. Ở trong các Pháp lành, hãy khát ngưỡng và không nhàm chán, được vào ba môn giải thoát, khéo tu tập trí tuệ, luôn mong muốn ra khỏi ba cõi và chớ trụ nơi sinh tử. Lại đối với chúng sinh mà khởi lòng từ bi rộng lớn và nguyện sẽ nhanh được thành tựu Ba Thân.

Thiện nam tử! Ta đã thuyết giảng Bốn Thánh Đế, Mười Hai Nhân Duyên, và Sáu Độ cho ông. Bây giờ Ta lại vì ông cùng các quốc vương, vương hậu, vương phi, vương tử, đại thần, cung nữ ở hậu cung, trời, rồng, người, và quỷ thần mà chỉ dạy phương pháp tắm tượng. Trong các sự cúng dường, tắm tượng là đệ nhất và vượt hơn việc lấy bảy báu nhiều như cát sông Hằng để bố thí.

Khi tắm tượng, hãy lấy các loại hương, như là hương ngưu đầu chiên đàn, hương chiên đàn trắng, hương chiên đàn tím, hương trầm thủy, hương huân lục, hương uất kim, hương long não, hương linh lăng, hương cây hoắc, hay những loại hương quý khác, rồi đặt chúng trên một miếng đá sạch và nghiền ra thành bột. Sau đó, hãy trộn hương bột với nước để làm thành nước hương và đổ vào trong bình sạch.

Lại nữa, hãy lấy đất sạch mà dựng làm Pháp đàn ở một nơi thanh tịnh, hoặc tròn hay vuông, kích cỡ tùy theo hoàn cảnh. Trên đó an trí các đồ vật để tắm, còn tượng Phật thì đặt ở chính giữa. Kế đến, rưới nước hương nóng ấm để tẩy rửa tượng. Rồi tiếp tục rưới nước trong như thế cho đến khi tượng được sạch sẽ và thơm khiết. Nước sử dụng phải là nước sạch, vì như thế sẽ không làm hại côn trùng.

Trong lúc tắm tượng, có thể thấm ướt bàn tay vào nước đã tắm tượng, rồi cho những giọt nước từ hai đầu ngón tay nhỏ xuống ở trên trán của mình. Đây gọi là Nước Cát Tường.

Về phần nước đã tắm tượng, hãy xả nước chảy ở trên chỗ đất sạch và chớ để chân của mình giẫm đạp.

Khi đã tắm tượng xong, hãy lấy một cái khăn mềm mại mà lau tượng cho sạch. Sau đó, hãy đốt các nén hương quý để hương thơm lan tỏa khắp quanh tượng. Khi xong, hãy an trí tượng về chỗ cũ.

Thiện nam tử! Do bởi tắm tượng Phật với phương thức như thế, nên có thể khiến các ông cùng hàng trời người và đại chúng, hiện đời thọ hưởng giàu sang, an vui, không bệnh, và sống lâu. Mọi điều cầu mong, không gì là chẳng toại. Còn bạn bè thân quyến thì thảy đều an ổn. Lìa hẳn tám nạn, vĩnh viễn ra khỏi bể khổ, không thọ thân nữ, và nhanh thành chính giác.

Khi đã an trí tượng và đốt các loại hương, rồi ở trước tượng, kiền thành chắp tay, và hãy đọc kệ tán thán rằng:

Con nay tắm gội chư Như Lai
Tịnh trí công đức trang nghiêm tụ
Nguyện các chúng sinh đời năm trược
Nhanh chứng Như Lai tịnh Pháp thân

Giới định tuệ giải tri kiến hương
Mười phương Phật độ luôn phảng phất
Nguyện khói hương này cũng như vậy
Vô lượng vô biên làm Phật sự

Cũng nguyện ba đường khổ ách dừng
Trừ sạch nhiệt não được mát mẻ
Đạo tâm vô thượng đều phát khởi
Vĩnh rời sông ái lên bờ kia"

Khi Phật thuyết Kinh này xong, lúc bấy giờ trong đại chúngvô lượng vô biên Bồ-tát đắc Vô Cấu Chính Định. Vô lượng chư thiên chứng đắc trí tuệ không thoái chuyển. Các vị Thanh Văn lập nguyện cầu Phật Đạo. 84.000 chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Lúc ấy Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Thật là hạnh phúc thay khi được bậc Đại Sư từ mẫn dạy chúng con phương pháp tắm tượng. Con nay sẽ khuyên bảo quốc vương, đại thần, và hết thảy những ai có tín tâm cùng yêu mến công đức, rằng trong mỗi ngày hãy tắm gội Tôn tượng thì sẽ được lợi ích lớn. Chúng con sẽ luôn thọ trìhoan hỷ phụng hành."

Dịch từ Phạn văn: Pháp sư Nghĩa Tịnh (635-713)
Dịch sang Tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận
Dịch nghĩa: 21/3/2012 ◊ Cập nhật: 27/9/2014
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11092)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12054)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10747)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15323)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14314)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12077)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15316)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12068)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12542)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12642)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16527)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19625)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13096)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12235)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11819)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10881)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13472)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11830)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12877)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9851)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9054)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10284)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15285)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12188)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11452)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14255)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19659)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24569)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10669)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12470)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant