Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chỉ Quán Môn Luận Tụng

11 Tháng Tư 201607:50(Xem: 13952)
Chỉ Quán Môn Luận Tụng
CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Luận Tập Bộ Toàn quyển thứ 32.
Ngài Thế Thân Bồ-Tát tạo luận bằng chữ Phạn.
Ngài Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt
nhân lần nhập thất thứ tư tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi.

Luận nầy dịch vào ngày 28.12.2006.
Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất vào ngày 10.4.2016.

Chỉ Quán Môn Luận Tụng

Nếu thấy thân người nữ
Cùng với vẻ diễm kiều
Người ngu không biết rõ
Vọng sinh ý dâm nhiễm.
Phật nói các: Sình trướng
Tiếp xúc, trừ ý dâm,
Theo được lời Thế Tôn
Được thắng quả không sót.
Giới tịnh, có nghe, nghĩ
Sách tiến thường tu tập,
Buộc niệm quán các cảnh
Đây là nhân giải thoát.
Nếu người có nhiễm sân
hôn trầm thụy miên,
Trạo cử, ác tác. Nghi
Năm thứ ngăn tu Định.
Ít nghe, ở đông người,
Ham vui thích sự hèn,
Ái thân và thọ dụng
Cũng ngăn được tu Định.
Loạn tâm có năm duyên
Tình tán theo các cảnh
Đắm vị và trầm, cử,
Ngã mạn, nặng danh tiếng.
Bí-xu nương Thánh giáo
Có lỗi phải nói trừ,
Khéo lấy duyên trụ tâm
Đó là hành tối thắng.
Tiếp, ở nơi yên lặng
Không hề có trở ngại,
Sau đó ngưng nghĩ tà
Là nghiệp đầu Bí-xu.
Nên ở rừng thây chết,
Đắp y phục phấn tảo,
Thường cầu sự tĩnh chỉ
Đoạn trừ tâm dâm nhiễm.
Khất thực thấy người nữ
Phải quán là bất tịnh,
Thu mắt trừ ý tà,
Chính tâm nhận đồ ăn.
Lắm lời, nhiều việc tạp
Đều phải nên xa lìa,
Duyên phiền não lại bức
Lực tuệ nên tu nhẫn.

Dưới cây trong bụi cỏ
Hoặc ở trong hang động,
Khi quán nên ở đây
Yên tịnh dễ tu tâm.
Khi duyên cảnh tập định
Không quá cao quá thấp,
Không nên quá gần, xa
Khiến tương ưng với cảnh.
Khéo giữ cảnh được duyên
Khéo quán sát rành rõ,
Khi nhắm mắt trụ tâm
Cũng như mở mắt thấy.
Căn môn đều nhiếp soát,
Trụ niệm ngưng nội tâm,
Duyên cảnh quán hiện tiền
Niệm niệm khiến liên tục.
Với tướng được giữ trước
Dụng tâm quán hình mạo
Sình trướng bên nữ căn
Đáng sợ đáng khinh hiềm.
Giống như nước ao đục
Gió thổi khiến động dao,
Khi nhìn ảnh các cây
Không trụ được sáng tỏ.
Nước tâm nhơ phiền não
Bị gió tình loạn thổi,
Khi lắng tâm quán sát
Tối tăm không thể trụ.
Tâm chìm nên sách tiến
Nên quán sự thắng diệu,
Như khốn đỉa hút máu
Rưới nước khiến hồi tỉnh.
Lại phải chóng thu liễm
An tâm nơi cảnh cũ,
Khiến ý có kham năng
Khéo điều đều tùy niệm.
Nếu tâm mà trạo cử
Nên nghĩ chán sự ác
Khiến tâm trụ tịch tĩnh
Như câu móc đầu voi.
Lìa xa trầm, trạo cử
Nên bình đẳng vận tâm
Tùy tình trụ nơi xả
Khi ấy không lỗi lầm.
Từ đây dần trụ được
Giữ tướng ảnh tâm an
Sáng tỏ hành trung đạo
Cầm đèn chính niệm chiếu.
Khi ấy dùng Tầm, Tứ
Nên lần lượt quán sát
Định ảnh tức liền sinh
Rõ ràng trụ ở trước.
Tịnh sáng không dao động
Như hình Đại Trượng Phu
Ảnh này vọng quán trước
Chính là tướng sai khác.
Tướng này đã sinh rồi
Các dục ác liền trừ
Tức người buộc tâm này
Tướng phương tiện Sơ định.
Thứ biết thể của sân
Vốn do tham dục phát,
Ái dục đã trừ rồi
Lìa được khỏi sân khuể.
Tiếp dùng niệm sách tiến
Trừ bỏ tâm hôn trầm,
Đã quán tướng sai khác
Nghi tình liền ngưng dứt.
Thứ phải trừ ác tác
Khéo đi đường an ổn,
Tịch tĩnh không chướng ngại
Phòng ngừa được trạo cử.
Nên biết dùng tâm thô
Quán tướng được giữ kia,
Liền ở trong tâm ảnh
Dùng ti vi tế cầu.
Thấy tâm hỷ sai khác
Do đây được khinh an,
Thứ chứng được định lạc
Định chi thứ như vậy.
Tức là định căn bản
Khéo an nơi tâm niệm,
Giống như muốn đến thôn
Và đến ở trong thôn.
Đã được định căn bản
Lại tu thêm hành khác
Được Tha tâm, Túc trụ,
Thần thông Thiên nhãn, nhĩ.
Ở đây khi có Tư
Tâm chưa được tĩnh trụ
Giống như sông có sóng
Nên biết địa chư cao.
Đã được Sơ định rồi
Nhưng trụ nơi sở duyên,
Tiếp y Định thứ hai
Tầm, Tư đều ngưng dứt.
Tuy trụ được vị này
Còn có nước hỷ động,
Khi vào định thứ ba
Tâm liền được tĩnh trụ.
Do tâm ấy có lạc
Chưa thể khiến trụ niệm,
Đã chứng định thứ tư
Các lỗi đều dứt trừ.
Phần thối, phần thắng tiến,
Phần trụ, phần quyết trạch,

Tĩnh lự có bốn loại
Người tu định phải biết.
Nếu định thuận phiền não
Đây gọi là phần thối,
Sau thắng là phần thắng,
Trụ tụ trụ nên biết.
Do trước khéo phân biệt
Là nhân quyết trạch đạo,
Định này với được kia
Gọi là phần quyết trạch.
Nơi các tướng vô thường
Làm các hành giải Khổ...
Nếu người được định này
Là các phần đạo: Noãn...
Với các tướng xanh, trướng
Sự quán có nhiều đường,
Như Thánh giáo tu hành
Khác nhau phải nên biết.
Tử thi gió vào bụng
Nơi huyệt có mủ chảy
Cả háng cũng đều khô
Gọi đó là sưng trướng.
Không ái phần thân thô
Chỉ tham thân tế hoạt,
Với ngưới tâm nhiễm này
Khiến tu quán như vậy.
Hoặc ở nơi tử thi
Có ít mủ trắng chảy,
Thịt còn lại đều xanh
Gọi đó là bầm xanh.
Thấy sắc mà sinh ái
Đó gọi người ái sắc,
Đối trị dùng xanh bầm,
Mặt trời lúc nắng cháy.
Tử thi khắp chảy mủ
Đó là tướng mủ chảy,
Với người ái hương kia
Khiến quán ngừng tâm nhiễm.
Lưng tử thi đứt nát
Gọi là tướng đoạn hoại,
Với người ái toàn thân
Đại Tiên Tôn vì nói.
Đối trị ái da thịt
Vì nói tướng thực tàn,
Tay, chân các phần xương
Tùy chỗ đều phân tán.
Với người tham các phần
Nói tướng răng xương loạn,
Ngay nơi tướng xương loạn
Dao, gậy phá chia lìa.
Cũng vì ái toàn thân
Khiến quán tướng đả loạn
Thi hài bị dao chém
Hoặc bị gậy, tên phá.
Máu chảy khắp thân tàn
Gọi là tướng huyết đồ.
Sạch sẽ hương xoa thân
Tư trang mặc áo đẹp,
Nơi đó người khởi tham
Dùng thuốc hay phân tích.
Với cảnh chỉ mình ái
Không chấp nhận người xem,
Nhiều trùng rúc tử thi
Khiến quán trừ niệm ác.
Thịt tử thi tiêu tán
Chỉ còn lại răng, xương,
Nơi răng sinh tham trước
Khiến quán tướng răng xương.
Nếu thấy người mới chết
Thức đi còn thân tàn
Chúng sinh tham trước lạc
Khiến trừ tham kiều diễm.
Phân tiểu và dớt dãi
Tụ hợp chung thành thân,
Ba mươi hai loại vật
Da bọc gọi là người.
Lông tóc và móng, răng
Gan, ruột các tướng nhân
Trong trống ba trăm xương,
Ràng quấn chín trăm xương;
Chín lỗ chảy bất tịnh
Bẩn tưởi khó trình bày,
Quán kỹ thật đáng ghét,
Người trí chẳng nên gần.
Đã quán thân người nữ
Cũng lại xét thân mình
Nơi đó nhân tham nhiễm
Theo lý thường buộc niệm.
Không thoát ngục ba cõi
Hoặc do tâm dục nhiễm
Cho nên người trí sáng
Cực khéo nghĩ sự này.
Trải nhiều khổ địa ngục
May mắn được thân người
phóng túng cuồng tâm
Không tu hạnh thù thắng.
Tham dâm có nhiều loại
Tùy sinh ác chẳng đồng,
Một quán đều trừ được
Chính là quán xương trắng.
Chạm sắc hình kiều diễm
Áo quần sinh nhiễm trước,
Thuốc nào trừ được đây?
Không qua quán xương trắng.
Trước nơi ngón chân cái
Định tâm duyên tạo sưng
Vỡ ra đã chảy mủ
Thịt đều tùy rơi rụng.
Liền quán hình xương ngón
sắc như chi, câu trắng,
Vết sưng đã lớn dần
Da thịt đều trừ sạch.
Lần lượt quán như thế
Thịt thân đều trừ hết,
Chính niệm thắng giải thành
Chỉ quán khớp xương ấy.
Nếu còn lại ít thịt
Bèn gọi là loạn ý,
Huống lại phóng tâm khỉ
Rong ruổi cầu các cảnh.
Thời gian lâu buộc tưởng
Tự biết khéo trụ được,
Tiếp dần đến người khác
Quán chung là đốt xương.
Dần rộng đến bờ biển
Trong đó đầy xương trắng,
Định này đã thành rồi
Bỏ rộng lại khiến hẹp.
Khi lược bỏ từ ngoài
Đến chỉ xương thân mình,
Lại quán xương ngón chân
Là thứ tự tâm định.
Hoặc lại bỏ từng miếng
Cực đến nơi xương đảnh,
Nên biết tâm cuối cùng
Nhiếp giữa mi khiến trụ.
Nếu tu tập như vậy
Thường sinh thắng Phạm cung,
Chẳng đọa lạc ba đường
Được sinh trời Ngũ Tịnh.
Tâm nhân gian thiện tán
Trở lại dòng sinh tử,
Người trí tu tâm định
Như lửa cháy áo thân.
Liền bỏ được các duyên
Nên ở nơi rừng vắng,
Chớ khiến vô thường bức
Chết uổng trong tán tâm.
Dùng Bát-nhã tịnh tâm
Rốt được quả khả ái,
Nếu không mong hậu hữu
Với thắng đạo nên tu.
Cạo tóc đắp Ca-sa
Phải nên tu Thánh đạo,
Tự nói các tạp sự
Sẽ là nhân sinh tử.


CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG

Sửa chính tả: Phật Tử Thanh Phi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14093)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10841)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11168)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11977)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13103)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33631)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11319)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12889)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13030)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11599)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17863)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11407)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11465)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18954)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12522)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13123)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11794)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11681)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12735)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12617)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13930)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12910)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13271)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12738)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12663)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11711)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11702)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12314)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11943)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11976)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16092)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12860)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12208)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13136)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13220)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12472)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11796)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19825)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11242)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11073)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10953)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10019)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11728)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant