Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

12 Tháng Năm 201604:40(Xem: 11592)
Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

KINH TITTHA: NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC NHAU (1)

Dịch từ tiếng Pali: John D. Ireland - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org - Picture-Hình: library.timelesstruths.org
(Tittha Sutta: Sectarians (1) - Translated from the Pali by John D. Ireland)

Kinh Tittha Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

 

Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc (Anathapindika). Vào lúc đó, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng thuộc các giáo phái khác nhau, sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ đã có các quan điểm khác nhau, các niềm tin khác nhau, các ý kiến khác nhau, và họ đã dựa vào sự hỗ trợ của các người khác, đối với các quan điểm khác nhau của họ. Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn khẳng-định, và nắm chặt lấy quan niệm như sau: "Thế giới nầy là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn lại khẳng-định quan niệm ngược lại như sau: "Thế giới nầy không-phải là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số người khác lại khẳng-định quan niệm như sau: "Thế giới nầy là hữu hạn ... Thế giới nầy là vô hạn ... Tâm-linh và thân-xác là giống nhau ... Tâm-linh và thân-xác là khác nhau ... Sau khi chết, Đức Phật (Như Lai) tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật không-tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật vừa tồn-tại, vừa không-tồn-tại; Sau khi chết, Đức Phật vừa-không tồn-tại, vừa-không không-tồn-tại; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Rồi họ bắt đầu gây gỗ, cãi vã, tranh luận, gây thương tổn (về tinh thần) bằng các lời-nói sắc-như-dao-đâm vào người kia: "Giáo Pháp thì phải như thế nầy, Giáo Pháp thì không phải như thế kia! Giáo Pháp thì không phải như thế nầy, Giáo Pháp thì phải như thế kia!"

Trước đó vào buổi sáng, một số Tỳ Kheo, đắp ymang theo áo choàng bên ngoài, họ ôm bình bát, đi bộ vào Xá Vệ để khất thực. Sau khi đi khất thựcXá Vệ, các nhà sư dùng bữa trưa, rồi họ trở về, đi đến gặp Đức Phật, họ đảnh lễ ngài, rồi họ ngồi qua một bên, và họ thưa với Đức Phật như sau: "Bạch Thế Tôn, vào lúc nầy đây, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng của các giáo phái khác nhau, họ sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ có các quan niệm khác nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, giống như người mù, họ không trông thấy gì cả. Họ không biết điều gì có lợi, họ không biết điều gì có hại. Họ không biết điều gì là Giáo Pháp, họ không biết điều gì không phải là Giáo Pháp. Họ không biết điều gì có lợi, và điều gì có hại, họ không biết điều gì là Giới Pháp, và điều gì không phải là Giới Pháp, họ đang gây gỗ với nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'

"Nầy các Tỳ Kheo, vào một kiếp trước đây có một ông vua cũng ở vùng Xá Vệ nầy. Nhà vua đã ra lệnh cho một vị quan (1): 'Nầy hiền khanh, khanh hãy cho tụ họp tất cả các người bị mù từ khi lọt lòng mẹ, ở Xá Vệ đến đây.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, rồi sau đó ông ra lệnh dẫn tất cả những người mù ở Xá Vệ đến triều đình, và ông đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, tất cả các người mù đã được dẫn đến đây rồi.'

"'Nầy hiền khanh, bây giờ khanh hãy dẫn những người mù nầy đi gặp một con voi.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, ông quan liền dẫn các người mù nầy đến gặp một con voi, rồi ông nói với họ. 'Các ông mù ơi, trước mặt các ông là một con voi.'

"Với một số người mù, vị quan đã để tay họ chạm vào đầu voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào tai voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Còn với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào ngà voi ... tương tự như thế, rồi với vòi voi ... thân thể con voi ... chân voi ... phần thân và chân sau con voi ... đuôi voi ... cái chùm ở phía đuôi voi, rồi vị quan nói rằng, 'Đây là con voi.'

"Nầy các Tỳ Kheo, sau đó vị quan mà dẫn người mù đi gặp voi, đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, các người mù đã gặp con voi rồi. Xin mời Bệ Hạ quyết định.' Sau đó, nhà vua đi tới gặp các người mù nầy, rồi hỏi họ rằng, 'Các ông đã gặp con voi chưa?'

"'Tâu Bệ Hạ, chúng tôi đã gặp con voi rồi.'

"'Nầy các ông mù, hãy cho ta biết con voi thì giống như vật gì?'

"Các người mù đã chạm tay vào đầu voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái bình chứa nước.' Các người mù đã chạm tay vào tai voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái rổ để sàng lọc.' Các người mù đã chạm tay vào ngà voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào vòi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cán gắn vào lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào thân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái nhà kho.' Các người mù đã chạm tay vào chân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cột nhà.' Các người mù đã chạm tay vào thân và chân sau voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cối.' Các người mù đã chạm tay vào đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái chày.' Các người mù đã chạm tay vào cái chùm ở phía đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cây chổi.'

"Rồi, các người mù tranh luận rằng 'Con voi thì phải như thế nầy, con voi thì không phải như thế kia! Con voi thì không phải như thế nầy, con voi thì phải như thế kia!' và vì thế, họ đánh nhau, và đấm đá lẫn nhau. Nhà vua khi trông thấy cảnh tượng (ngộ nghĩnh) nầy, nhà vua đã phải phì cười.

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, cũng như thế, họ giống như người mù, họ không trông thấy gì cả ... vì họ nói rằng, 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

Để giúp cho mọi người nhận biết được ý nghĩa quan trọng của bài học nầy, Đức Phật đã nói lên bài kệ như sau, để thức tỉnh mọi người:

Một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn,

tối tăm [như người mù] (2)

Họ khư khư nắm chặt lấy quan-điểm của riêng họ;

Cho nên họ đã cãi cọ, và tranh chấp với nhau

Bởi vì họ chỉ nhìn thấy một góc cạnh của sự vật.

[Người mù, cũng như thế

Họ không nhìn thấy những góc cạnh còn lại của sự vật]

Ghi Chú Của Người Chuyển Ngữ [NCN]:

1) Dựa theo ý của bài kinh nầy, NCN đã chuyển ngữ:

a man là vị quan (thay vì là người đàn ông)

2) Ở phần cuối của bài kinh nầy, trong bài kệ, chữ trong ngoặc [] là lời chú thích của NCN.

Source-Nguồn: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.6.04.irel.html

 

Tittha Sutta: Sectarians (1)
Translated from the Pali by John D. Ireland -
Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org

Thus have I heard. At one time the Lord was staying near Savatthi in the Jeta Wood at Anathapindika's monastery. At that time there were a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they were of various views, of various beliefs, of various opinions, and they relied for their support on their various views. There were some recluses and brahmans who asserted and held this view: "The world is eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some recluses and brahmans who asserted: "The world is not eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some who asserted: "The world is finite... The world is infinite... The life-principle and the body are the same... The life-principle and the body are different... The Tathagata exists beyond death... The Tathagata does not exist beyond death... The Tathagata both exists and does not exist beyond death; The Tathagata neither exists nor does not exist beyond death; only this is true, any other (view) is false." And they lived quarrelsome, disputatious, and wrangling, wounding each other with verbal darts, saying: "Dhamma is like this, Dhamma is not like that! Dhamma is not like this, Dhamma is like that!"

Then a number of bhikkhus, having put on their robes in the forenoon and taken their bowls and outer cloaks, entered Savatthi for almsfood. Having walked in Savatthi for almsfood and returned after the meal, they approached the Lord, prostrated themselves, sat down to one side, and said to the Lord: "At present, revered sir, there are a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they are of various views... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

"The wanderers of other sects, bhikkhus, are blind, unseeing. They do not know what is beneficial, they do not know what is harmful. They do not know what is Dhamma, they do not know what is not Dhamma. Not knowing what is beneficial and what is harmful, not knowing what is Dhamma and what is not Dhamma, they are quarrelsome... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'

"Formerly, bhikkhus, there was a certain king in this very Savatthi. And that king addressed a man: 'Come now, my good man, bring together all those persons in Savatthi who have been blind from birth.'

"'Yes, your majesty,' that man replied, and after detaining all the blind people in Savatthi, he approached the king and said, 'All the blind people in Savatthi have been brought together, your majesty.'

"'Now, my man, show the blind people an elephant.'

"'Very well, your majesty,' the man replied to the king, and he presented an elephant to the blind people, saying, 'This, blind people, is an elephant.'

"To some of the blind people he presented the head of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented an ear of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented a tusk... the trunk... the body... the foot... the hindquarters... the tail... the tuft at the end of the tail, saying, 'This is an elephant.'

"Then, bhikkhus, the man, having shown the elephant to the blind people, went to the king and said, 'The blind people have been shown the elephant, your majesty. Do now what you think is suitable.' Then the king approached those blind people and said, 'Have you been shown the elephant?'

"'Yes, your majesty, we have been shown the elephant.'

"'Tell me, blind people, what is an elephant like?'

"Those blind people who had been shown the head of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a water jar.' Those blind people who had been shown the ear of the elephant replied. "An elephant, your majesty, is just like a winnowing basket.' Those blind people who had been shown the tusk of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plowshare.' Those blind people who had been shown the trunk replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plow pole.' Those blind people who had been shown the body replied, 'An elephant, your majesty, is just like a storeroom.' Those blind people who had been shown the foot replied, 'An elephant, your majesty, is just like a post.' Those blind people who had been shown the hindquarters replied, 'An elephant, your majesty, is just like a mortar.' Those blind people who had been shown the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a pestle.' Those blind people who had been shown the tuft at the end of the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a broom.'

"Saying 'An elephant is like this, an elephant is not like that! An elephant is not like this, an elephant is like that!' they fought each other with their fists. And the king was delighted (with the spectacle).

"Even so, bhikkhus, are those wanderers of various sects blind, unseeing... saying, 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

Then, on realizing its significance, the Lord uttered on that occasion this inspired utterance:

Some recluses and brahmans, so called,

Are deeply attached to their own views;

People who only see one side of things

Engage in quarrels and disputes.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11351)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17988)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10171)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15345)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11242)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10619)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12690)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19671)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13113)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12673)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11856)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10908)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11640)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13628)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11487)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19706)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant