Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

12 Tháng Năm 201604:40(Xem: 11481)
Kinh Tittha: Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

KINH TITTHA: NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC NHAU (1)

Dịch từ tiếng Pali: John D. Ireland - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org - Picture-Hình: library.timelesstruths.org
(Tittha Sutta: Sectarians (1) - Translated from the Pali by John D. Ireland)

Kinh Tittha Những Tôn Giáo Khác Nhau (song ngữ)

 

Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc (Anathapindika). Vào lúc đó, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng thuộc các giáo phái khác nhau, sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ đã có các quan điểm khác nhau, các niềm tin khác nhau, các ý kiến khác nhau, và họ đã dựa vào sự hỗ trợ của các người khác, đối với các quan điểm khác nhau của họ. Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn khẳng-định, và nắm chặt lấy quan niệm như sau: "Thế giới nầy là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn lại khẳng-định quan niệm ngược lại như sau: "Thế giới nầy không-phải là vĩnh cữu; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Có một số người khác lại khẳng-định quan niệm như sau: "Thế giới nầy là hữu hạn ... Thế giới nầy là vô hạn ... Tâm-linh và thân-xác là giống nhau ... Tâm-linh và thân-xác là khác nhau ... Sau khi chết, Đức Phật (Như Lai) tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật không-tồn-tại ... Sau khi chết, Đức Phật vừa tồn-tại, vừa không-tồn-tại; Sau khi chết, Đức Phật vừa-không tồn-tại, vừa-không không-tồn-tại; và chỉ có điều nầy là đúng, còn tất cả các quan niệm khác là sai." Rồi họ bắt đầu gây gỗ, cãi vã, tranh luận, gây thương tổn (về tinh thần) bằng các lời-nói sắc-như-dao-đâm vào người kia: "Giáo Pháp thì phải như thế nầy, Giáo Pháp thì không phải như thế kia! Giáo Pháp thì không phải như thế nầy, Giáo Pháp thì phải như thế kia!"

Trước đó vào buổi sáng, một số Tỳ Kheo, đắp ymang theo áo choàng bên ngoài, họ ôm bình bát, đi bộ vào Xá Vệ để khất thực. Sau khi đi khất thựcXá Vệ, các nhà sư dùng bữa trưa, rồi họ trở về, đi đến gặp Đức Phật, họ đảnh lễ ngài, rồi họ ngồi qua một bên, và họ thưa với Đức Phật như sau: "Bạch Thế Tôn, vào lúc nầy đây, có một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn, các du tăng của các giáo phái khác nhau, họ sống ở chung quanh Xá Vệ. Họ có các quan niệm khác nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, giống như người mù, họ không trông thấy gì cả. Họ không biết điều gì có lợi, họ không biết điều gì có hại. Họ không biết điều gì là Giáo Pháp, họ không biết điều gì không phải là Giáo Pháp. Họ không biết điều gì có lợi, và điều gì có hại, họ không biết điều gì là Giới Pháp, và điều gì không phải là Giới Pháp, họ đang gây gỗ với nhau ... và họ tranh luận rằng: 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'

"Nầy các Tỳ Kheo, vào một kiếp trước đây có một ông vua cũng ở vùng Xá Vệ nầy. Nhà vua đã ra lệnh cho một vị quan (1): 'Nầy hiền khanh, khanh hãy cho tụ họp tất cả các người bị mù từ khi lọt lòng mẹ, ở Xá Vệ đến đây.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, rồi sau đó ông ra lệnh dẫn tất cả những người mù ở Xá Vệ đến triều đình, và ông đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, tất cả các người mù đã được dẫn đến đây rồi.'

"'Nầy hiền khanh, bây giờ khanh hãy dẫn những người mù nầy đi gặp một con voi.'

"'Tâu Bệ Hạ, thần xin vâng lệnh,' vị quan trả lời, ông quan liền dẫn các người mù nầy đến gặp một con voi, rồi ông nói với họ. 'Các ông mù ơi, trước mặt các ông là một con voi.'

"Với một số người mù, vị quan đã để tay họ chạm vào đầu voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào tai voi, rồi nói rằng, 'Đây là con voi.' Còn với một số người mù khác, vị quan đã để tay họ chạm vào ngà voi ... tương tự như thế, rồi với vòi voi ... thân thể con voi ... chân voi ... phần thân và chân sau con voi ... đuôi voi ... cái chùm ở phía đuôi voi, rồi vị quan nói rằng, 'Đây là con voi.'

"Nầy các Tỳ Kheo, sau đó vị quan mà dẫn người mù đi gặp voi, đến gặp nhà vua, rồi ông nói rằng, 'Tâu Bệ Hạ, các người mù đã gặp con voi rồi. Xin mời Bệ Hạ quyết định.' Sau đó, nhà vua đi tới gặp các người mù nầy, rồi hỏi họ rằng, 'Các ông đã gặp con voi chưa?'

"'Tâu Bệ Hạ, chúng tôi đã gặp con voi rồi.'

"'Nầy các ông mù, hãy cho ta biết con voi thì giống như vật gì?'

"Các người mù đã chạm tay vào đầu voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái bình chứa nước.' Các người mù đã chạm tay vào tai voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái rổ để sàng lọc.' Các người mù đã chạm tay vào ngà voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào vòi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cán gắn vào lưỡi cày.' Các người mù đã chạm tay vào thân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái nhà kho.' Các người mù đã chạm tay vào chân voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cột nhà.' Các người mù đã chạm tay vào thân và chân sau voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái cối.' Các người mù đã chạm tay vào đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cái chày.' Các người mù đã chạm tay vào cái chùm ở phía đuôi voi trả lời, 'Tâu Bệ Hạ, con voi thì giống như một cây chổi.'

"Rồi, các người mù tranh luận rằng 'Con voi thì phải như thế nầy, con voi thì không phải như thế kia! Con voi thì không phải như thế nầy, con voi thì phải như thế kia!' và vì thế, họ đánh nhau, và đấm đá lẫn nhau. Nhà vua khi trông thấy cảnh tượng (ngộ nghĩnh) nầy, nhà vua đã phải phì cười.

"Nầy các Tỳ Kheo, các du tăng của các giáo phái khác nhau, cũng như thế, họ giống như người mù, họ không trông thấy gì cả ... vì họ nói rằng, 'Giáo Pháp thì phải như thế nầy! ... Giáo Pháp thì phải như thế kia!'"

Để giúp cho mọi người nhận biết được ý nghĩa quan trọng của bài học nầy, Đức Phật đã nói lên bài kệ như sau, để thức tỉnh mọi người:

Một số ẩn sĩtu sĩ Bà La Môn,

tối tăm [như người mù] (2)

Họ khư khư nắm chặt lấy quan-điểm của riêng họ;

Cho nên họ đã cãi cọ, và tranh chấp với nhau

Bởi vì họ chỉ nhìn thấy một góc cạnh của sự vật.

[Người mù, cũng như thế

Họ không nhìn thấy những góc cạnh còn lại của sự vật]

Ghi Chú Của Người Chuyển Ngữ [NCN]:

1) Dựa theo ý của bài kinh nầy, NCN đã chuyển ngữ:

a man là vị quan (thay vì là người đàn ông)

2) Ở phần cuối của bài kinh nầy, trong bài kệ, chữ trong ngoặc [] là lời chú thích của NCN.

Source-Nguồn: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/ud/ud.6.04.irel.html

 

Tittha Sutta: Sectarians (1)
Translated from the Pali by John D. Ireland -
Source-Nguồn: www.accesstoinsight.org

Thus have I heard. At one time the Lord was staying near Savatthi in the Jeta Wood at Anathapindika's monastery. At that time there were a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they were of various views, of various beliefs, of various opinions, and they relied for their support on their various views. There were some recluses and brahmans who asserted and held this view: "The world is eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some recluses and brahmans who asserted: "The world is not eternal; only this is true, any other (view) is false." There were some who asserted: "The world is finite... The world is infinite... The life-principle and the body are the same... The life-principle and the body are different... The Tathagata exists beyond death... The Tathagata does not exist beyond death... The Tathagata both exists and does not exist beyond death; The Tathagata neither exists nor does not exist beyond death; only this is true, any other (view) is false." And they lived quarrelsome, disputatious, and wrangling, wounding each other with verbal darts, saying: "Dhamma is like this, Dhamma is not like that! Dhamma is not like this, Dhamma is like that!"

Then a number of bhikkhus, having put on their robes in the forenoon and taken their bowls and outer cloaks, entered Savatthi for almsfood. Having walked in Savatthi for almsfood and returned after the meal, they approached the Lord, prostrated themselves, sat down to one side, and said to the Lord: "At present, revered sir, there are a number of recluses and brahmans, wanderers of various sects, living around Savatthi. And they are of various views... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

"The wanderers of other sects, bhikkhus, are blind, unseeing. They do not know what is beneficial, they do not know what is harmful. They do not know what is Dhamma, they do not know what is not Dhamma. Not knowing what is beneficial and what is harmful, not knowing what is Dhamma and what is not Dhamma, they are quarrelsome... saying: 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'

"Formerly, bhikkhus, there was a certain king in this very Savatthi. And that king addressed a man: 'Come now, my good man, bring together all those persons in Savatthi who have been blind from birth.'

"'Yes, your majesty,' that man replied, and after detaining all the blind people in Savatthi, he approached the king and said, 'All the blind people in Savatthi have been brought together, your majesty.'

"'Now, my man, show the blind people an elephant.'

"'Very well, your majesty,' the man replied to the king, and he presented an elephant to the blind people, saying, 'This, blind people, is an elephant.'

"To some of the blind people he presented the head of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented an ear of the elephant, saying, 'This is an elephant.' To some he presented a tusk... the trunk... the body... the foot... the hindquarters... the tail... the tuft at the end of the tail, saying, 'This is an elephant.'

"Then, bhikkhus, the man, having shown the elephant to the blind people, went to the king and said, 'The blind people have been shown the elephant, your majesty. Do now what you think is suitable.' Then the king approached those blind people and said, 'Have you been shown the elephant?'

"'Yes, your majesty, we have been shown the elephant.'

"'Tell me, blind people, what is an elephant like?'

"Those blind people who had been shown the head of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a water jar.' Those blind people who had been shown the ear of the elephant replied. "An elephant, your majesty, is just like a winnowing basket.' Those blind people who had been shown the tusk of the elephant replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plowshare.' Those blind people who had been shown the trunk replied, 'An elephant, your majesty, is just like a plow pole.' Those blind people who had been shown the body replied, 'An elephant, your majesty, is just like a storeroom.' Those blind people who had been shown the foot replied, 'An elephant, your majesty, is just like a post.' Those blind people who had been shown the hindquarters replied, 'An elephant, your majesty, is just like a mortar.' Those blind people who had been shown the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a pestle.' Those blind people who had been shown the tuft at the end of the tail replied, 'An elephant, your majesty, is just like a broom.'

"Saying 'An elephant is like this, an elephant is not like that! An elephant is not like this, an elephant is like that!' they fought each other with their fists. And the king was delighted (with the spectacle).

"Even so, bhikkhus, are those wanderers of various sects blind, unseeing... saying, 'Dhamma is like this!... Dhamma is like that!'"

Then, on realizing its significance, the Lord uttered on that occasion this inspired utterance:

Some recluses and brahmans, so called,

Are deeply attached to their own views;

People who only see one side of things

Engage in quarrels and disputes.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11528)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11927)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12900)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11341)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52697)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21214)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10588)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19096)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13209)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14271)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 15958)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13627)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11522)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11472)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14409)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18816)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19420)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12101)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12189)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13742)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14887)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13861)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17018)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20042)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11630)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14938)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12892)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22751)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14475)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11543)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13078)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16776)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18240)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11858)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11413)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18784)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18260)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant