Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Một Trăm Năm Mươi Bài Kệ Xưng Tán Phật

05 Tháng Tám 201623:14(Xem: 15272)
Một Trăm Năm Mươi Bài Kệ Xưng Tán Phật

MỘT TRĂM NĂM MƯƠI BÀI KỆ XƯNG TÁN PHẬT

  Tôn Giả Ma-Chí-Lợi Chế-Thác tạo

 

Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn.

Đại Đường, Sa-môn Nghĩa Tịnh dịch Phạn-Hán, tại chùa Na-Lan-Đà, Ấn-Độ.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức quốc dịch Hán-Việt,
tại thư phòng chùa Viên Giác, An Cư Kiết Hạ 2007, Phật lịch 2551.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính lần thứ nhất xong ngày 5 tháng 8 năm 2016.

 

 Tôn Giả Ma Chí Lợi Chế Thác

Thế Tôn thù thắng nhất

Khéo đoạn các nhân ác,

Vô lượng thắng công đức

Cùng tụ thân Như Lai.

Chỉ Phật đáng quy y

Đáng xưng tán, thừa sự.

Người suy nghĩ như lý

Nên trụ giáo lý này.

Các tập, phiền não ác

Đấng Hộ Thế đã trừ,

Phúc, trí đều viên mãn

Chỉ Ngài không thối thất.

Người tâm sinh ác kiến

Khởi hiềm hận Thế Tôn

Xét tìm nghiệp thân, khẩu,

Chẳng thể được khiếm khuyết.

Ghi nhớ:Được thân người

Nghe pháp sinh hoan hỉ,

Ví như trong biển lớn

Rùa mù gặp bọng cây.

Mất niệm luôn rong ruổi

Nghiệp hoặc rớt hầm sâu.

Nên con dụng ngôn từ

Tán Phật công đức thật

Mâu-Ni vô lượng cảnh

Thánh đức không ngằn mé.

Vì mong cầu lợi mình

Con nay khen phần nhỏ.

Kính lễ Vô Sư Trí

Tính các sự hiếm có,

Phúc, tuệ và uy quang

Ai biết được số lượng!

Như Lai đức vô hạn

Không sánh, chẳng thể nói.

Con nay cầu phúc lợi

Dùng danh giả tán thán,

Lực trí con yếu cạn

Phật đức không bến bờ,

Chỉ nguyện Đại Từ Bi

Cứu con chẳng chỗ nương.

Oán thân trọn bình đẳng,

Khởi đại bi Vô Duyên

Với khắp chúng sinh giới

Hằng làm bạn chân thiện.

Nội tài còn xả được

Huống gì là ngoại tài,

Ngài không tâm lẫn tiếc

Người cầu đều mãn nguyện;

Đem thân hộ thân người,

Dùng mạng chuộc mạng người,

Toàn thân cứu chim câu

Hoan hỉ không lẫn tiếc.

Ngài không sợ đạo ác,

Cũng chẳng tham đường lành,

Chỉ vì tâm thanh khiết

Giới luật do đây thành.

Thường lìa các tà vạy,

Luôn gần người ngay thật.

Các nghiệp vốn tính không,

Chỉ ở nghĩa đệ nhất.

Các khổ bức bách thân

Ngài khéo an ủi được.

Chính trí đoạn các hoặc,

Có lỗi, trọn khởi bi,

Bỏ mạng cứu khổ người

Sinh hoan hỉ vô lượng:

Như chết bỗng sống lại

Hỉ này lại hơn thế.

Oán đối hại thân kia

Tất cả thời phiền não,

Chẳng nhìn lỗi ác họ

Thường khởi tâm đại bi,

Gieo khắp giống Bồ-Đề

Tâm thường luôn trân quý.

Đại Hùng trí nan thắng

Đấng không ai sánh kịp,

Quả giác không gì sánh,

Khổ hành là chính nhân,

Do đó chẳng kể thân

Chăm tu các thắng phẩm;

Phú quý hay nghèo hèn

Đại Bi bình đẳng dẫn,

Trong các sự khác nhau

không tưởng cao thấp.

Quả đẳng trì thắng lạc (đẳng trì: Thiền định)

Tâm khôngtham trước.

Tế khắp chư quần sinh

Đại bi không gián đoạn.

Ngài tuy gặp cực khổ

Nơi vui chẳng mong cầu,

Các công đức diệu trí

Thù thắng không gì hơn.

Các pháp tạp nhiễm, tịnh

Trừ hư ngụy, lấy chân,

Như vua Ngỗng thanh tịnh

Hút lấy sữa, nhả nước.

Trong vô lượng ức kiếp

Dũng mãnh hướng Bồ-đề,

Trong mỗi mỗi kiếp ấy

Bỏ thân cầu diệu pháp;

Ba tăng-kỳ số lượng

Tinh cần không nhàm mỏi,

Giữ đây như bạn tốt

Để chứng diệu Bồ-đề.

Ngài không tâm tật đố,

Với kém trừ tưởng khinh,

Bình đẳng không tranh hơn,

Thắng hành trọn viên thành.

Ngài chỉ trọng làm nhân

Không cầu tròn quả vị,

Tu khắp các thắng nghiệp

Chúng đức tự thành mãn.

Chăm tu pháp xuất ly

Vượt quá các đỉnh cao;

Nơi ngồi, nằm, kinh hành,

Chẳng không làm ruộng phước;

Bạt trừ các lỗi nhiễm

Tăng trưởng đức thanh tịnh,

Đây do hành xưa thành

Chỉ Ngài vô thượng nhất.

Các phúc đều viên mãn

Các lỗi đều đã đoạn,

Tư lương mãi tích tụ

Đều quy thân Điều Ngự.

Muốn tìm các thí dụ

Không gì sánh được Phật,

Quán khắp các thế gian

Tai hoạnh nhiều chướng não,

Ví có chút phần thiện

Dễ gì so sánh được.

Lìa xa các lỗi họa

Lắng trong an bất động.

Các thiện căn tối thắng

Không thể ví dụ được.

Trí Như Lai sâu xa

Không đáy không ngằn mé,

Thế sự dụ thân Phật

Vết chân trâu- biển lớn;

Nhân sâu gánh tất cả

Thế gian không gì sánh;

Đại địa giữ sức nặng

Dụ đây thật là nhẹ.

Tối ngu si đã trừ

Sáng Mâu-Ni chiếu khắp,

Trí thế không thể dụ

Lửa đóm với nhật quang.

Ba nghiệp Như Lai sạch

Ao trong sáng trăng thu,

Đời sạch ví thân Phật

Đều thành tính bụi nhơ.

Như được dẫn ở trên

Những thù thắng thế gian

Pháp Phật lại vượt quá

Thế sự thật đáng thương.

Tụ trân bảo Thánh pháp

 Phật ở đỉnh cao nhất

Trong không dụ, không sánh

Chỉ Phật với Phật thôi.

Biển thánh trí Như Lai

Tùy vui tán phần ít,

Lời thô tán thắng đức

Đối đây thật hổ thẹn.

Thế tục thấy hàng ma

Tất cả hoặc quy phục

Quán kia đồng chân tính

“Ngã” cho nhẹ như lông.

Giả sử chiến trận lớn

Trí dũng chiến thắngđược,

Thánh đức siêu thế gian

Thắng kia không ví được.

Tiếp sau khi hàng ma

Trong phần sau của đêm

Đoạn các tập phiền não

Thắng đức đều viên mãn.

Thánh trí trừ các tối

Siêu quá nghìn mặt trời

Hàng phục các tông tà

Hiếm có không gì sánh.

Ba thiện căn viên mãn

Vĩnh diệt tham, sân, si

Tập nhân trọn đã trừ

Thanh tịnh không thể dụ.

Ngài hằng tán diệu pháp

Pháp bất chính hằng không,

Với chỗ chính, tà này

Tâm không có yêu ghét.

Với thánh chúng đệ tử

Và thầy trò ngoại đạo

Trong thuận hay đối nghịch

Tâm Phật không có hai.

Với đức không tình nhiễm,

Người có đức, chẳng tham.

Lành thay, cực không cấu

Thánh trí hằng tròn sạch.

Các căn thường trong lặng

Vĩnh lìa tâm mê vọng

Ở trong các cảnh giới

Tự thấy với hiện lượng.

Niệm tuệ cùng chân tế

Phàm ngu không lường được,

Khéo an lập ngữ ngôn

Chứng chỗ vô ngôn kia.

Sáng tịch tĩnh vô ngại

Sáng trong càng rực rỡ

Diệu sắc thế hiếm có

Ai không tâm cung kính!

Hoặc tạm gặp lần đầu

Hoặc lại thường chiêm ngưỡng

Diệu Tướng Tôn không hai

Trước sau trọn hoan hỉ.

Thân uy đức tối thắng

Người quán tâm không chán,

Dù trải vô lượng kiếp

Hân ngưỡng như mới gặp.

Đức thể của sở y,

Đức tâm của năng y,

Tính, tướng cùng dung thông

Năng, sở đầu không khác.

Đức Thiện Thệ như thế

Cùng họp thân Như Lai

Lìa tướng hảo thân Phật

Nơi khác chẳng có an.

Con nhân phúc kiếp xưa

Được gặp Điều Ngự Sư,

Ngưỡng tán núi công đức

Xa báo đáp lời Ngài.

Tất cả loài hữu tình

Đều bị phiền não giữ,

Chỉ Phật khéo trừ được,

Do bi trụ thế lâu

Ai sẽ trước kính lễ?

Chỉ Phật Đại Bi Tôn,

Thánh đức siêu thế gian

Bi nguyệnnơi sinh tử,

Ngài ở vui tịch tĩnh

Vào trược vì quần sinh,

Vĩnh kiếp mãi tinh cần

Từ tâm vì tất cả

Từ chân về lợi tục

 Do bi tâm dẫn sinh,

Như chú dùng trừ rồng

Nổi mây trút cam lộ.

 Thường ở vị thắng định

  Bình đẳng quán oán thân,

  Người hung hiểm, cuồng điên

Đầu thân về thánh đức.

Thần thông sư tử hống

 Tuyên nói Tam Giới Tôn

Lâu đã nhàm tiếng tăm

Do bi tự xưng tán.

Thường tu làm lợi người

 Chưa từng tâm tự lợi,

Từ niệm khắp chúng sinh

Với mình không riêng ái.

Bi nguyện không biên giới

Theo căn độ quần sinh,

Tùy chỗ đều nhiêu ích

Như đồ ăn cúng khắp.

Thâm tâm niệm tất cả

Chưa từng bỏ chốc lát.

Lợi họ, lại gặp nhục

Lỗi họ, chẳng do Phật.

Âm từ nói diệu nghĩa

Chắc thật chẳng hư dối,

Rộng, lược tùy cơ duyên

Vơi, đầy tùy thời chuyển.

Nếu nghe Ngài diễn nói

Ai chẳng vui hiếm có;

Khiến kia dù ác tâm

trí hoặc quy tín.

Nghĩa, từ luôn lành khéo,

Hoặc lại nói lời thô

Lợi ích trọn không uổng

Nên đều thành chân diệu,

Nhu nhuyến hoặc thô cứng

Tùy sự độ chúng sinh,

Thánh trí tâm vô ngại

Đều một vị bình đẳng.

Lành thay, nghiệp vô cấu

Thiện xảo như thầy khéo;

Thành thân vi diệu này

 Nói lời trân bảo ấy

Người thấy đều hoan hỉ

Nghe nói đều mở tâm;

Mặt đẹp nói từ diệu

Như trăng tuôn cam lồ;

Mây từ xối mưa pháp

Tẩy sạch được dục trần,

Như Kim súy điểu vương

Ăn diệt các rồng độc;

 Dứt được các tăm tối

Như sáng nghìn mặt trời,

Phá diệt núi ngã mạn

Như chày của Đế-Thích.

Hiện chứng không hư dối,

Tĩnh lự trừ loạn tâm,

Như thật thiện tu hành

Ba sựđều viên mãn.

Mới nghe điều Phật nói

Tâm hỉ đã mở sáng,

Từ đây khéo tư duy

Tiêu trừ các cấu nhiễm.

Gặp khổ được an ủi,

Phóng dật, khiến sinh sợ,

Đắm vui, khuyên nên nhàm,

Tùy sự đều khai mở:

Thượng trí chứng pháp hỉ,

Bậc trung sinh thắng giải,

Nông, yếu phát tâm tin

Lời Ngài nhiêu ích khắp.

Khéo nhổ các tà kiến

Dẫn hướng đến Niết-bàn,

Tội cấu được tiêu trừ,

Do Ngài giáng mưa pháp.

Nhứt thiết trí vô ngại

Hằng trụ trong chánh niệm,

 Như Lai thọ ký riêng

Luôn luôn không hư dối,

Chẳng phi xứ, phi thời,

Cũng chẳng chuyển “phi khí”.

Lời Ngài nói không uổng,

Nghe rồi đều chăm tu,

Một đường thắng phương tiện,

Không tạp, tu học được.

Đầu, giữa, cuối đều lành

Không có giáo nào khác.

Như thế một hướng thiện

Cuồng, ngu khởi tâm báng,

Nếu sinh hiềm giáo này

Không oán, ban cho họ.

Trải kiếp vì quần mê,

Trải đủ các khổ độc,

Giáo này là không thiện?

Niệm Phật còn nên tu

Huống được lợi  ích lớn,

Lại nói nghĩa thâm diệu.

Giả sử đầu bị cháy

Trước nên cứu Giáo này.

Tự tại vui Bồ-đề

Thánh đức hằng đạm bạc,

Đều do Giáo này sinh,

Chứng đó, quên lời nói

Thế Hùng chân thật giáo,

Tông tà nghe đều kinh,

Ma vương tâm phiền não,

Trời, người sinh hoan hỉ.

Đại địa không phân biệt

Tà, chính đều được ích,

Tạm nghe điều Phật nói

Giống kim cương đã thành,

Nếu chưa khỏi chuồng, lồng

Rốt sẽ vượt chỗ sinh tử.

Nghe pháp mới nghĩ nghĩa,

Như thật khéo tu hành,

Lần lượt ba tuệ tròn,

Giáo khác đều không thế,

Chỉ mình Ngưu Vương Tiên

 Diệu hợp lý chân viên.

Không chăm tu giáo này

Chắc như là có oán.

Tạm nghe trừ khát ái

Tà kiến sinh tâm tin,

Người nghe sinh hoan hỉ

Nương đó đủ tịnh giới

Đản sinh ứng thời vui

Lớn lên đời đều vui,

Giáo hóa lớn lợi sinh,

Thị hiện diệt, bi cảm.

Tán vịnh trừ các độc,

Nhớ nghĩ cảm yên vui,

Tìm cầu phát tuệ sáng,

Hiểu ngộ tâm tròn sạch,

Người gặp khiến tôn quý,

Kính hầu sinh thắng tâm,

Thừa sự cảm nhân phúc,

Thân phụng trừ ưu khổ;

Đủ Giới luật tịnh khiết,

Tĩnh lự tâm lắng yên,

Trí Bát-nhã viên dung,

Phúc Hằng sa tích tụ.

Ngài bao dung, Ngài dạy,

Và Pháp được Ngài chứng,

Trong giác: Thấy, nghe, nghĩ

Báu này thù thắng nhất;

Trôi nổi, làm bến đỗ 

Hại mình, luôn cứu giúp,

Người sợ, khiến quy y

Khiến họ đến giải thoát;

Giới tịnh thành diệu khí,

Ruộng tốt sinh quả ngon;

Bạn lành hay nhiêu ích

Tuệ mạng do đây thành;

Ban ân và hòa, nhẫn

Người thấy đều vui thích;

Rộng tụ tâm nhân, từ

Công đức không giới hạn,

thân, khẩu không lỗi ác

Ái kính do đó sinh;

Cát tường các nghĩa lợi

Đều nương đức Thiện Thệ,

Đạo Sư khéo khuyến dụ:

Lười, mạn khiến siêng gắng,

Đẳng trì điều tâm cong,

Đường mê về chính đạo;

Người thiện căn thành thục

Ngự giá dùng ba thừa,

Người sầu não khó điều

Do bi nên tạm xả.

Với gặp nạn hay cứu

An lạc khuyên khéo tu.

Thương xót chúng sinh khổ

Lợi lạc các quần phẩm;

Trái, hại khởi từ niệm

Người làm sai sinh lo,

Bạo nghịch khởi bi tâm

Thánh đức không cách tán,

Ân sâu nói chẳng tận

Thế gian đều cùng biết

Ngược lại mà sinh oán

Ngài luôn khởi từ mẫn

Quên thân cứu tất cả

Việc mình chẳng sinh lo.

Với những người đọa lạc

Thân gần vì cứu giúp

Hai thời hành ân đức

Vượt quá các thế gian

Nơi tối thường chiếu sáng

Ngài là tim đèn tuệ

Được trời, người thọ dụng

Tùy loại có khác nhau,

Chỉ vị chính pháp Ngài

Bình đẳng không sai khác,

Không quan tâm dòng họ

Sắc lực và tuổi trẻ

Tùy người có thiện căn

Mong cầu đều toại nguyện.

Rộng hiện sự hiếm có

Vô duyên khởi đại từ

Thánh chúng và trời, người

Đều chắp tay, thân gần

Ôi! Sinh tử đáng sợ!

Phật ra đời sáng rỡ

Lợi ích các chúng sinh

Đều thỏa được ước mong

Người ác cùng chỗ ở

Bỏ vui, lấy buồn, nguy

Hủy báng, não hại thân

Giống như nhận thắng đức;

Vì vật chịu cần khổ

Ngài không nhiễm trước tâm

Đức hiếm có Thế Tôn

Khó dùng danh ngôn nói

Ngài vào đường hiểm ác

Lúa ngựa và ngưu thương

Khổ hành trải sáu năm

An thọ tâm không thoái.

Ngài ở vị tối thắng

Bi mẫn độ quần sinh

Ví gặp người hèn kém

Thân lời càng kính nhường;

Hoặc là chủ tôn quý

Ngài không tâm kiêu mạn

Hạ mình độ chúng sinh

Khiêm cung như người hầu.

Căn cơ muôn vạn loại

Luận khó trăm nghìn mối

Như Lai tiếng từ thiện

Một đáp đều dứt nghi

Ân sâu từng che chở

Bội đức khởi oán sâu

Ngài quán cảnh cực oán

Giống như ân rất nặng,

Oán chuyển hại với Ngài

Ngài với oán chuyển thân,

Kia luôn tìm lỗi Phật

Phật lấy đó làm ân;

Tông tà tật đố thỉnh

Cơm độc với hầm lửa

Bi nguyện hóa ao mát

Cơm độc thành cam lồ;

Dùng Nhẫn điều sân nộ

Lời thật trừ chê báng

Lực từ phục ma oán

Chính trí hàng tà độc

Quần mê từ vô thỉ

Tập ác làm thành tánh

Chỉ Ngài diệu hành tròn

Một niệm đổi thành thiện.

Ôn nhu hàng bạo nghịch

Bố thí phá xan tham

Lời lành phục nói thô

Chỉ Ngài phương tiện khéo

Bẻ kiêu mạn Nan-Đề

Khởi từ với Ương Quật

Điều phục được khó điều

Ai không khen hiếm có.

Chỉ thánh đệ tử Ngài

Pháp vị tâm vui thần

Tòa cỏ lấy làm an

Giường vàng không phải quý.

Khéo biết tính căn dục

Nhiếp hóa tùy cơ duyên

Hoặc đợi có người thỉnh

Hoặc không hỏi tự nói

Bắt đầu từ Thí, Giới

Lần lượt sinh tịnh tâm;

Sau nói pháp chân thật

Rốt ráo khiến viên chứng.

Hãi sợ chốn trôi dạt

Chỉ Phật đáng quy y

Dũng mãnh Đại Từ Tôn

Cứu vớt khắp quần phẩm

Mây thân khắp Pháp giới

Mưa Pháp tẩy cõi trần

Ứng hiện mỗi chẳng đồng

Tùy cơ nên có khác

Khéo tịnh không tranh cãi

Chỉ Ngài phụng sự được

Rộng lợi ích trời, người

Hoặc nên khởi cúng dường.

Thân, khẩu không vọng động

Khéo độ khắp quần mê

Lời nói khéo tương ưng

Đức này chỉ Phật có.

Lâu tu ba nghiệp tịnh

Diệu thụy hiện vô biên

Xét khắp các thế gian

Chưa từng có đức này

Huống với người cực ác

Thuần hành bi tối thượng

Lợi khắp các chúng sinh

Dũng mãnh thêm tinh tiến.

Người Thanh văn biết Pháp

Nơi Ngài thường phụng sự

Giả sử chứng Niết-bàn

Rốt gọi là mang nợ;

Các vị Thánh chúng ấy

Vì mình mà tu học

Do bỏ tâm lợi sinh

Chẳng gọi là trả nợ

Đã giác giấc vô minh

Bi quán khắp các phương

Khởi chuyên cần gánh vác.

Ma oán dấy não hại

Lấy Lực Phật trừ được

Trong công đức vô úy

Đây chỉ bày phần ít

Tâm bi độ tất cả

Thánh ý tuyệt mong cầu

Làm lợi thí tất cả

Mọi sự đều trọn vẹn.

 Như Lai pháp thắng diệu

 Nếu mà dời đổi được

 Thì Điều Đạt, Thiên Tinh

 Không nên vào Giáo này.

 Trong lưu chuyển vô thỉ

 Chẳng lợi ích cho nhau

 Do đó Phật ra đời

 Khai thị, dạy chúng sinh

 Lộc Uyển độ Câu Lân

 Kiên Lâm độ Tu Bạt

 Cõi này hết căn duyên

 Oan trái không còn sót.

 Pháp luân chuyển đã lâu

 Giác ngộ các quần mê

Hằng sa người thọ học

Ba Hữu đều được lợi

Dùng Kim Cang thắng định

Tự phá ngục chắc thân

Không bỏ tâm đại bi

Tự hóa còn phân bố

Hai lợi làm đã đủ

Hai thân Sắc, Pháp tròn

Cứu nhiếp nhất-xiển-đề

Song Lâm hiển Phật tính

Tâm bi suốt ba Hữu

Hình sắc ứng mười phương

Phân thân làm lúa gạo

Ngài bèn vào viên tịch

Lành thay! Hành kỳ đặc

Thân công đức hiếm có

Các pháp môn Đại Giác

Thế gian chưa từng có

Ân tuôn khắp hàm thức

 Thân, ngữ luôn lắng trong

 Phàm ngu bội Thánh ân

 Với Ngài khởi chê, oán.

Tạng báu pháp tụ thật không bờ

 Nguồn đức, biển phúc thật khó dò

 Nếu có chúng sinh từng lễ Ngài

Lễ ấy cũng gọi là phúc lành

Công thần đức Thánh không cùng tận

Con trí kém, dụ như bụi nhỏ

Muốn khen núi công đức Như Lai

Ngước lên, khiếp sợ, nên dừng lại

Cảnh vô lượng, vô số, vô biên

Lý khó nghĩ, khó thấy, khó chứng

Chỉ mình Thánh trí Phật biết rõ

phàm ngu có thể xưng tán!

Một lông, một tướng đầy pháp giới

Một hành, một đức suốt nguồn tâm

Sạch trong rộng lớn như ao thơm

Chữa được chúng sinh phiền não khát

Con khen biển công đức Mâu-Ni

Nương nghiệp thiện này đến Bồ-Đề

Nguyện khắp hàm sinh phát thắng tâm

Vĩnh viễn lìa thức phàm ngu vọng.

 

Một trăm năm mươi bài kệ xưng tán Phật

***

 

Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11932)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11335)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12059)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12550)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10757)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17968)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11718)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9938)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10166)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12345)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11233)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14319)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12089)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15353)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11995)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12391)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11157)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12073)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10599)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12550)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13155)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14811)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12668)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16540)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19633)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13103)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12652)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12249)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11834)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10894)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13492)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11938)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11836)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12756)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15656)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12887)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9856)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18007)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11153)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9064)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12170)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13035)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10292)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12178)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15297)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16592)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12209)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11461)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14261)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19688)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14138)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24596)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10677)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12484)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant