Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Trăm Năm Mươi Bài Kệ Xưng Tán Phật

05 Tháng Tám 201623:14(Xem: 15299)
Một Trăm Năm Mươi Bài Kệ Xưng Tán Phật

MỘT TRĂM NĂM MƯƠI BÀI KỆ XƯNG TÁN PHẬT

  Tôn Giả Ma-Chí-Lợi Chế-Thác tạo

 

Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn.

Đại Đường, Sa-môn Nghĩa Tịnh dịch Phạn-Hán, tại chùa Na-Lan-Đà, Ấn-Độ.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức quốc dịch Hán-Việt,
tại thư phòng chùa Viên Giác, An Cư Kiết Hạ 2007, Phật lịch 2551.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính lần thứ nhất xong ngày 5 tháng 8 năm 2016.

 

 Tôn Giả Ma Chí Lợi Chế Thác

Thế Tôn thù thắng nhất

Khéo đoạn các nhân ác,

Vô lượng thắng công đức

Cùng tụ thân Như Lai.

Chỉ Phật đáng quy y

Đáng xưng tán, thừa sự.

Người suy nghĩ như lý

Nên trụ giáo lý này.

Các tập, phiền não ác

Đấng Hộ Thế đã trừ,

Phúc, trí đều viên mãn

Chỉ Ngài không thối thất.

Người tâm sinh ác kiến

Khởi hiềm hận Thế Tôn

Xét tìm nghiệp thân, khẩu,

Chẳng thể được khiếm khuyết.

Ghi nhớ:Được thân người

Nghe pháp sinh hoan hỉ,

Ví như trong biển lớn

Rùa mù gặp bọng cây.

Mất niệm luôn rong ruổi

Nghiệp hoặc rớt hầm sâu.

Nên con dụng ngôn từ

Tán Phật công đức thật

Mâu-Ni vô lượng cảnh

Thánh đức không ngằn mé.

Vì mong cầu lợi mình

Con nay khen phần nhỏ.

Kính lễ Vô Sư Trí

Tính các sự hiếm có,

Phúc, tuệ và uy quang

Ai biết được số lượng!

Như Lai đức vô hạn

Không sánh, chẳng thể nói.

Con nay cầu phúc lợi

Dùng danh giả tán thán,

Lực trí con yếu cạn

Phật đức không bến bờ,

Chỉ nguyện Đại Từ Bi

Cứu con chẳng chỗ nương.

Oán thân trọn bình đẳng,

Khởi đại bi Vô Duyên

Với khắp chúng sinh giới

Hằng làm bạn chân thiện.

Nội tài còn xả được

Huống gì là ngoại tài,

Ngài không tâm lẫn tiếc

Người cầu đều mãn nguyện;

Đem thân hộ thân người,

Dùng mạng chuộc mạng người,

Toàn thân cứu chim câu

Hoan hỉ không lẫn tiếc.

Ngài không sợ đạo ác,

Cũng chẳng tham đường lành,

Chỉ vì tâm thanh khiết

Giới luật do đây thành.

Thường lìa các tà vạy,

Luôn gần người ngay thật.

Các nghiệp vốn tính không,

Chỉ ở nghĩa đệ nhất.

Các khổ bức bách thân

Ngài khéo an ủi được.

Chính trí đoạn các hoặc,

Có lỗi, trọn khởi bi,

Bỏ mạng cứu khổ người

Sinh hoan hỉ vô lượng:

Như chết bỗng sống lại

Hỉ này lại hơn thế.

Oán đối hại thân kia

Tất cả thời phiền não,

Chẳng nhìn lỗi ác họ

Thường khởi tâm đại bi,

Gieo khắp giống Bồ-Đề

Tâm thường luôn trân quý.

Đại Hùng trí nan thắng

Đấng không ai sánh kịp,

Quả giác không gì sánh,

Khổ hành là chính nhân,

Do đó chẳng kể thân

Chăm tu các thắng phẩm;

Phú quý hay nghèo hèn

Đại Bi bình đẳng dẫn,

Trong các sự khác nhau

không tưởng cao thấp.

Quả đẳng trì thắng lạc (đẳng trì: Thiền định)

Tâm khôngtham trước.

Tế khắp chư quần sinh

Đại bi không gián đoạn.

Ngài tuy gặp cực khổ

Nơi vui chẳng mong cầu,

Các công đức diệu trí

Thù thắng không gì hơn.

Các pháp tạp nhiễm, tịnh

Trừ hư ngụy, lấy chân,

Như vua Ngỗng thanh tịnh

Hút lấy sữa, nhả nước.

Trong vô lượng ức kiếp

Dũng mãnh hướng Bồ-đề,

Trong mỗi mỗi kiếp ấy

Bỏ thân cầu diệu pháp;

Ba tăng-kỳ số lượng

Tinh cần không nhàm mỏi,

Giữ đây như bạn tốt

Để chứng diệu Bồ-đề.

Ngài không tâm tật đố,

Với kém trừ tưởng khinh,

Bình đẳng không tranh hơn,

Thắng hành trọn viên thành.

Ngài chỉ trọng làm nhân

Không cầu tròn quả vị,

Tu khắp các thắng nghiệp

Chúng đức tự thành mãn.

Chăm tu pháp xuất ly

Vượt quá các đỉnh cao;

Nơi ngồi, nằm, kinh hành,

Chẳng không làm ruộng phước;

Bạt trừ các lỗi nhiễm

Tăng trưởng đức thanh tịnh,

Đây do hành xưa thành

Chỉ Ngài vô thượng nhất.

Các phúc đều viên mãn

Các lỗi đều đã đoạn,

Tư lương mãi tích tụ

Đều quy thân Điều Ngự.

Muốn tìm các thí dụ

Không gì sánh được Phật,

Quán khắp các thế gian

Tai hoạnh nhiều chướng não,

Ví có chút phần thiện

Dễ gì so sánh được.

Lìa xa các lỗi họa

Lắng trong an bất động.

Các thiện căn tối thắng

Không thể ví dụ được.

Trí Như Lai sâu xa

Không đáy không ngằn mé,

Thế sự dụ thân Phật

Vết chân trâu- biển lớn;

Nhân sâu gánh tất cả

Thế gian không gì sánh;

Đại địa giữ sức nặng

Dụ đây thật là nhẹ.

Tối ngu si đã trừ

Sáng Mâu-Ni chiếu khắp,

Trí thế không thể dụ

Lửa đóm với nhật quang.

Ba nghiệp Như Lai sạch

Ao trong sáng trăng thu,

Đời sạch ví thân Phật

Đều thành tính bụi nhơ.

Như được dẫn ở trên

Những thù thắng thế gian

Pháp Phật lại vượt quá

Thế sự thật đáng thương.

Tụ trân bảo Thánh pháp

 Phật ở đỉnh cao nhất

Trong không dụ, không sánh

Chỉ Phật với Phật thôi.

Biển thánh trí Như Lai

Tùy vui tán phần ít,

Lời thô tán thắng đức

Đối đây thật hổ thẹn.

Thế tục thấy hàng ma

Tất cả hoặc quy phục

Quán kia đồng chân tính

“Ngã” cho nhẹ như lông.

Giả sử chiến trận lớn

Trí dũng chiến thắngđược,

Thánh đức siêu thế gian

Thắng kia không ví được.

Tiếp sau khi hàng ma

Trong phần sau của đêm

Đoạn các tập phiền não

Thắng đức đều viên mãn.

Thánh trí trừ các tối

Siêu quá nghìn mặt trời

Hàng phục các tông tà

Hiếm có không gì sánh.

Ba thiện căn viên mãn

Vĩnh diệt tham, sân, si

Tập nhân trọn đã trừ

Thanh tịnh không thể dụ.

Ngài hằng tán diệu pháp

Pháp bất chính hằng không,

Với chỗ chính, tà này

Tâm không có yêu ghét.

Với thánh chúng đệ tử

Và thầy trò ngoại đạo

Trong thuận hay đối nghịch

Tâm Phật không có hai.

Với đức không tình nhiễm,

Người có đức, chẳng tham.

Lành thay, cực không cấu

Thánh trí hằng tròn sạch.

Các căn thường trong lặng

Vĩnh lìa tâm mê vọng

Ở trong các cảnh giới

Tự thấy với hiện lượng.

Niệm tuệ cùng chân tế

Phàm ngu không lường được,

Khéo an lập ngữ ngôn

Chứng chỗ vô ngôn kia.

Sáng tịch tĩnh vô ngại

Sáng trong càng rực rỡ

Diệu sắc thế hiếm có

Ai không tâm cung kính!

Hoặc tạm gặp lần đầu

Hoặc lại thường chiêm ngưỡng

Diệu Tướng Tôn không hai

Trước sau trọn hoan hỉ.

Thân uy đức tối thắng

Người quán tâm không chán,

Dù trải vô lượng kiếp

Hân ngưỡng như mới gặp.

Đức thể của sở y,

Đức tâm của năng y,

Tính, tướng cùng dung thông

Năng, sở đầu không khác.

Đức Thiện Thệ như thế

Cùng họp thân Như Lai

Lìa tướng hảo thân Phật

Nơi khác chẳng có an.

Con nhân phúc kiếp xưa

Được gặp Điều Ngự Sư,

Ngưỡng tán núi công đức

Xa báo đáp lời Ngài.

Tất cả loài hữu tình

Đều bị phiền não giữ,

Chỉ Phật khéo trừ được,

Do bi trụ thế lâu

Ai sẽ trước kính lễ?

Chỉ Phật Đại Bi Tôn,

Thánh đức siêu thế gian

Bi nguyệnnơi sinh tử,

Ngài ở vui tịch tĩnh

Vào trược vì quần sinh,

Vĩnh kiếp mãi tinh cần

Từ tâm vì tất cả

Từ chân về lợi tục

 Do bi tâm dẫn sinh,

Như chú dùng trừ rồng

Nổi mây trút cam lộ.

 Thường ở vị thắng định

  Bình đẳng quán oán thân,

  Người hung hiểm, cuồng điên

Đầu thân về thánh đức.

Thần thông sư tử hống

 Tuyên nói Tam Giới Tôn

Lâu đã nhàm tiếng tăm

Do bi tự xưng tán.

Thường tu làm lợi người

 Chưa từng tâm tự lợi,

Từ niệm khắp chúng sinh

Với mình không riêng ái.

Bi nguyện không biên giới

Theo căn độ quần sinh,

Tùy chỗ đều nhiêu ích

Như đồ ăn cúng khắp.

Thâm tâm niệm tất cả

Chưa từng bỏ chốc lát.

Lợi họ, lại gặp nhục

Lỗi họ, chẳng do Phật.

Âm từ nói diệu nghĩa

Chắc thật chẳng hư dối,

Rộng, lược tùy cơ duyên

Vơi, đầy tùy thời chuyển.

Nếu nghe Ngài diễn nói

Ai chẳng vui hiếm có;

Khiến kia dù ác tâm

trí hoặc quy tín.

Nghĩa, từ luôn lành khéo,

Hoặc lại nói lời thô

Lợi ích trọn không uổng

Nên đều thành chân diệu,

Nhu nhuyến hoặc thô cứng

Tùy sự độ chúng sinh,

Thánh trí tâm vô ngại

Đều một vị bình đẳng.

Lành thay, nghiệp vô cấu

Thiện xảo như thầy khéo;

Thành thân vi diệu này

 Nói lời trân bảo ấy

Người thấy đều hoan hỉ

Nghe nói đều mở tâm;

Mặt đẹp nói từ diệu

Như trăng tuôn cam lồ;

Mây từ xối mưa pháp

Tẩy sạch được dục trần,

Như Kim súy điểu vương

Ăn diệt các rồng độc;

 Dứt được các tăm tối

Như sáng nghìn mặt trời,

Phá diệt núi ngã mạn

Như chày của Đế-Thích.

Hiện chứng không hư dối,

Tĩnh lự trừ loạn tâm,

Như thật thiện tu hành

Ba sựđều viên mãn.

Mới nghe điều Phật nói

Tâm hỉ đã mở sáng,

Từ đây khéo tư duy

Tiêu trừ các cấu nhiễm.

Gặp khổ được an ủi,

Phóng dật, khiến sinh sợ,

Đắm vui, khuyên nên nhàm,

Tùy sự đều khai mở:

Thượng trí chứng pháp hỉ,

Bậc trung sinh thắng giải,

Nông, yếu phát tâm tin

Lời Ngài nhiêu ích khắp.

Khéo nhổ các tà kiến

Dẫn hướng đến Niết-bàn,

Tội cấu được tiêu trừ,

Do Ngài giáng mưa pháp.

Nhứt thiết trí vô ngại

Hằng trụ trong chánh niệm,

 Như Lai thọ ký riêng

Luôn luôn không hư dối,

Chẳng phi xứ, phi thời,

Cũng chẳng chuyển “phi khí”.

Lời Ngài nói không uổng,

Nghe rồi đều chăm tu,

Một đường thắng phương tiện,

Không tạp, tu học được.

Đầu, giữa, cuối đều lành

Không có giáo nào khác.

Như thế một hướng thiện

Cuồng, ngu khởi tâm báng,

Nếu sinh hiềm giáo này

Không oán, ban cho họ.

Trải kiếp vì quần mê,

Trải đủ các khổ độc,

Giáo này là không thiện?

Niệm Phật còn nên tu

Huống được lợi  ích lớn,

Lại nói nghĩa thâm diệu.

Giả sử đầu bị cháy

Trước nên cứu Giáo này.

Tự tại vui Bồ-đề

Thánh đức hằng đạm bạc,

Đều do Giáo này sinh,

Chứng đó, quên lời nói

Thế Hùng chân thật giáo,

Tông tà nghe đều kinh,

Ma vương tâm phiền não,

Trời, người sinh hoan hỉ.

Đại địa không phân biệt

Tà, chính đều được ích,

Tạm nghe điều Phật nói

Giống kim cương đã thành,

Nếu chưa khỏi chuồng, lồng

Rốt sẽ vượt chỗ sinh tử.

Nghe pháp mới nghĩ nghĩa,

Như thật khéo tu hành,

Lần lượt ba tuệ tròn,

Giáo khác đều không thế,

Chỉ mình Ngưu Vương Tiên

 Diệu hợp lý chân viên.

Không chăm tu giáo này

Chắc như là có oán.

Tạm nghe trừ khát ái

Tà kiến sinh tâm tin,

Người nghe sinh hoan hỉ

Nương đó đủ tịnh giới

Đản sinh ứng thời vui

Lớn lên đời đều vui,

Giáo hóa lớn lợi sinh,

Thị hiện diệt, bi cảm.

Tán vịnh trừ các độc,

Nhớ nghĩ cảm yên vui,

Tìm cầu phát tuệ sáng,

Hiểu ngộ tâm tròn sạch,

Người gặp khiến tôn quý,

Kính hầu sinh thắng tâm,

Thừa sự cảm nhân phúc,

Thân phụng trừ ưu khổ;

Đủ Giới luật tịnh khiết,

Tĩnh lự tâm lắng yên,

Trí Bát-nhã viên dung,

Phúc Hằng sa tích tụ.

Ngài bao dung, Ngài dạy,

Và Pháp được Ngài chứng,

Trong giác: Thấy, nghe, nghĩ

Báu này thù thắng nhất;

Trôi nổi, làm bến đỗ 

Hại mình, luôn cứu giúp,

Người sợ, khiến quy y

Khiến họ đến giải thoát;

Giới tịnh thành diệu khí,

Ruộng tốt sinh quả ngon;

Bạn lành hay nhiêu ích

Tuệ mạng do đây thành;

Ban ân và hòa, nhẫn

Người thấy đều vui thích;

Rộng tụ tâm nhân, từ

Công đức không giới hạn,

thân, khẩu không lỗi ác

Ái kính do đó sinh;

Cát tường các nghĩa lợi

Đều nương đức Thiện Thệ,

Đạo Sư khéo khuyến dụ:

Lười, mạn khiến siêng gắng,

Đẳng trì điều tâm cong,

Đường mê về chính đạo;

Người thiện căn thành thục

Ngự giá dùng ba thừa,

Người sầu não khó điều

Do bi nên tạm xả.

Với gặp nạn hay cứu

An lạc khuyên khéo tu.

Thương xót chúng sinh khổ

Lợi lạc các quần phẩm;

Trái, hại khởi từ niệm

Người làm sai sinh lo,

Bạo nghịch khởi bi tâm

Thánh đức không cách tán,

Ân sâu nói chẳng tận

Thế gian đều cùng biết

Ngược lại mà sinh oán

Ngài luôn khởi từ mẫn

Quên thân cứu tất cả

Việc mình chẳng sinh lo.

Với những người đọa lạc

Thân gần vì cứu giúp

Hai thời hành ân đức

Vượt quá các thế gian

Nơi tối thường chiếu sáng

Ngài là tim đèn tuệ

Được trời, người thọ dụng

Tùy loại có khác nhau,

Chỉ vị chính pháp Ngài

Bình đẳng không sai khác,

Không quan tâm dòng họ

Sắc lực và tuổi trẻ

Tùy người có thiện căn

Mong cầu đều toại nguyện.

Rộng hiện sự hiếm có

Vô duyên khởi đại từ

Thánh chúng và trời, người

Đều chắp tay, thân gần

Ôi! Sinh tử đáng sợ!

Phật ra đời sáng rỡ

Lợi ích các chúng sinh

Đều thỏa được ước mong

Người ác cùng chỗ ở

Bỏ vui, lấy buồn, nguy

Hủy báng, não hại thân

Giống như nhận thắng đức;

Vì vật chịu cần khổ

Ngài không nhiễm trước tâm

Đức hiếm có Thế Tôn

Khó dùng danh ngôn nói

Ngài vào đường hiểm ác

Lúa ngựa và ngưu thương

Khổ hành trải sáu năm

An thọ tâm không thoái.

Ngài ở vị tối thắng

Bi mẫn độ quần sinh

Ví gặp người hèn kém

Thân lời càng kính nhường;

Hoặc là chủ tôn quý

Ngài không tâm kiêu mạn

Hạ mình độ chúng sinh

Khiêm cung như người hầu.

Căn cơ muôn vạn loại

Luận khó trăm nghìn mối

Như Lai tiếng từ thiện

Một đáp đều dứt nghi

Ân sâu từng che chở

Bội đức khởi oán sâu

Ngài quán cảnh cực oán

Giống như ân rất nặng,

Oán chuyển hại với Ngài

Ngài với oán chuyển thân,

Kia luôn tìm lỗi Phật

Phật lấy đó làm ân;

Tông tà tật đố thỉnh

Cơm độc với hầm lửa

Bi nguyện hóa ao mát

Cơm độc thành cam lồ;

Dùng Nhẫn điều sân nộ

Lời thật trừ chê báng

Lực từ phục ma oán

Chính trí hàng tà độc

Quần mê từ vô thỉ

Tập ác làm thành tánh

Chỉ Ngài diệu hành tròn

Một niệm đổi thành thiện.

Ôn nhu hàng bạo nghịch

Bố thí phá xan tham

Lời lành phục nói thô

Chỉ Ngài phương tiện khéo

Bẻ kiêu mạn Nan-Đề

Khởi từ với Ương Quật

Điều phục được khó điều

Ai không khen hiếm có.

Chỉ thánh đệ tử Ngài

Pháp vị tâm vui thần

Tòa cỏ lấy làm an

Giường vàng không phải quý.

Khéo biết tính căn dục

Nhiếp hóa tùy cơ duyên

Hoặc đợi có người thỉnh

Hoặc không hỏi tự nói

Bắt đầu từ Thí, Giới

Lần lượt sinh tịnh tâm;

Sau nói pháp chân thật

Rốt ráo khiến viên chứng.

Hãi sợ chốn trôi dạt

Chỉ Phật đáng quy y

Dũng mãnh Đại Từ Tôn

Cứu vớt khắp quần phẩm

Mây thân khắp Pháp giới

Mưa Pháp tẩy cõi trần

Ứng hiện mỗi chẳng đồng

Tùy cơ nên có khác

Khéo tịnh không tranh cãi

Chỉ Ngài phụng sự được

Rộng lợi ích trời, người

Hoặc nên khởi cúng dường.

Thân, khẩu không vọng động

Khéo độ khắp quần mê

Lời nói khéo tương ưng

Đức này chỉ Phật có.

Lâu tu ba nghiệp tịnh

Diệu thụy hiện vô biên

Xét khắp các thế gian

Chưa từng có đức này

Huống với người cực ác

Thuần hành bi tối thượng

Lợi khắp các chúng sinh

Dũng mãnh thêm tinh tiến.

Người Thanh văn biết Pháp

Nơi Ngài thường phụng sự

Giả sử chứng Niết-bàn

Rốt gọi là mang nợ;

Các vị Thánh chúng ấy

Vì mình mà tu học

Do bỏ tâm lợi sinh

Chẳng gọi là trả nợ

Đã giác giấc vô minh

Bi quán khắp các phương

Khởi chuyên cần gánh vác.

Ma oán dấy não hại

Lấy Lực Phật trừ được

Trong công đức vô úy

Đây chỉ bày phần ít

Tâm bi độ tất cả

Thánh ý tuyệt mong cầu

Làm lợi thí tất cả

Mọi sự đều trọn vẹn.

 Như Lai pháp thắng diệu

 Nếu mà dời đổi được

 Thì Điều Đạt, Thiên Tinh

 Không nên vào Giáo này.

 Trong lưu chuyển vô thỉ

 Chẳng lợi ích cho nhau

 Do đó Phật ra đời

 Khai thị, dạy chúng sinh

 Lộc Uyển độ Câu Lân

 Kiên Lâm độ Tu Bạt

 Cõi này hết căn duyên

 Oan trái không còn sót.

 Pháp luân chuyển đã lâu

 Giác ngộ các quần mê

Hằng sa người thọ học

Ba Hữu đều được lợi

Dùng Kim Cang thắng định

Tự phá ngục chắc thân

Không bỏ tâm đại bi

Tự hóa còn phân bố

Hai lợi làm đã đủ

Hai thân Sắc, Pháp tròn

Cứu nhiếp nhất-xiển-đề

Song Lâm hiển Phật tính

Tâm bi suốt ba Hữu

Hình sắc ứng mười phương

Phân thân làm lúa gạo

Ngài bèn vào viên tịch

Lành thay! Hành kỳ đặc

Thân công đức hiếm có

Các pháp môn Đại Giác

Thế gian chưa từng có

Ân tuôn khắp hàm thức

 Thân, ngữ luôn lắng trong

 Phàm ngu bội Thánh ân

 Với Ngài khởi chê, oán.

Tạng báu pháp tụ thật không bờ

 Nguồn đức, biển phúc thật khó dò

 Nếu có chúng sinh từng lễ Ngài

Lễ ấy cũng gọi là phúc lành

Công thần đức Thánh không cùng tận

Con trí kém, dụ như bụi nhỏ

Muốn khen núi công đức Như Lai

Ngước lên, khiếp sợ, nên dừng lại

Cảnh vô lượng, vô số, vô biên

Lý khó nghĩ, khó thấy, khó chứng

Chỉ mình Thánh trí Phật biết rõ

phàm ngu có thể xưng tán!

Một lông, một tướng đầy pháp giới

Một hành, một đức suốt nguồn tâm

Sạch trong rộng lớn như ao thơm

Chữa được chúng sinh phiền não khát

Con khen biển công đức Mâu-Ni

Nương nghiệp thiện này đến Bồ-Đề

Nguyện khắp hàm sinh phát thắng tâm

Vĩnh viễn lìa thức phàm ngu vọng.

 

Một trăm năm mươi bài kệ xưng tán Phật

***

 

Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10383)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11649)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12054)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13011)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11446)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12381)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17447)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53066)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35492)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21400)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19241)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13321)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16091)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16850)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17587)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13132)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12538)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11612)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11619)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20487)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19578)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18657)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12319)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13865)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15525)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17198)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20199)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14617)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13845)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11712)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22884)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14559)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11653)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13171)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16887)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18349)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11945)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11504)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15854)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12885)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18911)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18425)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15781)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant