Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 2: Thương Chủ

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 4773)
Phẩm 2: Thương Chủ

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

Kinh Đại Bi 2

 

Phẩm 2

THƯƠNG CHỦ

 

Lúc bấy giờ, con của ma vương tên là Thương Chủ, vốn đã có lòng kính tin thâm sâu đối với đức Phật từ lâu, nay nghe Phật sắp nhập niết bàn thì rất đau buồn, vội vàng đến chỗ Phật ngự. Sau khi đảnh lễ đức Phật, ông lui xuống đứng một bên, bạch rằng:

“Cúi xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh, vì đem lại an lạc cho chúng sinh, vì cứu hộ thế gian, làm lợi ích cho khắp trời, người, mà trụ thế lâu một kiếp, không vội nhập niết-bàn! Con cũng vì thương xót trời, người, mà thỉnh cầu như vậy. Bạch đức Thế Tôn! Xin đức Thế Tôn đừng để cho chúng sinh sớm trở thành những kẻ mù tối, không ai dạy dỗ, không ai hướng dẫn, không ai cứu hộ, không có chỗ nương tựa, không có nơi hướng về!”

Đức Phật dạy:

“Này Thương Chủ! Trước đây, thân phụ của ông là Ba Tuần, đã thỉnh cầu Như Lai nhập niết-bàn; và Như Lai đã tùy thuận theo ý của thân phụ ông mà hứa nhập niết bàn. Bởi vậy, hôm nay đã đến lúc Như Lai thực hiện lời hứa ấy mà nhập niết-bàn.”

Thương Chủ lại thưa:

“Bạch đức Thế Tôn! Ông ấy là ma vương Ba Tuần, không phải là thân phụ của con, cũng không phải là bạn tốt của con! Ông ấy thường bảo con giết hại, cho nên, đó là ác tri thức, là oan gia của con. Ông ấy không muốn cho con được an vui, hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn con làm các việc cực ác, hủy báng trời người để gây oán kết thù; không muốn làm lợi ích cho thế gian, mà chỉ muốn làm việc hủy diệt. Ông ấy luôn luôn muốn thổi tắt cây đuốc lớn, ngọn đèn sáng của bậc Đại Trí. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong chốn trời, người, có xuất hiện một kẻ độc ác cùng cực.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có kẻ không phát tâm làm lợi ích cho mình, làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho nhiều chúng sinh.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Trong thế gian có kẻ không muốn làm lợi ích cho trời, người, a-tu-la, sa-môn, bà-la-môn, vân vân; cũng không muốn cho mọi người được hòa hợp, an ổn, mà chỉ muốn tất cả đều phải chịu khổ não.], thì phải biết rằng, kẻ đó chính là ma Ba Tuần vậy. Bạch đức Thế Tôn! Con từng được nghe đức Thế Tôn dạy rằng, có hai hạng người: một là đúng pháp, hai là không đúng pháp. Con nghĩ rằng, lời hứa nhập niết-bàn của đức Thế Tôn đối với Ba Tuần là không đúng pháp; cúi xin đức Thế Tôn đừng giữ lời hứa đó. Xin đức Thế Tôn thương xót chúng sinh mà bỏ lời hứa đó, trụ thế một kiếp để đem lại lợi íchan ổn cho trời người và tất cả chúng sinh. Xin đức Thế Tôn đừng nhập niết-bàn quá sớm!”

Đức Phật bảo Thương Chủ:

“Lành thay! Lành thay! Nếu làm lợi ích cho chúng sinh thì đúng là phải như thế. Này Thương Chủ! Nếu có người dâng hiến phẩm vật lên đức vua, hoặc có người hiến tặng phẩm vật cho vị vương tử hay các vị đại thần, hoặc có người ra sức phòng vệ quốc gia, thành ấp, xóm làng, thì những người này sẽ được vua ban cho chức tước, phước lộc; đến cả con cháu, họ hàng của họ cũng được hưởng ân sủng của vua. Này Thương Chủ! Hôm nay ông đã phát lòng tin trong sạch đối với Như Lai, bậc Pháp Vương vô thượng. Với lòng tin trong sạch đó, ông đã gieo trồng căn lành nơi đất Phật, và ông sẽ hưởng được phước báo. Bây giờ Như Lai nói rõ cho ông biết. Này Thương Chủ! Do ông có căn lành phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ông sẽ là một vị Phật Bích-chi, có danh hiệu là Bi Mẫn. Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, và khi chánh pháp đã diệt rồi, thì ma Ba Tuần rất vui mừng. Do tâm vui mừng đó mà Ba Tuần sẽ rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì, chịu muôn vàn đau khổ. Vì sao vậy? Vì ma Ba Tuần đã sinh tâm vui mừng khi thấy ngọn đèn chánh pháp đã ẩn mất! Này Thương Chủ! Nếu có người nói lời chân thật rằng: [Có người khởi tâm làm ác để tự hại mình, tự hủy hoại mình.], thì nên biết rằng, người đó chính là ma Ba Tuần vậy. Vì sao thế? Này Thương Chủ! Sau khi Như Lai diệt độ, suốt trong thời kì chánh pháp còn trụ thế, Ba Tuần luôn ở tại cung ma; đến khi chánh pháp diệt mất, Ba Tuần vô cùng đắc ý, vui mừng hớn hở, thì liền trong khoảnh khắc, bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì! Này Thương Chủ! Ví như có người trèo lên một cây đầy hoa trái, hái lấy những trái ngon nhất để dùng; hái xong lại chặt đứt cái cành mà mình đang ngồi. Này Thương Chủ! Ý ông thế nào? Người kia lúc ấy có còn ngồi được trên cành cây đã bị chặt đứt nữa không? Lại nữa, người kia đang ngồi trên cây ăn trái một cách an ổn thích thú, bỗng dưng chặt đứt đi cái cành mà mình đang ngồi, thì có thể nói ông ta là người có trí chăng?”

Thương Chủ thưa:

“Dạ thưa không, bạch đức Thế Tôn!”

Đức Phật dạy tiếp:

“Ma Ba Tuần cũng vậy, luôn luôn mong cho Như Lai nhập niết-bàn, luôn luôn muốn hủy diệt chánh pháp do Như Lai nói. Này Thương Chủ! Cho đến bao giờ chánh pháp của Như Lai còn trụ thế, thì ma Ba Tuần vẫn ở trong cung ma; đến khi chánh pháp của Như Lai diệt mất, thì Ba Tuần lấy làm đắc ý, vui mừng hớn hở, cho nên tức khắc bị rơi khỏi cung ma, đọa vào địa ngục A-tì. Này Thương Chủ! Trong thí dụ trên, người đang ngồi trên cây lại chặt đứt cái cành ông ta đang ngồi, thế là tự hại mình; ma Ba Tuần cũng vậy, vì muốn hại người khác mà thành ra tự hại mình. Này Thương Chủ! Sau này, khi ma Ba Tuần đã đọa vào địa ngục A-tì, chịu đau khổ cùng cực, nếu lúc đó ông ấy khởi tâm nghĩ nhớ tới Như Lai, mà tự nói rằng: [Đức Như Lai là bậc chánh biến tri, bậc nói lời chân thật, nói lời không sai quấy; là bậc thân hành động theo luật nghi, miệng nói năng theo luật nghi, ý suy nghĩ theo luật nghi. Ngài là bậc thân làm việc lành, miệng nói việc lành, ý nghĩ việc lành; cho nên có được phước báo an vui, xứng ý; còn ta là kẻ thân làm việc ác, miệng nói việc ác, ý nghĩ việc ác, cho nên phải chịu quả báo đau khổ, không xứng ý. Ngày xưa ta đối với Ngài, thân hành động chỉ tương ứng với việc ác, miệng nói năng chỉ tương ứng với việc ác, ý suy nghĩ chỉ tương ứng với việc ác; do nghiệp báo đó mà nay phải đọa địa ngục, phải chịu đau khổ cùng cực như thế này!] Bấy giờ ma Ba Tuần, do nhớ nghĩ đến những điều Như Lai đã nói mà phát khởi lòng tin trong sạch. Do đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai, mà ngay lúc đó, ma Ba Tuần mạng chung; và từ địa ngục ông ấy được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Vì sao vậy? Này Thương Chủ! Nếu người có ác tâm, làm điều tội lỗi đối với Như Lai, khi mạng chung sẽ đọa vào địa ngục; nếu người đem từ tâm cúng dường Như Lai, không gây ra lỗi lầm gì, khi mạng chung sẽ sinh vào những nơi tốt đẹp ở các cõi trời, người. Người ấy do có căn lành mà sẽ được gặp chư Phật; gặp được chư Phật rồi, người ấy lại tiếp tục gieo trồng căn lành; cứ tuần tự như thế cho đến khi đạt được quả tịch diệt niết-bàn. Này Thương Chủ! Ông đã có lòng tin trong sạch đối với Như Lai; và do căn lành đó mà khi đức Phật Di Lặc ra đời, ông sẽ được gặp Ngài. Được gặp Ngài rồi, ông sẽ có đầy đủ khả năng giáo hóa, khiến cho những chúng sinh còn mê ngủ, buông lung được tỉnh ngộ. Ông sẽ bảo họ rằng: [Quí vị nên dõng mãnh làm các việc lành. Gặp thời đức Phật ra đời là việc rất khó, như hoa ưu đàm, phải trải qua thời gian lâu dài mới nở một lần! Lại nữa, thân người rất khó được, tám nạn rất khó tránh. Được gặp Phật ra đời ở nơi trung châu đại quốc lại càng khó khăn vô cùng. Vì vậy cho nên quí vị hãy cẩn thận, chớ nên buông lung; hãy tinh tấn tu hành, về sau khỏi hối hận!] Này Thương Chủ! Ông bẩm thọ giáo pháp của đức Phật Di Lặc; ông nhiếp lãnh quốc độnhân dân của đức Pháp Vương vô thượng ấy, và thường đem tâm từ, tâm không độc ác, tâm không oán cừu, tâm thương xót, tâm vui vẻ, tâm che chở, để hộ trì quốc độdưỡng dục nhân dân ấy. Do căn lành này mà ông sẽ được bổ xứ ở cung ma, trở thành một vị chúa tể giàu sang, tự tại. Này Thương Chủ! Ông nhờ có căn lành mà thọ hưởng được phước báo lớn lao ở chốn trời người; trải qua tám mươi kiếp như thế, cuối cùng ông sẽ chứng quả Phật Bích-chi, danh hiệu là Bi Mẫn. Vì sao ông được như vậy? Này Thương Chủ! Vì khi vừa nghe tin Như Lai sắp nhập niết- bàn, ông liền phát khởi lòng tin trong sạch đối với Như Lai, vì khởi tâm thương xót chúng sinh, vì mong muốn cho chúng sinh được an vui, ông đã thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu mà khoan nhập niết-bàn; rồi ở trong thời kì pháp vận của đức Phật Di Lặc, ông lại thương xót các chúng sinh còn mê lầm, buông lung, mà giáo hóa, thức tỉnh họ, khiến họ quay về sống với pháp lành. Do nhân duyên đó mà ông được thọ kí làm Phật Bích-chi. Đó là quả báo thiện lành, do căn lành ông có được từ việc thỉnh cầu Như Lai trụ thế dài lâu, khoan nhập niết-bàn. Ông hãy vui mừng ưng ý!”

Lúc bấy giờ Thương Chủ lại bạch lên đức Phật:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu đức Thế Tôn không nhận lời thỉnh cầu của con, mà vẫn quyết định nhập niết-bàn, thì con nguyện từ nay cho đến ngày nào chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người. Vì sao vậy? Vì đức Thế Tôn, ánh sáng quí báu của chúng sinh, sắp xa lìa con, không còn hội họp, con hoàn toàn không còn trông thấy; vậy thì con đâu còn có gì thích thú để vui cười! Ánh sáng của ngọn đèn trí tuệ, cây đuốc trí tuệ lớn nhất, sắp ẩn mất rồi, thì con đâu còn gì nữa để vui mừng! Mặt trời đại trí với vô lượng tia sáng, có năng lực diệt trừ vô minh tối tăm, sắp tắt mất rồi, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Viên ngọc quí của chúng sinh như thế mà con sắp phải xa lìa rồi! Đức Thế Tôn là bậc đo lường được căn tánh chúng sinh, không bỏ sót chúng sinh, cho chúng sinh ánh sáng, không khiến cho chúng sinh gây tội lỗi, không làm cho chúng sinh ngu si; là bậc tối thượng của chúng sinh, không có chúng sinh nào tương tợ, không có chúng sinh nào sánh bằng; là bậc cứu độ tất cả chúng sinh, được chúng sinh cúng dường; là bậc điều phục chúng sinh, bậc thương xót chúng sinh, bậc nói lời chân thật, nói đúng thời, nói trước sau như một; là bậc an trú trong tâm đại từ bi, tâm không chướng ngại đối với chúng sinh, tâm luôn bình đẳng đối với chúng sinh; là bậc không hí luận, không chấp trước vào ngã và ngã sở hữu, không cất chứa, không ỷ lại, không quanh co, không hiểm hóc, không cáu bẩn; là bậc cứu giúp chúng sinh, hướng dẫn chúng sinh, hóa độ chúng sinh, phòng hộ cho chúng sinh, cởi trói cho chúng sinh, dưỡng dục chúng sinh, dạy dỗ chúng sinh, giúp chúng sinh nhớ nghĩ tới căn lành của mình, khiến cho chúng sinh tỉnh ngộ; là bậc nhổ mũi tên độc, bậc y vương trị tâm bệnh, bậc cho thuốc tốt; là bậc rốt ráo vượt thoát biển khổ, bậc đạo sư thuyết pháp; là vị thương chủ sắp khởi hành, vị hướng đạo chỉ cho chỗ nước cạn, người giữ tay lái, người cầm đuốc, người làm ra ánh sáng và chiếu ra ánh sáng rực rỡ; là bậc dẫn đường đưa người đến quốc độ an ổn, xa lìa nơi hoang sơ nguy hiểm; là bậc xa lìa trọn vẹn tham sân si, xa lìa kiêu mạn, xa lìa hết mọi kết sử, mọi phiền não; là bậc điều ngự trượng phu vô thượng, bậc có đầy đủ mười lực, bốn điều không sợ sệt, mười tám pháp không cùng chung; là bậc có đầy đủ vô lượng pháp tạng, bậc thí chủ tối thắng luôn làm cho chúng sinh vui vẻ, bậc luôn an trú trong cảnh giới đại định, bậc trí tuệ vô luợng, trí tuệ không chướng ngại, luôn an trú trong cảnh giới đại tuệ; là bậc đã vượt qua khỏi vũng bùn lầy, đã đến bờ bên kia, an trúbờ bên kia; là bậc an trú ở nơi không còn sợ sệt, dứt trừ nỗi sợ sệt cho tất cả chúng sinh, an ủi tất cả chúng sinh; là chỗ nuơng tựa vững vàng, bền chắc cho chúng sinh như thế, mà sau nửa đêm hôm nay con sẽ phải biệt li, không còn thấy trở lại được nữa! Bạch đức Thế Tôn! Con sẽ không còn được nghe tiếng rống sư tử của đức Thế Tôn ở trước đại chúng nữa, thì con còn có gì để hân hoan xứng ý, để thích thú vui cười! Bạch đức Thế Tôn! Như có những người được hưởng phước lộc của vua, sau khi vua mạng chung rồi, lòng rất buồn khổ. Họ biết ơn vua, nhớ nghĩ đến ơn vua, giữ lòng trung hiếu đối với vua; hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, hoặc nửa tháng cho đến một tháng, họ nhớ tưởng vua mà rơi nước mắt. Bạch đức Thế Tôn! Con cũng như vậy. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, trong suốt thời gian chánh pháp còn trụ thế, con xa lìa năm dục, chuyên giữ gìn đạo hiếu, không ham du hí, không mặc áo đẹp, không dùng tràng hoa, không xoa bột thơm, cũng không thọ hưởng phước báo của trời người.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11614)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11091)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12053)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10746)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10160)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15323)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14313)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12076)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15314)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11986)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12066)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12542)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13146)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12641)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16527)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19624)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13095)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12645)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12235)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11818)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10880)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13471)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11928)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11830)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11619)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15650)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12876)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9851)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9054)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10284)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12174)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15284)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16578)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12187)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11450)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14255)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19658)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14136)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24569)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10667)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant