Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 6: Hộ Trì Chánh Pháp

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5656)
Phẩm 6: Hộ Trì Chánh Pháp

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

Kinh Dai Bi

 Phẩm 6
HỘ TRÌ CHÁNH PHÁP

 


Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Thầy đừng đau buồn nữa! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các chúng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở núi Ưu-lâu-mạn-trà, thuộc thành Ma-du-la, có ngôi già-lam tên Na-trì-ca. Nơi đó sẽ có thầy tì-kheo tên Tì Đề Xa, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Thầy tì-kheo kia sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở ngôi già-lam Na-trì-ca trong núi Ưu-lâu-mạn-trà, sẽ có thầy tì-kheo tên là Đề Tri Ca, có thần thônguy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không mệt mỏi; sẽ khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà còn có ngọn núi tên Ưu-thi-la, ở đó có bốn muôn vị tì-kheo vân tập. Quí vị ấy có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, đầy đủ khả năng, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; vị nào cũng vậy, đối với những người tu hành phạm hạnh thì chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; nói pháp không biết mệt mỏi. Các thầy tì-kheo kia đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, sẽ lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai để đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, bên cạnh núi Ưu-lâu-mạn-trà sẽ có một thầy tì-kheo tên Ưu Ba Cúc Đa, cũng đầy đủ khả nănguy lực lớn như vậy; cũng tu hành phạm hạnh, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người. Nơi ấy cũng sẽ có một ngàn vị A-la-hán, cùng với tám muôn tám ngàn vị tì-kheo tụ hội, cùng bố-tát với nhau một chỗ, cùng làm một pháp yết-ma. Họ đối với nhau bằng tâm chân thành, và cùng ghi nhận những thành tựu của nhau. Họ đều tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông biến hóa, lưu bố rộng rãi chánh pháp của Như Lai, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Thầy tì-kheo Ưu Ba Cúc Đa ấy, cùng với các đệ tử, đều có khả năng nói pháp, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong khắp các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Ba-li-phất có ngôi già-lam tên Bạt-đa-ni, nơi đó có thầy tì-kheo tên A Du Bà Cúc Đa, tu hành phạm hạnh, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám bước giải thoát, thiền địnhtrí tuệ; có uy lực lớn, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng ở thành Ba-li-phất, có ngôi già-lam tên Cưu-cưu-tra, nơi đó có thầy tì-kheo tên Uất Đa La, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Ương-già sẽ có các thầy tì-kheo thiết lập đại hội Vô-già, có vị thượng tọa tên Thiết Đà Sa Trà và hơn một vạn ba ngàn vị A-la-hán tụ hội. Các vị này tu hành phạm hạnh, đều có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Kim-bát-tất-đà sẽ có hai thầy tì-kheo, vốn thuộc dòng Bà-la-môn đi xuất gia; một thầy tên Tì Đầu La, một thầy tên San Xà Da, đều tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, làm lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở thành Bà-kê-đa sẽ có thầy tì-kheo tên Đại Tinh Tấn, tu hành phạm hạnh, có thần thônguy lực lớn, đầy đủ khả năng, nói pháp không biết mệt mỏi, khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ có thầy tì-kheo tên Mạt Điền Đề, đầy đủ ba minh, sáu thần thông, tám bước giải thoát, thiền địnhtrí tuệ, có uy lực lớn, đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi. Bấy giờ ở trong sông Kế-tân của miền Bắc-Thiên-trúc có vô số các loài có sức mạnh như rồng, dạ-xoa, Càn-thát-bà, vân vân, cư trú. Tì-kheo Mạt Điền Đề bèn đến con sông ấy, dùng thần thông biến hóa hàng phục các loài ấy, khiến cho tất cả đều sinh lòng kính tin chánh pháp. Sau đó, tì-kheo Mạt Điền Đề bèn khuyến hóa dân chúng sống trong vùng sông Kế-tân cùng nhau kiến lập một ngôi già-lam, có nhiều ngàn chư vị Thanh-văn qui tụ về cư trú, tu tập. Thầy tì-kheo Mạt Điền Đề này, trong mọi thời khắc, đều làm cho ngôi già-lam ấy thành một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh; khiến cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Công đức của thầy tì-kheo Mạt Điền Đề, Như Lai không thể dùng lời gì để tán dương cho cùng tận.

Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở nước Càn-đà-la thuộc miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có thầy tì-kheo tên là Ca Diếp, có thần thônguy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả; có đầy đủ khả năng, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, tại thành Đắc-xoa-thi-la ở miền Bắc-Thiên-trúc, sẽ có một vị trưởng giả tên Xà Tri Ca, tướng tốt và đoan chánh không ai bằng, giàu có tột bực, rất nhiều của cải châu báu, lại có đầy đủ phước đứctrí tuệ, danh tiếng vang động bốn phương. Ông trưởng giả ấy có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán; siêng năng tích tập thiện căn giác ngộ, có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Trong đời vị lai, khi mãn một ngàn kiếp, ông sẽ thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, danh hiệu của Phật là Phổ Quang, thế giới của Phật tên là Cụ-đại-trang-nghiêm, kiếp đó tên là Tạo-hiền. Này A Nan, thầy đừng lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có kinh thành tên Phú-ca-la-bạt-đế, nhân dân giàu có, an ổn. Nơi đó có nhiều vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ thọ trì kinh điển, có lòng tin sâu xa đối với Như Lai và chư vị Thanh-văn, cung kính cúng dườngtôn trọng, xưng tán. Chư vị Thanh-văn ở nơi đó có vô số đệ tử, đều có thần thônguy lực lớn. Nơi đó cũng có nhiều vị trưởng giả, cư sĩ, nghe nhiều học rộng, có đức vô úy, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả.

Này A Nan! Ở tại kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia, những người cư sĩ tại gia, sau khi mạng chung thì sinh lên cõi trời Đâu-suất, còn những người xuất gia thì lại đọa vào địa ngục. Vì sao vậy? Vì những ngưởi xuất gia ấy không giữ giới, không giữ luật nghi.

Này A Nan! Những người Ba-la-môn, trưởng giả, cư sĩ ở kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế kia sẽ nghĩ như vầy: Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chắc chắn sẽ ẩn mất, vì sao? Vì chư vị tì-kheo tham cầu lợi dưỡng, hủy phạm cấm giới, tâm ý tán loạn, không thích ở chỗ nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định; thường qua lại trong bốn chúng để cùng nhau làm những việc phá giới trái đạo; trong việc giao thiệp với các vị Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩthân hữu thì không cung kính tôn trọng nhau; biếu tặng cơm nước hoa trái cho nhau không theo đúng luật nghi; dâm loạn với vợ người mà không biết hổ thẹn. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia, khi nghe thấy chư vị tì-kheo làm những việc sai trái với chánh pháp như vậy thì ưu phiền và sợ sệt vô cùng, than thở với nhau rằng: Chánh pháp của Phật sắp ẩn mất rồi chăng! Ngay vào lúc đó, cũng ở trong kinh thành Phú-ca-la-bạt-đế, xuất hiện một vị ưu-bà-tắc tên là Pháp Tăng, có thần thông, phước đứcuy lực lớn, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, gìn giữ Kinh, Luận, khéo dùng phương tiện thiện xảo, có trí tuệ chân chánh, chứng được đạo quả. Bấy giờ, vị ưu-bà-tắc ấy, vì muốn cho các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia sinh tâm kính tín, bèn bay lên hư không, chỉ bày, dạy dỗ, nói rằng: [Thưa quí vị! Xin hãy cẩn thận, đừng sợ sệt, đừng nghi ngờ, đừng lo lắng! Chánh pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn đang trụ thế. Xin quí vị hãy phát tâm tinh tấn làm các nghiệp lành, những người chưa ngộ thì giúp cho họ được ngộ, những người chưa đạt thì giúp cho họ được đạt, những người chưa chứng thì giúp cho họ được chứng. Thánh pháp nay vẫn còn đây, xin quí vị hãy mau tìm cầu!] Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ kia nghe được những lời ấy thì vui mừng vô cùng, bèn phát tâm bố thí, tạo các công đức; đối với xá-lợi của Như Lai thì gìn giữ trang nghiêm; đối với chư vị Thanh-văn thì siêng năng cúng dường, nghe phápthọ trì đọc tụng, gìn giữ cấm giới, siêng tu thiền định. Các vị Bà-la-môn, trưởng giảcư sĩ ấy, vì được vị ưu-ba-tắc Pháp Tăng kia chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho được lợi lạc, họ đều qui hướng về con đường thánh thiệnđạo quả niết-bàn.

Này A Nan! Vị ưu-bà-tắc Pháp Tăng kia cũng có đầy đủ khả năng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Như thế đó, này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, cũng sẽ có nhiều người thế tục, có lòng kính tin sâu xa đối với chánh pháp của Như Lai. Những người này, trong quá khứ, đã từng cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ, đối với xá-lợi của Như Lai thì giữ gìn trang nghiêm, đối với chư vị Thanh-văn thì cung kính cúng dường, tôn trọng, xưng tán. Họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người.

Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai, ở miền Bắc-Thiên-trúc sẽ có vị tì-kheo tên Kì Bà Ca xuất hiện ở đời. Vị tì-kheo này, trong đời quá khứ đã từng cung kính cúng dường, gieo trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật; bây giờ phát khởi lòng tin sâu xa nơi giáo pháp đại thừa. Vì thương xót, muốn đem lại lợi íchan ổn cho chúng sinh, nên tì-kheo Kì Bà Ca phát tâm tu họcgiữ gìn pháp tạng Bồ-tát, xưng dương và phát triển giáo pháp đại thừa. Vị tì-kheo ấy thường xem xét các ngôi tháp miếu thờ hình tượng và xá-lợi của Như Lai, thấy nơi nào hư hoại thì sửa sang, dùng vàng để trang trí, dựng tràng phan, bảo cái, treo lưới có gắn phong linh, phát ra âm thanh vi diệu; lại tạo vô số hình tượng của Như Lai, xây cất thêm nhiều tháp miếu, làm cho các chúng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Vì muốn được đầy đủ căn lành giác ngộ, vì thương xót chúng sinh, vì nhiếp thọhộ trì chánh pháp của Như Lai, vì muốn giúp cho những người chưa có lòng kính tin sẽ phát khởi lòng kính tin và tinh tấn tu hành, và cũng vì muốn giúp cho nhiều người có cơ hội gieo trồng căn lành, tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thiết lập đại hội Vô-già.

Này A Nan! Vào thời bấy giờ có nhiều tì-kheo không giữ gìn cấm giới, làm nhiều việc phi pháp, không thích ở nơi nhàn tịnh, bỏ mất niềm vui thiền định, phá giới, trái đạo, hay tranh cãi; ham cất chứa tài vật, mỗi người chiếm riêng một phòng, thường qua lại với người thế tục, xa rời Phật pháp, không có lòng kính trọng đối với những vị tu hành phạm hạnh; những tì-kheo ấy chỉ có hình tướng giống như sa-môn mà thôi! Trong khi đó, cũng có một số ít tì-kheo chuyên cần tinh tấn, tránh xa những nơi ồn ào, luôn có chánh niệm, nhất tâm định tuệ, thường an trú nơi pháp lành, muốn ít, biết đủ, vui với hạnh tu xin ăn, an trú trong dòng giống Thánh nhân, có đức vô úy, nghe nhiều học rộng, giữ gìn Kinh, Luật, Luận. Lúc bấy giờ, tì-kheo Kì Bà Ca giúp các tì-kheo phi pháp kia được mặc áo pháp, tâm được chuyển hóa trở nên nhu thuận, các căn không khiếm khuyết, đầy đủ lòng tin sâu xa, được kính trọng tột bậc. Những người mặc áo pháp đều khởi tâm giữ giới, làm phước điền, thực hành hạnh bố thí, tu tập các căn lành. Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia, sau khi tu tập vô lượng căn lành giác ngộ thì mạng chung, sinh sang thế giới của đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây, cách đây hơn trăm ngàn ức cõi Phật. Ở đó, thầy tì-kheo Kì Bà Ca lại tiếp tục tu hành phạm hạnh, gieo trồng căn lành trải qua tám mươi ức đức Phật. Do căn lành ấy, trải qua chín mươi chín ức kiếp trong đời vị lai, thầy tì-kheo Kì Bà Ca sẽ thành bậc Chánh Giác, Phật hiệuVô Cấu Quang, ở thế giới tên là Nhất-thiết-công-đức-trang-nghiêm.

Này A Nan! Thầy tì-kheo Kì Bà Ca kia cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, làm cho các hàng trời, người phát khởi lòng tin và kính ngưỡng. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời vị lai sẽ có một nước ở vùng biên địa, tên là Xá-ma. Vua của nước đó tên là Đại Thí, phát khởi lòng tin thanh tịnh đối với giáo pháp của Như Lai; tinh cần tu tập, xưng dương, tán tháncúng dường xá-lợi của Như Lai và các vị Thanh-văn. Này A Nan! Vua Đại Thí kia một lòng tôn trọng cúng dường chư vị tì-kheo Thanh-văn trong nước Xá-ma. Trong nước này có đến hơn ba ngàn vị A-la-hán, đều có thần thông, công đứcuy lực lớn, nói pháp không biết mệt mỏi cho những người tu hành phạm hạnh, làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.

Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Sau khi Như Lai diệt độ, ở miền Bắc-Thiên-trúc có thành Hưng-cừ-mạt-đản-na. Dân trong thành có được xá-lợi của Như Lai, bèn tôn trọng cúng dường. Họ dùng tràng hoa, bột thơm, âm nhạc, phướn lọng, y phục, đồ nằm, cùng vàng bạc châu báu để trang nghiêm đạo tràng. Này A Nan! Lúc bấy giờ, trong thành có ngôi tinh xá, rất nhiều người do có lòng tinphát tâm xuất gia, thọ trì cấm giới, tu tập các pháp lành; vô số người tại gia cũng tu tập các pháp lành như vậy.

Này A Nan! Trong số họ có nhiều người giữ giới, nghe nhiều học rộng, có trí tuệ, có lòng tin thanh tịnh, sâu xa đối với giáo pháp của Như Lai; đối với xá-lợi của Như Lai và chư vị Thanh-văn thì chăm lo trang sức cúng dường. Nói chung, đối với Phật Pháp Tăng, họ luôn siêng năng cúng dườnghết lòng hộ trì. Do căn lành đó, sau khi họ thọ hưởng hết phước báo của trời người, có vị sẽ chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, có vị đạt được đạo quả Duyên-giác, có vị đạt được đạo quả Thanh-văn, rồi nhập niết-bàn.

Này A Nan! Do công đức cúng dường như thế, mà những vị đó có được thần thônguy lực lớn như thế; họ cũng làm cho chánh pháp của Như Lai được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Chánh pháp của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi, đem lại lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Xá-lợi và hình tượng của Như Lai sẽ được tôn trí cùng khắp cõi Diêm-phù-đề; đó là chưa nói đến những nơi mà loài người không thể thấy được, như những hình tượng được tôn trí trong cung điện của các loài trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, cưu-bàn-trà, vân vân. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Giáo phápgiới luật của Như Lai sẽ được lưu bố rộng rãi trong các hàng trời, người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10979)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53451)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12875)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16392)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15263)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19055)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19816)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15424)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15243)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15060)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20185)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23732)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12950)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19853)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13175)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28929)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11603)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18184)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16525)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12693)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13125)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12882)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12771)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12900)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13440)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11591)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14142)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17648)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22277)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13345)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14198)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105565)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14502)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19633)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38301)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15421)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34546)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15948)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11266)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15568)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13906)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19292)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13054)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13372)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21486)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17860)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21757)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15969)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15984)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18971)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24599)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant