Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 7: Xá Lợi

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5141)
Phẩm 7: Xá Lợi

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 
Kinh Đại Bi

 

 Phẩm 7
XÁ LỢI

 

Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam hoặc tín nữ nào, hoặc tại gia hoặc xuất gia, phát tâm cúng dường xá-lợi của Như Lai, dù chỉ nhỏ như hạt cải, mà chí thành cung kính, tôn trọng, khiêm cung cúng dường, thì Như Lai nói rằng, do căn lành này mà người đó sẽ đạt được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam hoặc tín nữ nào, phát khởi lòng kính tin, tạo lập tháp miếuhình tượng của Như Lai với lòng tin sâu xa, không chút nghi ngờ, thì Như Lai nói rằng, do căn lành này mà người đó sẽ đạt được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Hoặc có người hiện tại cúng dường Như Lai, hoặc có người sau khi Như Lai diệt độ sẽ cúng dường xá-lợi của Như Lai dù nhỏ như hạt cải, hoặc có người tạo lập tháp miếuhình tượng của Như Lai, hoặc có người phát khởi lòng tin và nhớ nghĩ đến công đức của Phật mà rải một bông hoa trên hư không để cúng dường, thì Như Lai nói rằng, do căn lành này mà người đó sẽ đạt được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Nếu lại có người thấy được thần thônguy lực của Phật mà rải một bông hoa trên không trung để cúng dường, người ấy còn có thể đạt được đạo quả niết-bàn, huống nữa là trong hiện tại thân cận thừa sự cúng dường Như Lai, và sau khi Như Lai diệt độ cúng dường xá-lợi của Như Lai. Này A Nan! Cảnh giới của chư Phật không thể nghĩ bàn, cho nên phước đức của người cúng dường cũng không thể nghĩ bàn. Này A Nan! Nếu có người nhớ nghĩ tới Phật mà phát tâm cúng dường, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung, Như Lai dùng Phật trí thấy biết phước báo của người ấy không thể nghĩ bàn, huống nữa là trong đời vị lai nếu có Phật tử phát khởi lòng kính tin sâu xa, nhớ nghĩ tới công đức của Phật mà mong cầu trí tuệ của Phật. Này A Nan, thầy hãy tin điều đó!”

Nghe Phật dạy như thế, tôn giả A Nan vô cùng vui mừng, liền bạch Phật rằng:

“Thật là hi hữu, bạch đức Thế Tôn! Bây giờ thật đúng lúc, cúi xin đức Thế Tôn dạy rõ về phước báo của người nhớ nghĩ tới Phật mà phát tâm cúng dường, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung. Chư vị tì-kheo nghe lời đức Thế Tôn dạy rồi thọ trì đọc tụng; do đó mà sinh tâm thương xót thế gian, đem lại lợi ích, an ổn cho trời người. Ở đời hiện tại cũng như vị lai, chúng sinh lại được nghe lời dạy của chư vị tì-kheo này, rất vui mừng, sinh lòng kính tin, thường gieo trồng căn lành. Họ nghĩ rằng: [Đức Thích Ca Mâu Niđấng Pháp Vương vô thượng, là bậc đại từ bi, thương xót thế gian, khuyên dạy chúng ta, khiến cho chúng ta phát tâm tinh tấn nhớ nghĩ tới Phật.]”

Tôn giả A Nan bạch xong, đức Phật bảo:

“Này A Nan! Thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ chín chắn, Như Lai sẽ nói về phước báo ấy.”

Tôn giả A Nan bạch:

“Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn! Chúng con đang lắng nghe.”

Đức Phật dạy tôn giả A Nan:

“Nếu có người nào nhớ nghĩ tới Phật, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung để cúng dường, do phước đức ấy mà người đó sẽ được phước báo không thể nói cho cùng; dù người đó, từ đời quá khứ cho đến ngày nay, lưu chuyển trong sinh tử, trải qua kiếp số dài lâu, không thể biết hết được; trong đời vị lai cũng vậy. Nếu có người đem tâm chí thành nhớ nghĩ tới công đức của Phật, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung để cúng dường, thì trong đời vị lai, người đó sẽ được làm Phạm Thiên Vương, Thích Thiên Vương, hoặc Chuyển Luân Thánh Vương, và phước báo của người ấy sẽ không cùng tận. Do căn lành và phước đức không có ngằn mé mà người đó chỉ có một hướng đi tới là đạo quả niết-bàn. Vì sao vậy? Này A Nan! Cúng dường vào ruộng phước chư Phật thì không phải là quả báo hữu vi có ngằn mé, cho nên Như Lai nói người đó chắc chắn sẽ chứng được niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Hoặc có người hiện tại cúng dường Như Lai, hoặc có người sau này cúng dường xá-lợi của Như Lai dù nhỏ như hạt cải, hoặc có người tạo lập tháp miếuhình tượng của Như Lai để cúng dường, hoặc có người do nhớ nghĩ tới Phật mà rải một bông hoa lên không trung để cúng dường, hoặc có người ngồi yên lặng trong nhà, do nhớ nghĩ tới Phật mà rải một bông hoa lên không trung để cúng dường, này A Nan, Như Lai nói những người này sẽ an trú niết-bàn; đó là niết-bàn bậc nhất, niết-bàn rốt ráo, niết-bàn tối thắng, niết-bàn vi diệu, niết-bàn thanh tịnh. Này A Nan! Vì lí do đó, trong các loại ruộng phước thì Phật là ruộng phước tối thắng, là vua của các ruộng phước. Vì sao vậy! Vì cúng dường vào ruộng phước chư Phật thì sẽ được phước báo không cùng tận; không phải là loại phước báo thế gian có thể cùng tận; cho nên, ruộng phước chư Phật là loại ruộng phước bậc nhất. Này A Nan! Chư Phật thuận theo chánh đạo, có thể làm ruộng phước rốt ráo, ruộng phước vô thượng. Những người cúng dường nơi ruộng phước chư Phật, chắc chắn sẽ tiến đến cảnh giới niết-bàn rốt ráo, niết-bàn bậc nhất. Này A Nan! Người rải hoa cúng dường có được công đức như thế, nếu lại có người chỉ nhớ nghĩ tới Phật và một lòng kính tin, Như Lai nói người này cũng sẽ tiến tới cảnh giới niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Không những loài người nhớ nghĩ tới Phật được công đức như thế, mà đến như loài súc sinh, nếu cũng biết nhớ nghĩ tới Phật, thì Như Lai nói rằng, loài súc sinh ấy cũng có căn lành và phước báo, và sẽ được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Thầy hãy quán xét, chư Phật làm ruộng phước cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh sẽ được thần thônguy lực như thế. Vì vậy cho nên, này A Nan, thầy chớ nên đau buồn! Nếu có người thiện nam hoặc tín nữ nào, cho đến loài súc sinh hay các loài chúng sinh khác, phát khởi lòng tin đối với chư Phật, thì sẽ được thần thôngcông đức rộng lớn như thế, như vị cam lồ bậc nhất trong các vị cam lồ. Này A Nan! Thầy đã đem cả việc làmlời nói mà hầu hạ Như Lai với tâm từ hiếu, trước sau như một, luôn luôn an vui, không giận hờn, không oán trách. Này A Nan! Giả sử có người thiện nam hoặc tín nữ, trải qua trọn một kiếp hay ít hơn một kiếp, đem mọi thứ trân quí, cung kính cúng dường chư vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và A-la-hán nhiều như mía, tre, gai, cỏ trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới, này A Nan! Ý thầy thế nào? Phước đức của người thiện nam hoặc tín nữ đó có nhiều không?”

Tôn giả A Nan bạch:

“Bạch đức Thế Tôn! Phước đức của người thiện nam hoặc tín nữ đó rất nhiều.”

Đức Phật dạy:

“Này A Nan! Nếu lại có người, ở trước chư Phật, chỉ cần chắp tayxưng niệm danh hiệu, thì phước đức của người này, nếu so sánh với người trước, nhiều hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn ức lần. Vì sao vậy? Này A Nan! Trong các loại ruộng phước thì chư Phật là ruộng phước tối thượng. Bởi vậy, cúng dường chư Phật sẽ thành tựu được công đức, thần thônguy lực lớn. Này A Nan! Vừa rồi là nói về phước đức cúng dường chư vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán trong ba ngàn đại thiên thế giới; nếu lại có người thiện nam hoặc tín nữ, trải qua trọn một kiếp hay ít hơn một kiếp, đem mọi thứ xứng ý, cung kính cúng dường chư vị Phật Bích-chi nhiều như mía, tre, gai, cỏ trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới; rồi sau khi chư vị Phật Bích-chi ấy diệt độ, lại có người thiện nam hoặc tín nữ xây tháp bảy báu, trọn đời dùng hương hoa, y phục, ngọa cụ, phướn lọng quí báu, chí thành cung kính cúng dường, này A Nan! Ý thầy thế nào? Phước đức của những người thiện nam, tín nữ đó có nhiều không?”

Tôn giả A Nan bạch:

“Bạch đức Thế Tôn! Phước đức của những người thiện nam, tín nữ đó rất nhiều.”

Đức Phật dạy:

“Này A Nan! Nếu lại có người, ở trước Phật, phát khởi lòng tin thanh tịnh, khéo suy nghĩhiểu rõ lời dạy của Phật mà nói như vầy: [Trí tuệ của chư Phật thật không thể nghĩ bàn!] Do căn lành của sự tin hiểu đó mà người này có được phước đức, nếu so sánh với người cúng dường Phật Bích-chi ở trước, thì nhiều hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn ức lần. Vì sao vậy? Này A Nan! Chư Phật Thế Tônlòng từ vô lượng, lòng bi vô lượng, giới vô lượng, định vô lượng, tuệ vô lượng, giải thoát vô lượng, giải thoát tri kiến vô lượng, tu tập vô lượng, chứng đạt vô lượng. Này A Nan! Trí tuệ của chư Phật không thể nghĩ bàn, cảnh giới của chư Phật cũng không thể nghĩ bàn; nếu có người cúng dường bậc không thể nghĩ bàn thì sẽ được phước báo không thể nghĩ bàn. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Thầy sẽ được công đức, thần thônglợi ích lớn. Vì sao vậy? Này A Nan! Thầy đã đem việc làm từ hiếu, lời nói từ hiếu và ý nghĩ từ hiếu, cúng dường Như Lai trong hơn hai mươi năm qua; thầy thọ trì kho tàng pháp bảo của Như Lai; trong những người nghe nhiều học rộng thì thầy là người đứng đầu; trong những người có trí tuệ, biện tài, nói năng khéo léo, hỏi đáp rành mạch, thì thầy cũng là người đứng đầu; thầy có đức vô úy, có trí tuệ chân chính, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; đối với bốn chúng, thầy thuyết pháp không biết mệt mỏi. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, thầy cùng với đại đức Đại Ca Diếp sẽ là các vị đạotối thượng, làm các Phật sự lớn lao. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Thầy sẽ được công đức, thần thônglợi ích lớn.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11533)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12455)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11881)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19477)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13019)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11747)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11519)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12661)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14393)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12520)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13501)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12777)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8990)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16510)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19529)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant