Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 2

03 Tháng Chín 201610:05(Xem: 6460)
Phần 2

Giảng Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại (Phần 2)

Đây là bài pháp thoại thiền sư giảng vào ngày 01 tháng 07, năm 2010, tại thiền đường Hội Ngàn Sao, xóm Hạ, Làng Mai.

 

Bài kệ 4

Thiểu vãng thiện đạo                     少  往  善  道

Thú ác đạo đa                                趣  惡  道  多

Như đế  tri thử                               如  諦  知  此

Nê hoàn tối an                                泥  洹  最  安

Ở đời, ít người được đi trên nẻo thiện,

Trong khi ấy, kẻ đi trên đường ác thì nhiều.

Cứ nhìn vào sự thực mà tìm hiểu

Thì Niết bàn là nơi an toàn nhất.

Thiểu vãng thiện đạo: Thiểu là số ít (thiểu số). Vãng là đi trên con đường (lai vãng). Thiện đạocon đường tốt.

Thú ác đạo đa: Trong khi đó, người hướng về con đường ác thì nhiều, đa số.

Đạocon đường (marga). Trong giáo lý Tứ diệu đế, con đường chánh là sự thật thứ tư. Thiện đạo ở đây là sự thật thứ tư, là con đường bát chánh.

Sự thật thứ nhất là khổ đế (duhkha) 苦 諦, sự thật thứ hai là tập đế 集 諦 (samudaya). Ác đạocon đường ngược với thiện đạo. Vì vậy, sự thật thứ hai cũng là một loại con đường, nhưng không phải đường chánh mà là đường tà. Sự thật thứ ba là diệt đế (nirodha) 滅 諦  và thứ tư là đạo đế (marga) 道 諦. Đạo là con đường, ở đây là con đường lành gọi là thiện đạo, tức bát chánh đạo 八 正 道.

Samudaya là gốc rễ của khổ đau, là nguyên do của khổ đau, là con đường đưa tới khổ đau. Samudaya cũng là một thứ đạo, một tà đạo 邪 道. Ít người đi trên con đường bát chánh đạo, nhiều người đi trên con đường bát tà đạo. Chúng ta phải hiểu như vậy mới đúng nghĩa của kinh. Nếu nói “ít người đi trên đường thiện, nhiều người đi trên đường ác” thì rất thường. Chúng ta phải hiểu kinh như vậy. Tại sao? Tại vì:

Như đế tri thử: Chữ đế có nghĩa là sự thật (satya). Như đế là nhìn vào sự thật mà xét. Sự thật ở đây là Tứ đế (Bốn sự thật). Nhìn vào Tứ đế, mình thấy có bát chánh đạobát tà đạo. Chánh đạo đưa tới sự dập tắt khổ đau, tức đưa tới Niết bàn, hạnh phúc. Tà đạo đưa tới khổ đau, sinh tử.

Câu “như đế thử tri” nói rất rõ: Nhìn vào sự thật qua lăng kính của Tứ diệu đế. Sự thật ở đây phải là Tứ diệu đế. Nhìn sự thật qua nhãn quan của Tứ diệu đế, chúng ta thấy rõ ràng: Những người đi trên đường bát chánh thì ít, những người đi trên con đường tà đạo thì nhiều. Và điều thứ ba chúng ta thấy được là:

Nê hoàn tối an: Niết bàn là cái an toàn nhất.

Khi đọc kinh, chúng ta thấy bốn câu kệ trên không có gì là lạ, nó quá đơn sơ ai cũng có thể hiểu được. Nhưng người học kinh cần phải có cái nhìn sâu hơn. Bài kệ nầy dựa trên giáo lý rất căn bản: Nhìn vào giáo lý Tứ diệu đế chúng ta thấy, người đi trên bát chánh đạo thì ít mà người đi trên bát tà đạo thì nhiều và ít ai thấy được rằng: Niết bàn là cái an toàn nhất.

An toàn, có thể được dịch là safety, sécurité, không có lo sợ. Nhưng chúng ta chỉ có thể hiểu được chữ an khi đối chiếu với bài kệ thứ hai và thứ ba.

Trong bài kệ thứ hai nói: Niết bàn là cái hạnh phúc cao nhất. “Nê hoàn tối khoái”, khoái là khoái lạc. Tối khoái là extreme happiness. Chữ khoái là một chữ rất cổ. Trong bài kệ thứ ba nói: “Nê hoàn tối lạc”, có nghĩa: Niết bàn là cái lạc thú lớn nhất. Bài kệ thứ hai và thứ ba diễn tả Niết bàn là cái lạc thú, cái khoái lạc.

Bài kệ thứ tư diễn tả Niết bàn là cái an toàn. Muốn tìm cái an toàn, chúng ta tìm tới Niết bàn.

 

Bài kệ  5

Tùng nhân sanh thiện                    從  因  生  善

Tùng nhân đọa ác                          從  因  墮  惡

Do nhân nê hoàn                            由  因  泥  洹

Sở duyên diệc nhiên                       所  緣  亦  然

Các cõi trời do tạo tác nhân lành mà mình được sinh lên,

Các ác đạo cũng do ác nhân mà mình bị đọa xuống

Niết bàn cũng như thế

Do nhân duyên tu tập mà có Niết bàn.

Trong nguyên văn chữ Hán không có chữ “cõi trời”.

Tùng nhân sinh thiện: Do sự thực tập những điều lành mà được sinh lên các cõi lành.

Ví dụ, Làng Mai là một cõi lành. Trong quá khứ, chắc mình có làm điều tốt nên được sinh ra trong Làng Mai. Làng Mai là một cõi thiện. Không hẳn là trên mây mới có cõi trời, chỗ nào không có khổ đau thì đều là cõi trời.

Không phải ngẫu nhiên mà mình được sinh vào cõi thiện, phải do những nguyên nhân tích tụ trong quá khứ, nên bây giờ mình mới được sinh lên cõi thiện. Không phải trên trời mới có cõi trời, ngay ở dưới đất cũng có cõi trời. Nếu được sinh lên cõi trời, thì đó là do những nhân duyên, những hành động tốt trong quá khứ.

Tùng nhân đọa ác: Đọa là rơi xuống. Rơi xuống cõi ác. Nếu không tu, người đang ở cõi thiện rớt xuống cõi ác.  Bị rơi xuống cõi hệ lụy là do nhân.

Trong khi ở cõi trời, mình không chịu nhận diện những may mắn, hạnh phúc của mình. Mình coi thường, không giữ giới, đi ra ngoài không có đệ nhị thân. Đó là những nhân khiến mình rơi xuống cõi ác.

Hai câu kệ này xác nhận rằng: không có gì là ngẫu nhiên. Nếu mình được sinh ra ở một cõi an lành, là do mình, do nhân duyên của mình. Nếu mình rơi xuống cõi hệ lụy, cũng là do nhân duyên của mình.

Do nhân nê hoàn: Niết bàn cũng do nhân duyên mà có được.

Sở duyên diệc nhiên: Trong vấn đề duyên khởi, cũng giống như trường hợp được sinh lên cõi thiện hay bị đọa xuống cõi ác; đi vào Niết bàn cũng do nhân duyên mà sinh ra.

Điều chúng ta cần phải hiểu trong câu kinh là, Niết bàn không phải là một cái gì được tạo tác ra, tại vì Niết bàn là một pháp vô vi (unconditioned dharma), mà không phải là một hành (formation), hay một hữu vi pháp (conditioned dharma). Niết bàn không phải do những nguyên nhân tạo tác mà thành. Vì vậy, chữ “do nhân” không có nghĩa là những điều kiện làm ra Niết bàn. “Do nhân”, có nghĩa là do sự tu tậpNiết bàn hiển lộ ra. Niết bàn không phải có do mình tu tập, mà nó đã có sẵn rồi, nếu có tu tập thì mình được hưởng. Chữ nhân ở đây không phải là những nhân duyên tới với nhau để làm cho Niết bàn biểu hiện ra, như bông hoa, như mặt trời… Nhân là do công phu tu tập mà mình hưởng được Niết bàn.

Vào lúc bốn, năm giờ sáng, xóm Thượng trời rất trong, rất đẹp. Hương đêm rất thơm, tinh khiết. Mình trùm chăn ngủ, chuông thỉnh mình không chịu dậy. Cảnh vật lung linh, huyền ảo, mầu nhiệm bên ngoài tượng trưng cho Niết bàn. Trùm chăn ngủ, thì mình không hưởng được Niết bàn. Khi có tiếng chuông hay sư anh tới kéo dậy, mình tung mền đứng lên, rửa mặt. Đó là nhân, là công phu tu tập. Không phải nhân đó làm ra Niết bàn. Niết bàn đã có sẵn ngoài trời, mình chỉ cần mặc áo ấm, mở cửa đi ra thì tiếp xúc được với sự mầu nhiệm của cảnh khuya ở xóm Thượng. Những nguyên do đó không tạo ra Niết bàn, mà chỉ giúp cho mình hưởng được Niết bàn đang sẵn có. Niết bàn là một pháp vô vi.

Có những tông phái nói có nhiều pháp vô vi và có những tông phái nói chỉ có một pháp vô vi, đó là Niết bàn, còn các pháp khác đều là hữu vi. Tôi đi theo thuyết: Tất cả các pháp đều là hữu vi. Chỉ có một pháp vô vi, đó là Niết bàn.

Câu “Do nhân nê hoàn” có thể bị hiểu lầmNiết bàn cũng do nhân mà có. Niết bàn không có cũng không không, nó vượt ra khỏi ý niệm có và không, nó là pháp vô vi.

Nếu nói về “Kingdom of God” (Thiên quốc của Thượng đế) thì Kingdom of God đã có sẵn. Nhưng trong giây phút hiện tại, lúc đối thoại, nói chuyện với các bạn gốc Cơ đốc giáo, mình nói: Thiên quốc có mặt bây giờ và ở đây (The Kingdom is now or never). Cũng như khi nói: Cảnh trời khuya mầu nhiệm của xóm Thượng có đó, sư em có muốn hưởng thì chỉ đi ra thôi. Nếu không đi ra bây giờ, thì làm gì hưởng được một bữa khuya mầu nhiệm như vậy? Nó có sẵn đó rồi, chỉ có chuyện mình có muốn hay không muốn, mình có khả năng hay không có khả năng. Hạnh phúc là một cái gì có thật đó, cái chính là mình có khả năng hưởng hạnh phúc hay không? Khả năng đó là nhân, do nhân. Nhân là khả năng tự giải phóng mình (ra khỏi chiếc chăn ấm), để được hưởng một bữa khuya mầu nhiệm trên xóm Thượng.

Chúng ta đi tới bài kệ thứ 6, một bài kệ rất đẹp trong kinh.

 

Bài kệ 6

Mi lộc y dã                                      麋   鹿  依  野

Điểu y hư không                             鳥  依  虛   空

Pháp quy kỳ báo                             法   歸  其  報

Chân nhân quy diệt                       真  人   歸  滅

Hươu nai nương đồng quê.

Chim chóc nương trời mây.

Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện.

Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi.

Kinh hay như một bài thơ. Nếu không có rừng, thì nai không có hạnh phúc. Mình đem nai nhốt vào trong vườn bách thú hay nhốt vào trong lồng thì làm gì nai có được hạnh phúc? Nai chỉ có hạnh phúc, khi nó có thảnh thơi. Trong Tương Ưng Bộ, có một kinh rất ngắn nói về con nai:

Một thuở nọ có nhiều vị khất sĩ kết hạ tại một khu rừng tại miền quê Kosala. Sau khi đã kết hạ ba tháng, các vị khất sĩ bắt đầu rời khu rừng để đi du hành. Một vị thiên giả trú ở khu rừng này thấy vắng bóng các vị khất sĩ, than thở, buồn bã nói lên một bài kệ sau đây:

Hôm nay trong lòng ta

Trống vắng không niềm vui.

Những chỗ ngồi hôm qua

Giờ đây không ai ngồi.

Các bậc đa văn ấy

Thuyết pháp thật là giỏi.

Đệ tử Đức Thế Tôn

Hiện đi đâu hết rồi?

Vị thiên giả ngồi khóc. Khi nghe bài kệ, một vị thiên giả khác đang có mặt, dùng một bài kệ khác để trả lời vị thiên giả kia:

Họ đi đâu hả?

Họ đi Ma kiệt Đà

Họ đi Câu Tác La

Còn những khất sĩ khác

Thì đi về Bạt Xà.

Ma Kiệt Đà là Magadha, Câu Tác La là Kosala, Bạt Xà là Vraja.

Như nai thoát bẫy sập

Chạy nhảy khắp bốn phương.

Đời sống người xuất gia

thảnh thơi như thế.

Con nai không muốn bị nhốt, nó muốn thảnh thơi thôi, và nó nương vào đồng quê.

Mi lộc ư dã: Nai thì nương vào đồng quê.

Điểu y hư không: Chim chóc thì nương vào hư không. Không có không gian thì chim làm gì có hạnh phúc. Chỉ cần nhìn nó bay vút lên cao là mình thấy hạnh phúc của con chim rồi.

Hươu nai có chỗ hạnh phúc của nó và chim chóc cũng có chỗ hạnh phúc của nó.

Pháp quy kỳ báo: Bốn chữ nầy là cả một vấn đề.

Trong một ấn bản khác của Đại Tạng kinh, chữ “kỳ báo” được thay bằng chữ “phân biệt”, Pháp quy phân biệt. Có lẽ người chép kinh không hiểu “Pháp quy phân biệt” là gì, nên sửa lại là “Pháp quy kỳ báo”. Đây là tam sao thất bản. Cũng như trong ấn bản Truyện Kiều mới, người ta không hiểu được cụ Nguyễn Du, nên họ sửa lại văn của cụ. Khi Thúy Kiều đang ở trong Quan Âm Các, cụ Nguyễn Du viết:

Sớm trưa lá bối phiến mây

Ngọn đèn điểm nguyệt tiếng chày nện sương.

Cụ Nguyễn Du viết chữ “phiến mâyrõ ràng.  Nhưng người in Truyện Kiều nghĩ phiến mây là gì, trong chùa thì chỉ có phướn thôi nên viết là phướn mây. Lá bối đọc kinh. Là người tu, buổi sáng, buổi trưa mình đọc kinh và buổi tối mình thỉnh chuông. Trong chùa có một cái chuông hình đám mây gọi là vân bản. Phiến mây là vân bản.

Câu “Pháp quy kỳ báo” thì dễ hiểu: các pháp do quả báo của nó mà có. Làm lành có lành, làm dữ có dữ. Vì vậy, pháp quay trở về quả báo của nó. Chép như vậy không sai với đạo lý: cái gì cũng có nhân có quả, có  nghiệp, có báo.

Nhưng trong văn mạch của kinh, thì câu “pháp quy kỳ báo” đó không dính. Vì vậy chúng ta lấy lại chữ “phân biệt” trong ấn bản khác của Đại Tạng kinh. Chúng ta đọc là:

Pháp quy phân biệt: Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện. Phân biệt, được dịch từ chữ vikalpa. Chữ vikalpa có khi được dịch là biến kế, tức tâm thức của mình phân biệt.

Trong “Duy thức tam thập tụng” có bài kệ:

Thị chư thức chuyển biến

Phân biệt, sở phân biệt.

Đây là bản dịch của thầy Huyền Trang.

Trong nguyên văn chữ Phạn là: Sự chuyển biến của thức là sự phân biệt. The manifestation of consciousness is discrimination. Khi thức chuyển biến thì trở thành ra sự phân biệt (vikalpa). Vijñana-parinama vikalpa.

Theo nguyên tắc, phải dịch như thế nầy: Sự chuyển biến của thức tức là phân biệt. Nhưng thầy Huyền Trang ngưng ở chữ chuyển biến và cho chữ phân biệt xuống dưới nên có thể có sự hiểu lầm. Phân biệt có hai thứ: năng phân biệt và sở phân biệt, tức chủ thể và đối tượng. Rồi người ta tưởng chủ thể và đối tượng là hai cái khác nhau, không thể tách rời nhau.

Trong buổi pháp thoại vừa rồi tại Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu, tôi có lấy ví dụ đồng 2 euro. Nó có hai mặt, một mặt trái và một mặt phải. Nhưng cả trái, cả phải đều do chất đồng của đồng euro làm ra.

Thức là chất đồng, là chất kim khí và khi chuyển biến thì nó trở thành hai mặt, mặt tráimặt phải của đồng euro. Đó là sự phân biệt. Chính sự chuyển hóa của thức trở thành ra sự phân biệt.

Câu kinh này rất sâu, rất uyên áo. Mình không biết tự tánh (true nature) của các pháp như thế nào, nhưng cái mình nhận thức được bằng tâm của mình chỉ là phân biệt (vikalpa). Cây cối, ánh sáng mặt trời, cái bàn,… chỉ là biểu hiện của tâm thức. Tâm thức thấy nó như vậy, nhưng chưa chắc nó đã như vậy. Nó là biến kế, là phân biệt. Tâm nhận thức như vậy, nhưng chưa chắc là như vậy. Nhìn người kia, mình tưởng mình nắm được người kia, nhưng kỳ thực mình chỉ nắm những nhận thức của mình về người kia thôi. Hình ảnh của người kia là nhận thức của mình. Mình tưởng mình biết mặt trời là một cái gì, nhưng thật ra mặt trời trong nhận thức mình chẳng qua chỉ là một sáng tạo phẩm của tâm thức (mental construction).

Các nhà khoa học lượng tử (quantum machanics) cũng đang tìm mọi cách để thấy được bản chất của các điện tử, các lượng tử (nature of the quantum). Họ có thể đạt tới được cái bản chất, cái tự thân (svabhāva) của quantum hay không? Đạo Phật nói không thể đạt được. Dùng trí óc phân biệt thì mình thấy tâm của mình nhiều hơn là thấy sự thật. Quanta đó tùy theo tâm thức của mình mà hiện ra như thế này hay như thế kia. Có khi nó hiện ra như một cái sóng, có khi nó hiện ra như một cái hạt. Tùy theo tâm của mình, mình đặt câu hỏi thế này thì nó hiện ra như cái hạt, mình đặt câu hỏi cách khác thì nó hiện ra như đợt sóng. Vì vậy, các pháp là do phân biệt mà có. Câu “sự vật do tâm thức mà biểu hiện” rất hay. Các nhà khoa học phải nghiên cứu nó.

Quan niệm “sự vật là một cái riêng và tâm thức là một cái riêng, hai cái tồn tại độc lập” là một sai lầm căn bản.

Câu kinh “Pháp quy phân biệt” rất sâu! Lãnh vực của các pháp là tâm thức. Nhà của hươu nai là đồng quê, nhà của chim chóc là không gian, nhà của sự vật là tâm thức, tâm chứa hết tất cả các pháp. Còn người tu, nhà của người tu ở đâu?

Chân nhân quy diệt: Chân nhân là người tu. Chân là thiệt, nhân người. Một người muốn sống thật đời sống của mình, gọi là chân nhân.

Chân nhân là một danh từ rất hay của Lão giáo, Khổng giáo. Cư sĩ Chi Khiêm cũng như thầy Tăng Hội là những người rất can đảm. Họ đã sử dụng những danh từ của Khổng giáo hoặc của Lão giáo để dịch kinh. Thiền sư Lâm Tế cũng dùng chữ chân nhân, vô vị chân nhân, tức con người thật, không có vị trí. Người tu, trước hết là con người muốn sống thật với mình, không giả dối, không đeo mặt nạ.

Chân nhân là những bậc thánh. Chỗ nương tựa của họ là Niết bàn. Nếu con nai có chỗ thích thú của nó là đồng quê, nếu con chim có chỗ thích thú của nó là không gian, thì người tu có chỗ thích thú của họ là Niết bàn. Niết bàn là cái đã có sẵn, mình đang ở Niết bàn, chỉ có điều là mình không trở về được thôi.

Làng Mai mình hay có một ví dụ đơn sơ là nước và sóng. Sống đời sống của một đợt sóng thì mình lao đao, sợ hãi tại vì đợt sóng phải đi lên đi xuống, có sinh có diệt, có có có không. Rất khó sống đời sống của một đợt sóng, mình thấy rất rõ. Nhưng khi đợt sóng khám phá ra mình là nước, thì nó bắt đầu tập sống với tư cách nước. Sóng thì có lên có xuống, có có có không, có cao có thấp. Nhưng nước thì hoàn toàn tự do. Vấn đề là đợt sóng có khả năng sống cái tự tánh nước của mình không, hay nó chỉ có thể sống đời sống của đợt sóng. Đợt sóng có thể tập sống đời sống của nước. Nó không phải đi kiếm nước, tại vì nó đã là nước rồi. Đây là một ví dụ dễ hiểu cho ta thấy Niết bàn là gì.

Nếu sóng an trú trong nước, thì nó sẽ không có sợ hãi, nó có sự an toàn rất lớn. Đi lên an toànđi xuống cũng an toàn. Nó không còn bị ý niệm còn-mất, có-không… làm cho sợ hãi.

Mình là một đợt sóng và đồng thời mình cũng là nước. Nhưng phần lớn trong chúng ta chỉ có thể sống đời sống của sóng mà không sống được đời sống của nước. Cơ Đốc giáo dùng chữ “Resting in God” là như vậy. God tức là nước. Nếu biết dựa lên nước thì sóng rất khỏe, nó sẽ hết tất cả sự sợ hãi, sợ có, sợ không, sợ còn, sợ mất.

Vì vậy, Niết bàn là chỗ an toàn nhất. Niết bàn được dịch là hạnh phúc. Niết bàn được dịch là an toàn. God có thể được dịch là happiness, là safety. Một nhà văn người Pháp định nghĩa “Thượng đế là hạnh phúc”. Rất nhiều người định nghĩa “Thượng đế là tình thương”, nhưng nhà văn người Pháp nầy là người đầu tiên định nghĩa God là hạnh phúc. Đó là André Gide (Dieu est bonheur). Người dùng chữ “Resting in God” cảm thấy: Thượng đế là sự an toàn. Khi đã quy y Thượng đế, đã trở về bản chất của mình, đã trở về Niết bàn thì mình không còn sợ hãi. Một khi đợt sóng biết mình là nước và biết sống đời sống của nước, thì đợt sóng không còn sợ hãi nữa. Lên nó cũng vui, xuống nó cũng vui, cao nó cũng vui, thấp nó cũng vui, có cũng vui, không nó cũng vui, tại vì nó đã vượt được cái có-không, cao-thấp. Niết bàn cũng vậy, Niết bàn là cái ngược lại với hành, tức là những pháp hữu vi.

Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi, khi dịch mình thêm vào “để sống thảnh thơi”. Chúng ta có quyền dịch như vậy, tại vì có ý đó trong kinh: Hươu nai về đồng quê thì thảnh thơi, chim chóc trở về không gian thì thảnh thơi, thì các chân nhân trở về Niết bàn thì cũng thảnh thơi.

Mình không cần phải đi tìm Niết bàn, chính mình đã ở trong Niết bàn rồi. Sóng không cần phải tìm nước, sóng chính là nước. Tùy theo mình chọn, mình vẫn là sóng, mình không cần phải tiêu diệt sóng, mình vẫn sống trong thế giới của các pháp hữu vi. Nhưng khi sống sâu sắc, mình chạm được với cái vô vi và các pháp hữu vi không làm cho mình đau khổ lắm.

Bây giờ chúng ta trở lại bài kệ thứ ba:

Cơ vi đại bệnh                                飢 為 大 病
Hành vi tối khổ                              行 為 最 苦
Dĩ đế tri thử                                    已 諦 知 此
Nê hoàn tối lạc                               泥 洹 最 樂

Đói là cái bệnh khó chịu nhất

Tâm hành là cái gây khổ đau nhiều nhất

Hành vi tối khổ: các hành là cái gây khổ đau nhiều nhất. Hành là các hữu vi pháp (samskrta-dharmāh). Tại sao mình không dịch là “các pháp hữu vi là cái gây khổ đau nhiều nhất”, mà lại dịch là “tâm hành là cái gây khổ đau nhiều nhất”? Phạm vi của pháp hữu vi rất lớn, trong đó có thân hành, tâm hành và những thứ khác như núi, sông, cây cỏ.... Tâm hành chỉ chiếm độ một phần ba. Khi dùng chữ “tâm hành”, mình chỉ lấy độ một phần ba của hành, như thế là có sai với kinh hay không? Tại sao mình không dịch là “tất cả các pháp hữu vi đều gây ra đau khổ”, mà lại dịch là “tâm hành gây đau khổ”. Lý do là có sự nguy hiểm, người ta có thể nghĩ các pháp hữu vi là những cái độc lập với tâm và bản chất của các pháp hữu vi là gây đau khổ.

Đó là một sự hiểu lầm lớn mà ít người thoát khỏi trong khi học Phật. Các pháp hữu vivô thường, vô ngã; do đó nó là khổ. Vô thường, vô ngã đi đôi với khổ. Nhưng sự thật là như thế nầy: Các pháp hữu vivô thường mà mình cho là thường, nên mình khổ. Các pháp hữu vivô ngã mà mình cho là ngã, nên mình khổ. Khổ là do mình chứ không phải do các pháp. Nói các pháp hữu vi là khổ thì oan cho nó lắm. Các pháp hữu vivô thường, vô ngã, nó không có tội gì. Tại mình tưởng nó là thường, là ngã, nên mình mới khổ. Các pháp hữu vi có thuộc tính vô thường, vô ngã, nhưng tính khổ không thuộc về các pháp hữu vi. Tính khổ thuộc về mình, tại mình có nhận thức sai lạc về các pháp hữu vi. Vì vậy cho nên nói các pháp hữu vi khổ là không đúng.

Nếu dịch “các pháp hữu vi là cái gây khổ đau nhiều nhất” có thể làm cho người ta hiểu lầm. Trong kinh Bảo Tích có một ví dụ rất vui, rất buồn cười: Ông đó cầm cục đá liệng một con chó. Bị liệng trúng, con chó đau quá, chạy theo sủa cục đá. Nó tưởng cục đá là nguyên do sự đau khổ của nó. Kỳ thực, nguyên do làm nó khổ là cái anh chàng liệng cục đá. Đáng lý nó phải chạy theo sủa người liệng cục đá, thì nó lại chạy theo sủa cục đá.

Ở đây cũng vậy, các pháp hữu vi không làm cho mình đau khổ, nhưng mình khổ tại vì mình có nhận thức sai lầm về các pháp hữu vi. Cái gốc của sự khổ đau là cái tâm của mình, mà không phải là các pháp hữu vi. Vì vậy, thay vì dùng chữ “các pháp hữu vi” thì tôi dùng chữ “tâm hành”, trong đó có tham, sân, si (ngu dốt). Vì có sai lạc về nhận thức, nên các pháp hữu vi mới làm mình khổ. Nếu mình là một vị Bụt có trí tuệ, thì các pháp hữu vi không động được tới mình.

Tâm hànhpháp hữu vi, nhưng chỉ là một phần thôi, còn có thân hành và vật hành. Tuy là tâm, nhưng đối tượng của nó là vật và thân. Tâm bao gồm hết tất cả, cho nên mình dùng chữ “tâm hành” cũng được. Mình phải khéo léo, đừng để bị kẹt vào chữ. Khi đọc câu “các pháp nương vào phân biệt mà biểu hiện”, mình thấy rất rõ chữ phân biệt ở đây có nghĩa là tâm hành, là tưởng (perception).

Hươu nai nương đồng quê

Chim chóc nương trời mây

Sự vật nương phân biệt mà biểu hiện

Các bậc chân nhân nương vào Niết bàn để sống thảnh thơi.

Ai là nhạc sĩ nên đặt một bài nhạc. Lời kinh rất hay!

 

Bài kệ 7

Trong Đại Tạng Tân Tu:

Thỉ vô như bất                                始  無  如  不

Thỉ bất như vô                                始  不  如  無

Thị vi vô đắc                                   是  為  無  得

Diệc vô hữu tư                               亦  無  有  思

 

Trong một bản in khác:

Thỉ vô thỉ phủ                                 始  無  始  否

Như bất như vô                             如  不  如  無

Thị vi vô đắc                                   是  為   無  得

Diệc vô hữu tư                               亦  無   有  思

Thấy được cái không trước, không sau

Không là, không không

Cái đó là vô đắc

Cũng là cái không thể tư duy được.

Đây là một bản đàn chư Tổ đã đánh lên. Những nốt đàn đã nằm sẵn trong kinh, chư Tổ lấy ra dạo lên cho mình nghe để mình thấm được, hưởng được Niết bàn. Cũng như sư anh nói: Sư em ơi, ngoài kia trời đẹp lắm, đừng ngủ nữa! Sư anh nói hay quá, nên sư em tung mền đi ra, và hưởng được không khí trong lành của bữa khuya xóm Thượng. Ở đây, các Tổ đang làm sư anh, đang tìm cách giúp mình hưởng được hạnh phúc của Niết bàn mà các vị chân nhân đang được hưởng. Nó đã có đó, chúng ta khỏi phải đi tìm.

Bài kệ là một đoạn văn rất khó!

Thỉ vô như bất, ở đây người ta chép lộn chữ thỉ  始 thành ra chữ như 如. Trong một bản khác là:

Thỉ vô thỉ phủ: Phủ là phủ nhận. Không có cái bắt đầu, cũng không có cái không bắt đầu. (There is no beginning, there is no non-beginning.)

Nếu là một nhà thiên văn học và tin vào thuyết “big bang”, quí vị phải đọc kinh này. Theo thuyết “big bang”, thì có cái ban đầu, trước “big bang” không có gì hết. Không gianthời gian biểu hiện sau cái “big bang”. Hiện nay, có người hỏi: Trước “big bang” có cái gì? Ý niệm về ban đầukhông ban đầu chống đối nhau. “Có cái ban đầu” có thể sai, mà “không có cái ban đầu” cũng có thể sai, tại vì tất cả đều là ý niệm.

Trong Cơ đốc giáo, có ý niệm về sáng thế, tức sự tạo dựng của đất trời. Ban đầu, chưa có gì và Thượng đế tạo đựng ra, đó là ý niệm “thuở tạo thiên lập địa”. Nhưng trước “thuở tạo thiên lập địa” thì có cái gì? Có thể từ cái không mà trở thành cái có hay không? Cái non-being tự nhiên trở thành being được không? Trước khi cái being hiện ra, thì có cái non-being không? Đó là một vấn đề lớn.

Đứng về phương diện Niết bàn, mình không thể suy nghĩ với phạm trù being và non-being. Nói Nirvana là being cũng trật, mà nói là non-being cũng trật, tại vì Niết bàn là sự vắng mặt của tất cả mọi ý niệm. Nếu đi sâu vào thần học, thì Thượng đế cũng vậy. Nói Thượng đế có cũng sai, mà nói Thượng đế không cũng sai. Có và không là những ý niệm của đầu mình, không áp dụng được vào trong thực tại tuyệt đối mầu nhiệm.

Đây là sự thực tập của sóng để trở về với nước. Khi sóng trở về với nước, nó rất hạnh phúc, rất an toàn. Nó nằm trong tầm tay của mình, của các bậc chân nhân, của người tu.

Thỉ bất như vô, ở đây người ta chép lộn chữ như 如 thành ra chữ thỉ  始. Trong bản khác là:

Như bất như vô: Chữ như dịch ra tiếng Anh là to be. To be and not to be, is not the question.

Không phải là vấn đề bắt đầu hay không bắt đầu. Không phải là vấn đề to be hay không to be. Niết bàn vượt thoát ý niệm “beginning or non-beginning” và ý niệm  “to be or not to be”.

Nếu dịch Đại Tạng Kinh, quí vị phải chú giải: Trong Đại Tạng Tân Tu chép như vậy, nhưng trong những bản khác chép như vậy.

Thị vi vô đắc: Đó gọi là vô đắc. Vô đắc là aprapti hay anupalabdha (bất khả đắc). Bất khả đắc là không nắm được.

Mình nắm bằng cái gì? Mùa Xuân có đó, mình cố gắng ghì mùa Xuân lại, hay nắm ngọn gió Xuân, được hay không? Mình có thể nhốt ngọn gió Xuân vào trong rương được không? Không được. Người yêu của mình, mình tưởng đã nắm được người đó rồi. Nhưng người yêu của mình cũng không nắm bắt được (ungraspable). Các nhà khoa học tìm cách nắm lượng tử, nắm bằng óc của họ. Nhưng họ không biết rằng bản chất của lượng tử là bất khả đắc. Tất cả đều là bất khả đắc.

Niết bàn hay Thượng đế, mà mình dùng phạm trù tư tưởng (mental categories) để nắm bắt, thì không thể nào; bởi vì Niết bàn cũng như Thượng đế là cái không thể nắm bắt được. Vô đắc là một đặc tính của Niết bàn. Mình chỉ có thể ca hát về Niết bàn và kinh “Rong chơi trời phương ngoại” là một bản nhạc giúp cho mình nhiều điều kiện để có thể tiếp cận với Niết bàn.

Thị vi vô đắc: Nó là cái mình không thể nắm bắt được. Vô đắc không có nghĩa là cái đó không có. Gió Xuân hay nắng mai có đó, nhưng mình nắm không được. Mình chỉ có năm ngón tay làm sao nắm được gió Xuân?

Diệc vô hữu tư: Và cũng không thể suy nghĩ được.

có nghĩa là tư tưởng. Vô hữu là không thể tư lượng được. You can not conceive it with your mental categories. Nó là bất khả tư nghì, không tư duy, không nói năng được, không thể dùng tâm mà nắm bắt được. Tiếng Phạn là acińtya.

Mình coi kinh như một bài hát, một bài thơ và mình đừng bị kẹt vào nó, kỵ nhất là bị kẹt vào những ý niệm. Nếu may mắn thì nhờ bài hát, bài thơ đó mình có thể tiếp cận được với Niết bàn có sẵn trong lòng mình. God is now or never.

Thấy được cái không trước không sau

Thấy được cái không là và cái không không

Cái đó là cái vô đắc

Và chính cái đó cũng là cái không thể tư duy được.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11594)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11314)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12529)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17939)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11697)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9915)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15303)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14294)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12052)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15274)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11966)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12039)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10572)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13126)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16495)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19584)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12214)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11805)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11911)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11806)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11595)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12725)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14468)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12573)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15617)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13570)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12852)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9821)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11121)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12135)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13001)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12137)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12168)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11411)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14209)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19625)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24531)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10640)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant