Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

27 Tháng Chín 201620:20(Xem: 12000)
Kệ Ca Ngợi Pháp Giới

KỆ CA NGỢI PHÁP GIỚI



   Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển 32, thuộc Luận Tập Bộ toàn, Kinh văn số 1675.

Thánh Long Thọ Bồ Tát tạo, Tây Thiên, nước Điểu Điền, chùa Đế-Thích Cung, Tam Tạng Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Sa môn Thần Thí Hộ dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán.

Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Đức quốc dịch Hán- Việt, mùa An cư kiết hạ, Phật lịch 2551, nhằm ngày 09/08/2007 tại thư phòng chùa Viên Giác.

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất ngày 22/9/2016



Quy mạng mười phương Phật

Pháp, Báo và Hóa Thân

Nguyện cùng các chúng sinh

Chóng thành Pháp giới tính.


Luân hồi ba đường ác

Lý pháp giới không động,

Xưa nay thường thanh tịnh

Các tướng chẳng thể đổi.


Tịch tĩnh như hư không

Trọn khắp  ở mọi chỗ

Thể đều lìa đây, kia

Không sâu cũng chẳng cạn.


Khi sữa chưa chuyển đổi

Chẳng thấy tô, đề-hồ,

Phiền não chưa hàng phục

Pháp giới do đâu hiển?


Như tô ở trong sữa

Tô vốn diệu quang minh,

Phiền não che pháp giới

Thể thanh tịnh viên mãn.


Như đèn bị ngăn che

Không thể chiếu vật khác,

Vô minh hằng che tâm

Pháp giới không sáng tỏ.


Như đèn lìa chướng ngại

Chiếu được vật khắp nơi,

Khi phá tan phiền não

Chân như thường hiển hiện.


Đầu, giữa và cuối cùng

Hai chướng không thể nhiễm,

Như châu lưu ly sạch

Ánh sáng thường tỏa chiếu.


Ánh sáng bị vật ngăn

Bị chướng chẳng thấy sáng,

Phiền não che pháp giới

Chân như khó hiện.


Thể viên tịch sáng sạch

Luân hồi không thể nhiễm,

Cần cầu đến pháp giới

Luân hồi chẳng thể che.


Như gạo trong vỏ trấu

Thể của gạo chẳng không,

Phiền não che Chân như

Phiền nãoChân như.


Như lột bỏ vỏ kia

Thể gạo tự nhiên hiện,

Nếu lìa vỏ phiền não

Lý pháp giới mới hiển.


Vọng chấpthế gian

Vỏ chuối rốt chẳng thật,

Pháp giới không thế gian

Hư vọng cũng không thấy.


Như người uống Cam-lộ

Nhiệt não trọn đều dứt,

Nếu chứng pháp giới tính

Nóng phiền não đều hết.


Diệt trừ diễm phiền não

Cam-lộ pháp giới hiện

Trong tất cả hữu tình

Cao, thấp đều bình đẳng.


Thể thật quả không sinh

Quả loại chấp không có,

Khi trí huệ sinh ra

Hữu vi không pháp giới.


Pháp giới vốn không nơi

Rốt ráo mới chứng được,

Thanh tịnh hằng sáng sạch

Nhật nguyệt đều sáng sạch.


Pháp giới không cấu nhiễm

Như bụi, đêm rồng mưa

Sánh tợ mặt La-hầu

Quang minh hằng xán lạn.


Ví như lửa tẩy vải

Chỗ lửa lìa được nhiễm,

Trừ bẩn chỉ còn vải

Quang minh chuyển sáng sạch.


Tham ái khiến tâm nhiễm,

Hư vọngluân hồi

Cũng như lửa tẩy vải

Chân không không có vọng.


Ba độc gốc sinh tử

Lửa trí tuệ thiêu được

Thể pháp giới thường có

Sáng trong thường chiếu diệu.


Nhiễm phiền não gọi nhơ

Thường được Thế Tôn nói,

Diệt nhơ, Chân như hiện

Như suối dẫn từ đất.


Nếu trừ sạch phiền não

Sáng sạch lớn khó lường,

Pháp giới vốn vô ngã,

Không nhị hình, nam, nữ.


Thể không, chấp hư vọng

Chỗ nào thêm nghĩ suy?

Pháp giới lìa yêu, ghét

Căn, trần, cảnh vốn không.


Chấp hư vọng làm nhân

Khác nhau sinh từ đây,

Chân không không khổ não

Tham ái – nhân khổ não.


Đắm nhiễm do vọng tưởng

Bèn luân hồi ba cõi,

Hoài thai ở trong bụng

Hài nhi chưa thể thấy


Hai chướng che Chân như

Không thể chứng pháp giới,

Sinh đủ loại nghi ngờ

Kiến, mạn và sân, si


Vọng chấpchân thật,

Chân thật - chấp không có,

Thể sừng thỏ không có

Vọng chấp khiến thành thật.


Pháp giới lìa vọng chấp,

Vọng chấp thực chẳngcó,

Như sắc ắt phá hoại

Vi trần khá biết được.


Pháp giới không phá hoại

Trong ba thời chẳng được,

Có sinh ắt có diệt,

Vinh nhục cũng đều theo.


Pháp giới không sinh diệt

Làm sao nói: Được biết?

Sừng thỏ vốn không có

Nghĩ được trong ba thời?


Chân không không sừng thỏ

Tư lự chẳng thể biết

Chân không gọi Thiện Thệ

Sắc tướng trọn đều mất.


Đáng độ, tùy duyên có

Tu nhân lìa chấp không,

Viên thông như nhật nguyệt

Nước hiện ảnh đều đồng.


Sắc, thanh cùng dứt sạch

Khác nhau có thế nào?

Ba thời khá tìm nghĩ

Khi sinh duyên quyết định.


Nếu ngộ pháp tự thân

Tự thân làm sao có?

Như nước ở chỗ nóng

Chỗ nóng giác ngộ không.


Chỗ lạnh cũng như thế

Viên thông đều như vậy

Phiền não hằng che tâm

Mê hoặc chẳng thể rõ.


Nếu lìa trói phiền não

Giác ngộ thời không có,

Như mắt quán các sắc

Lìa chướng được chiếu diệu.


chân không cũng thế

Chiếu diệu lìa sinh diệt,

Nhĩ thức nghe âm thanh

Lìa vọng và phân biệt.


Tính pháp giới cũng vậy

Vọng phân biệt không có,

Mũi ngửi được các hương

Tính vọng chấp không có.


Sắc tướng cả hai mất

Chân không cũng như thế

Tự tính thiệt căn không,

Vị giới hằng viễn ly.


Thể thức không cũng vậy

Lý pháp giới như thế,

Tự tính thân căn tịnh

Xúc lạnh, nóng không có.


Lý pháp giới cũng thế

Xúc xứ thường viễn ly,

Ý duyên pháp gọi nhất

Tự tính thường viễn ly.


Tính chư pháp vốn không

viên thông như vậy,

Thấy nghe và giác biết

Pháp tương ưng cũng không.


Liễu tuyệt các vọng tưởng

Lý: Thấy nghe cũng không,

Căn- trần, khởi vọng chấp

Thể thanh tịnh vốn không.


Mê chấp, có căn – trần

Lý: Căn trần không có,

Thế gianxuất thế

Tính không vốn chẳng khác.


Ngã, pháp do mê khởi

Chấp khắp, tự luân hồi,

Lý pháp giới thanh tịnh

Tham, sân, si vốn không.


Mê, ngộ từ tâm khởi

Pháp tam độc giả danh,

Mê chấp tự trói buộc

Trí- liễu đạt giả danh.


Bồ-đề chẳng xa gần

Lý: Ba thời không có,

Lồng phiền não mê chấp

Kinh Thế Tôn đã nói.


Trí sinh- hoặc nhiễm diệt

Vọng chấp- vật trói buộc,

Đi lại chấp tối thắng

Thể không còn khá nghĩ


Bồ-đề không vọng chấp

Chứng chính cũng biết không,

Nước, sữa cùng một chỗ

Ngỗng uống sữa không nước.


Sinh không lìa phiền não

Hai chướng cũng không tạp

Vọng chấp ngã chẳng không,

Liễu đạt vốn không có.


Niết-bàn thanh tịnh

Hai ngã cùng không lập

Tam đàn trai tu thí

Trì giới lìa lỗi lầm.


Nhân Nhẫn – quả đoan chính

Nương tinh tấn, dũng cần,

Tĩnh lự khiến tâm định,

Bát-nhã dụng vô ngại


Nguyện kèm lực phương tiện

An trụ thắng Bồ-đề,

Bồ-đề khó vọng chấp

Chân không chẳng sinh diệt.


Liễu đạt bản tính không

Hai tướng cùng không có,

Sữa đường lìa cây mía,

Lìa mía, không có đường.


Giữ gìn hạt lúa mạch

Mầm nhánh ắt được sinh,

Gìn giữ giống Bồ-đ

Bồ-đề từ đây sinh.


Ví như trăng trong ám

Còn chưa thấy ánh sáng,

Phiền não trói hữu tình

Chân như chưa thể thấy.


Trăng non tuy có sáng

Từ từ mà tăng trưởng,

Sơ địa chứng Bồ-đề

Bồ-đề chưa viên mãn;


Mười lăm trăng tròn đầy

Nơi nơi ánh sáng chiếu,

Giải thoát hiển pháp thân

Lý Pháp thân không khuyết.


Ý tương ưng nhiễm ô

Trói buộc cùng sinh diệt,

Giải thoát tất cả chướng

Ngộ ba thời không có.


Đủ a-tăng- kỳ đầu

Tam đàn tu khắp cả

Đoạn trừ chướng phân biệt

Trí Hoan h khó sánh.


Ba nghiệp lầm kiêm phạm

Phòng lỗi nặng và nhẹ

Thi-la giới viên mãn,

Ly- cấu độc nêu danh.


Hai chướng hằng thời nhiễm

Đao tuệ trừ, đều không,

Phát Quang được chiếu diệu

Phá diệt lần không sót;


Lìa xa căn tùy nhiễm

Dần tăng uy Diễm Tuệ

Bồ- đề xưng tối thắng

Thiêu chiếu chuyển sáng chói.


Hai đế gọi Chân, Tục

Tương ưng, nếu mâu thuẫn

Hợp lại khiến không ngại

Nan Thắng sự hằng thời


Mười hai duyên sinh trí

Đường về lý tuần hoàn,

Tối thắng thâm sâu nhất

Bát-nhã hiện ở trước.


Hành thế gian, Nhị thừa

Đạo tu lâu đã tỏ

Đủ tướng Vô công dụng

Sau rốt gọi Viễn Hành.


Dụng trí vô phân biệt

Tùy duyên tự nhiên thành,

Hàng chúng ma thối tán
Bất Động danh rực rỡ.


Thiện Tuệ gọi vô ngại

Mười phương diễn pháp hiếm

Thân trút mưa Cam lộ,

Hiện chỗ nương tối thắng.


Các đức giống như nước,

Thân dụ như hư không,

Thô nặng đều che lấp

Đại Pháp Trí-gọi Mây.


Xét kỹ việc luân hồi

Ai tránh được nghiệp dẫn?

Phải biết không khổ não

Tịnh độ chớ nghĩ: Phiền.


Quy mạng chân Phật tử

Lên vị Mây Trí Tuệ

Tế vi đều đoạn sạch

Vượt khổ, lìa các trần.


Quán đỉnh các quang chiếu

Thân khắp các căn, trần

Đại định Kim Cang tịch

Các khổ chẳng theo thân;


Tòa Đại Bảo Hoa Vương

Thành bởi vô lượng diệu

Khắp phổ biến trang nghiêm

Công đức thật khó nghĩ;


Mười phương đều vô úy

Đủ ba thân, bốn trí,

Sáu thông luôn tự tại

Ứng vật độ cơ duyên;


Chiếu diệu như trăng tròn

Lửa hừng hực cháy luôn

Mười phương đâu chẳng khắp

Xán lạn chuyển rực rỡ.


Vĩnh viễn dứt duyên nhiễm

Nơi chỗ luôn Niết-bàn

Gọi Bồ-đề tối thắng

Hóa vật lợi tình vui.


Dụng trí sâu như biển

Theo cơ hiện Ứng thân

Nước trong trăng ảnh hiện

Khắp chốn độ mê tân.


Giống như báu Pha-chi

Tùy duyên hiện ảnh đồng

Căn tình vật có cảm

Biến khắp sự vô cùng.


Ngạ quỷ luôn đói khát

Chẳng thấy được suối nước,

Chúng sinh không chút tín

Nghiệp xưa tự trói buộc.


Hóa hiện các tướng thân

Ánh sáng đều rực rỡ,

Phật tuy luôn tại thế

Không gặp vì không duyên;


Biết rõ trần sa giới

Căn theo nhiễm chưa lâu,

Hai Không trí thù thắng

Diệu dụng độ ngu mông.


Thanh tịch sạch các nhơ

Thân tự, tha thọ dụng

Thường ở Sắc Cứu Cánh

Lợi ích người năm thừa.


Cứu vớt khổ chúng sinh

Thọ mạng dài vô lượng

Hai nghiêm không cùng tận

Công đức lớn khó lường.


Phật diễn pháp Nhất thừa

Tùy cơ hiểu nông sâu

Hoa sen không nhiễm dơ

Ngọc vốn sạch vết khuyết.


Ngợi ca một phần nhỏ

Nói rộng lý mầu nhiệm

Nguyện đem các công đức

Khắp thí lợi Trời, Người.



KỆ XƯNG TÁN PHÁP GIỚI.



Phật Tử Thanh Phi sửa lại lỗi chính tả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11090)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12049)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12545)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10742)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17963)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11715)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9931)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10158)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12337)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15322)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11222)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14311)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12071)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15305)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11984)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12386)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12063)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10594)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12541)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13141)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14771)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12637)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16524)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19621)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13093)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12641)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12229)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11817)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10877)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13470)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11923)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11826)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11618)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12749)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14492)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15645)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13593)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12873)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9846)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17994)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11143)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9052)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12154)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13028)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10282)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12172)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15283)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16576)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12186)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11446)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14245)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19655)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14135)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24564)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10664)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12469)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant