Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Di Giáo dịch thơ

17 Tháng Chín 201000:00(Xem: 27261)
Kinh Di Giáo dịch thơ

Kinh Di Giáo

Thành Tâm-Phan Khắc Nhượng dịch thơ



Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc,

Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh,

Kiều-trần-như được duyên lành,

Năm anh em họ viên thành lý chân,

Suốt đời sống xa gần phổ độ,

Người cuối cùng Phật độ chính là,

Ông già Tu-bạt-dà-la.

Ở rừng cây những Sa-la ngát vùng,

Người đáng độ đã từng được độ,

Đã đến hồi Phật bỏ sắc thân,

Niết bàn thế nhập xuất trần,

Nửa đêm yên ắng lặng tăm khắp trời.

1. Phật lên tiếng ra lời cốt lõi,

Để môn đồ mỗi mỗi soi đi,

Phật rằng: Này các tăng ni,

Sau tôi nhập diệt, nhớ ghi mấy điều:

Coi giới tựa người nghèo được của,

Như tối mù, mở cửa sáng ra,

Phải coi giới luật như là,

Người thày chỉ lối, khỏi sa lạc đường.

Giống như thể ta đương tại thế,

Phật ra đời cốt để vậy thôi,

Phải luôn giữ giới chớ rời:

Mướn người, buôn bán, chăn nuôi, chớ làm.

Chớ thu vén mùa màng, nhà cửa,

Chớ đua đòi tiền của nhân gian,

Chặt cây diệt cỏ chớ làm,

Chiêm tinh bói toán lại càng nên xa.

Chớ xem tướng hoặc là xem đất,

Luôn giữ mình chừng mực uống ăn,

Việc đời chớ thích để tâm,

Chú bùa, phụ nữ thân gần không nên.

Phải tâm niệm đoan nghiêm chánh trực,

Phải mong sao cho được độ mình,

Lỗi lầm che dấu không nên,

Chớ bày phép lạ cầu tin nơi người.

Với cúng thí biết vui vừa đủ,

Vật cúng dường tích trữ nào nên,

Đó là đôi chuyện giới nghiêm,

Cội căn giải thoát tự nền giới ra.

Giữ giới được mới qua thiền định,

Giới khơi dòng trí tuệ thâm uyên,

Khả năng diệt sự não phiền,

Nên cần mọi sự giữ gìn sạch trong.

Người phá giới đừng hòng công đức,

Giới là nơi công đức gửi vào,

Là nơi yên ổn hàng đầu,

Mọi điều công đức vin vào náu nương.

Các tăng ni, phải luôn thọ giới,

Năm căn cần giữ khỏi buông lung,

Giống như trâu phải canh chừng,

Cầm roi chớ để trâu ruồng lúa ai.

Như ngựa dữ không nài cương chặc,

Hẳn đưa người xuống vực chẳng chơi;

Cướp kia gieo khổ một thời,

Năm căn gieo họa bao đời ai hay.

Biết rõ mối nguy tai trầm trọng,

Chẳng thể không cẩn thận giữ gìn;

Với người trí tuệ nghiêm minh,

Năm căn đâu dễ xui mình chiều theo.

Giữ giới tựa giữ điều giặc dã,

Không thể nào buông thả được đâu;

Dù cho thỏa mãn cách nào,

Năm căn: (năm cửa) bao lâu mà còn.

Năm cửa bởi vọng lòng làm chủ,

Các ông nên khéo giữ vọng lòng;

Vọng lòng đáng sợ vô cùng,

So cùng nọc rắn miệng hùm khác chi.

Dẫu giặc lửa dễ gì sánh kịp,

Như người cầm chén mật mà đi,

Chăm chăm sợ đổ chứ gì,

Dưới chân nào biết một khi có hầm.

Như voi dữ phải cần móc sắt,

Nếu không thì hết sức hiểm nguy,

Giống như vượn khỉ khác chi,

Được cây chuyền bám dễ gì yên chân.

Giữ lòng an định rất cần,

Việc lành dù mấy khó khăn cũng thành.

Với thức ăn khi mình nhận được,

Phải coi dường uống thuốc vậy thôi,

Chẳng gì dở miệng ngon mùi,

Thứ ngon không thích dở thời không chê.

Miễn sao được khỏi bề đói khát,

Miễn sao là thể xác không nguy,

Miễn sao yên dạ tu trì,

Như ong hút mật chẳng hề hại hoa.

Chẳng phương hại sắc hoa tươi đẹp,

Tăng ni khi thọ thực cúng dường,

Cốt trừ khổ não tai ương,

Cầu nhiều phương hại lòng thương người đời,

Giống như thể những người trí tuệ,

Chẳng khiến trâu kiệt quệ làm nhiều.


Nghe đây hỡi các tăng ni,

Siêng năng tu tập thường đi pháp lành.

Đem năm canh giữ mình chớ bỏ,

Tụng kinh hầu tránh ngủ nửa đêm.;

Chớ vì ngủ nghỉ lãng quên,

Để đời vô ích êm đềm trôi luôn.

Hãy nhớ lửa vô thường đương đốt,

Hãy mau mau cứu vớt lấy mình,

Chớ ham ngủ nghỉ thường tình,

Não phiền rình rập giết mình như không.

Như kẻ thù vô cùng nguy hiểm,

Phải luôn luôn thức tỉnh đề phòng;

Não phiền rắn độc tương đồng,

Hiện đang ngủ nghỉ trong lòng các ông.

Nhà có rắn phải dùng móc sắt,

Móc giới vào đuổi phứt chúng đi.

Rắn ra ngủ mới yên bề.

Rắn còn mà ngủ còn chi thẹn bằng.

Biết thẹn tựa áo quần trang phục,

Cốt che người cho được trang nghiêm;

Khác nào móc sắt câu liêm,

Trị điều phi pháp đừng liên lụy mình.

Vậy tăng ni phải nên biết thẹn,

Mới mong lìa bất thiện dễ duôi,

Bỏ lòng biết thẹn ra rồi,

Bao nhiêu công đức đồng thời tiêu ma.

Có pháp lành chẳng qua biết thẹn,

Không thẹn thì thú vật khác chi.

Tăng ni ! Nếu kẻ nào vì,

Có gì xúc phạm có gì nhiễu nhương.

Ngay cả bị tổn thương thân thể,

Hãy kềm lòng chớ để hờn căm,

Lửa hờn đốt cháy thiện căn,

Giữ gìn không để nói năng độc mồm.

Lòng chớ để nổi cơn tức bực,

Khiến cho nhiều công đức tiêu tan.

Giới trì khổ hạnh đâu bằng,

Người từng nhẫn nhục thượng nhân đáng hàng.

Ai chưa thể vui cam nhẫn nhục,

Chịu miệng đời ác độc dồn cho,

Coi dường uống nước cam lồ,

Chưa là trí tuệ hống hồ thánh nhân.

Vì tức giận muôn phần nguy hại,

Phá căn lành hủy hoại lòng từ,

Đời này đời trước chẳng trừ,

Giận hờn còn giữ bao giờ vui đâu.

Biết tức giận khác nào lửa dữ,

Phải thường xuyên gìn giữ khỏi lòng.

Giặc ruồng công đức sánh cùng,

Do thì sân hận vẫn còn hơn xa.

Người thế tục chưa xa dục lạc,

Nên giận hờn còn được thứ tha;

Là người hành đạo xuất gia,

Đã rời dục lạc vậy mà hận sân;

Người như vậy thực tâm không đặng,

Có khác gì trời tạnh mây quang,

Bỗng dưng sấm động sét vang,

Rõ ràng chẳng xứng với màn trời xanh.

Này tăng ni ! muốn mình thành Phật,

Bỏ cửa nhà trang phục xuất gia;

Khoác vào chiếc áo cà-sa,

Mong cầu khắp nẻo gần xa cúng dường.

Chớ có ý đương đương tự đắc,

Cao ngạo gì cũng dứt nó đi,

Xuất gia vào đạo rồi thì,

Mong người bố thí từ bi cúng dường.

Người thế tục còn buông cao ngạo,

Huống chi là vào đạo xuất gia;

Mong cầu giải thoát nhớ là,

Hạ mình đây đó người ta cúng dường.

Này tăng ni ! Cái lòng xiểm xúc,

Trái đạo thì hãy vứt nó đi;

Dối gian súc xiểm còn thì,

Bao giờ thấy đạo diệu vi sáng đường.

Phải giữ gìn lòng luôn đoan chính,

Lấy thật thà gốc định thẳng ngay;


8. Tăng ni ! Nên biết thế này:

Mong cầu, ham muốn cho hay đừng nhiều.

Càng muốn nhiều càng điều khổ não,

Không mong cầu cứ đạo mà đi,

Mọi điều ham muốn ít thì,

Có gì đến nỗi sầu bi não phiền.

Được mỗi vậy còn nên tu tập,

Huống chi là công đức bao nhiêu;

Người mà ham muốn chẳng nhiều,

Đâu cần xu nịnh theo chiều vì ai,

Sáu căn cũng khó sai khó khiến,

Người tu hành ít muốn tâm an;

Chẳng còn sợ sệt hoang mang,

Phải hồi đến việc kiên gan đương đầu.

Không mong cầu lại hầu ít muốn,

Nết này đi sớm chứng Niêt-bàn.


9. Tăng ni muốn thoát buộc ràng,

Khỏi điều khổ não thế gian thường tình.

Hãy quán pháp tự mình biết đủ,

Biết đủ thì yên ổn vui tươi,

Đất bằng biết đủ cũng rồi,

Người không biết đủ dù nơi thiên đường.

Không biết đủ vô phương toại nguyện,

Giàu có nhưng vẫn tựa nghèo nàn,

Những người biết đủ rộng đàng,

Tuy nghèo nhưng vẫn hân hoan như giàu.

Người biết đủ dễ nào cam chịu,

Để thân vào nô lệ năm căn,

Người không biết đủ mê lầm,

Năm trò dục lạc thế trần khiến sai.

Khiến bia miệng mỉa mai chê trách,

Thật đúng là đáng xót đáng thương,

Pháp môn biết đủ rộng đường,

Cho người sớm được tỏ tường Chân Như.


Này tăng ni ! Người tu cầu đạt,

Tịch tịnh lòng an lạc vô vi,

Thế nên cần phải xa lìa,

Những nơi tụ họp hội hè huyên thuyên.

Một mình chỗ lặng yên tĩnh mịch,

Chỗ cõi trời Đề Thích, chư thiên,

Thảy đều kính trọng trang nghiêm,

Hãy nên xa chốn huyên thuyên hồng trần,

Hãy xa lánh lăng xăng hội chúng,

Để yên lòng cắt rụng khổ đau,

Tư duy trí tuệ nhiệm mầu,

Ham nhiều hội chúng khó cầu tâm yên.

Như cành cây nhiều chim quần tụ,

Hẳn có khi chuốc vạ: gãy cành,

Thế gian trói buộc giam mình,

Giữa dòng bể khổ đắm chìm đưa ra.

Như voi sa bãi sình bùn ngập

Đến bao giờ mới được thoát lên.

Đó là đức tình có tên,

‘Xa lìa’ ràng buộc nghiệp duyên hồng trần.


Này tăng ni ! Tinh cần chăm chỉ,

Chẳng việc gì không thể không xong,

Chuyên cần tinh tấn hết lòng,

Như là nước giỏ đá mòn khác chi.

Với tâm biếng nhác hành trì,

Như người cọ gỗ mong khi lửa bừng.

Gỗ chưa nóng, nửa chừng đã nghỉ,

Mong lửa mà có lửa được không?

Đó là đức tình gắng công.

Cũng là ‘Tinh Tấn’ dốc lòng không lơi.

Này tăng ni ! Cầu người tri thức,

Hay cầu ai trợ lực tận tình,

Sao bằng gìn giữ tâm mình,

Để cho vọng niệm không sinh não phiền.

Vậy tâm phải giữ gìn hết sức,

Chánh niệm rời công đức mất luôn,

Đã thành sức niệm kiên cường,

Dẫu vào giặc dục chẳng còn hề chi.

Như áo giáp mặc khi ra trận,

Được yên lòng khỏi sợ hiểm nguy,

Được không vọng niệm rồi thì,

Đó là đức tính có chi tốt bằng.

Này tăng ni ! Giữ tâm an định,

Tâm định rồi rõ sự diệt sanh,

Phải luôn tinh tấn lòng mình,

Kiên trì tu tập hành thiền không lơi.

Nếu tâm định xa rời náo loạn,

Như nước lên khéo chặn giữ bờ,

Tu hành cần trí có dư,

Định thiền tâm niệm chớ cho rịn rò.

Định là đức tình cơ hồ,

Giúp người rốt ráo sang bờ bên kia.


Này tăng ni ! Nếu người trí tuệ,

Hẳn đâu còn câu nệ chấp tham,

Tự mình xét việc đã làm,

Lòng thường tỉnh thức buộc ràng gỡ ra.

Dốc năng lực để mà giải thoát,

Nương theo điều giáo pháp Như Lai,

Nếu không trì tuệ đủ đầy,

Không sao gọi được như vầy xuất gia.

Chẳng thế gọi họ là thế tục,

Chẳng tên chi gọi được thứ này,

Chiếc thuyền trí tuệ xưa nay,

Giúp người vững chí ra ngoài tử sanh.

Là đèn rọi vô minh tan biến,

Là thuốc thần trị bệnh đảo điên,

Là gươm cắt đứt não phiền,

Trao dồi giác tuệ thường xuyên rất cần,

Nghe, hiểu, tu tăng cường lợi lạc,

Trí tuệ ngời mắt thịt cũng tinh,

Phải là trí tuệ quang minh,

Đó là đức tính tự mình sáng soi.

Này tăng ni ! Với người hí luận,

Chỉ khiến mình tâm loạn mà thôi,

Xuất gia chỉ vậy đâu rồi,

Không thành giải thoát ôi thôi buồn gì !

Tâm mê loạn chỉ vì hý luận,

Để vui vào tịch diệt chớ quên,

Loại trừ hý luận mới nên,

Đó là đức tính giữ mình hôm mai.

Này tăng ni ! Phải hoài tỉnh thức,

Tâm niệm về công đức gần xa,

Bỏ điều phóng túng hết ra,

Như là tránh giặc cướp nhà khác chi.

Lòng đại bi Phật vì khắp cả,

Mới lên lời hỉ xả này ra,

Những điều chánh pháp lợi ta,

Cùng là cứu cánh hầu qua Niết-bàn.

Phải nổ lực thực hành tinh tấn,

Dù sông hồ, rừng núi, gốc cây,

Dù trong tịnh thất hay ngoài,

Phải luôn nghĩ nhớ pháp này Phật ban.

Chớ chểnh mảng, lỡ làng qua mất,

Phương tiện nên tu tập cho rành,

Chuyên cần tinh tấn thực hành,

Để mình khỏi phí được sanh làm người.

Chớ để cả cuộc đời vô ích,

Khỏi sau này hối tiếc ăn năn,

Phật là thày thuốc tận tâm,

Biết rành bệnh lý, thuốc cần phải cho,

Mỗi bệnh trạng dặn dò mỗi loại,

Uống hay không đâu tại lỗi thày,

Phật như người chỉ đường ngay,

Chỉ phương giải thoát khỏi sai khỏi lầm.

Đường đã rõ chẳng năng cất bước,

Hỏi bao giờ mới được đến nơi,

Lỗi không bởi tại thày rồi,

Lỗi do biết lối nhưng lười chẳng đi.

17. Này tăng ni ! Bốn điều chân lý,

Các ông chưa hiểu ý chỗ nào,

Hãy nên hỏi lại rõ vào,

Thế Tôn chỉ dạy trước sau cho rành.

Thế Tôn nhắc ba lần như vậy,

Bốn chúng đều im lặng lắng nghe,

Chẳng ai thắc mắc gọi là,

Bấy giờ A-nậu - lâu-đà bước ra.

Bạch Thế Tôn: ‘Dù là trăng nóng,

Hay mặt trời lạnh cóng nay mai,

Bốn điều chân lý Như Lai,

Muôn đời vẫn vậy chẳng thay đổi gì.

Như ‘khổ đế’ cực kỳ thực tế,

Cõi trần đời dâu bể khổ đau,

Sanh già bệnh chết bao lâu,

Đã là quy luật khổ sầu nhân gian,

Thương yêu kết xa càng đau khổ,

Ghét nhau thì hội ngộ vui đâu,

Muốn ham chẳng toại hổ sầu,

Căn nguyên Tập đế: thương đau đời đời.

Do ái dục sinh sôi, chấp mắc,

‘Diệt đế’ là khổ cắt cho rơi,

Nguyên nhân đau khổ rã rồi,

Sáng đường ‘đạo đế’ an vui Niết-bàn.

15. Phật đã dạy rõ ràng rất mực,

Chẳng ai còn nghi hoặc điều chi,

Nhiều người chưa chứng được thì,

Nghe Phật nhập diệt sầu bi lệ tràn,

Người mới tu nghe ban lời ấy,

Càng ráng tu để thấy Niết-bàn,

Như đêm tăm tối kinh hoàng,

Bỗng lòe chớp sáng rõ ràng đường đi.

Người chứng quả đã lìa biển khổ:

Thầm nghĩ rằng Phật vội chi xa,

Lời Ngài A-nậu-lâu-đà:

Bốn điều chân lý Phật đà sáng soi.

Mọi người thấu hiểu cả rồi,

Đại bi Đức Phật ban lời, nói thêm:

Này tỳ kheo! Chớ nên bi thiết,

Đã sinh ra làm kiếp con người,

Hợp tan qui luật muôn đời,

Bao giờ hội hợp chẳng hồi ly tan?

Sự như vậy muôn ngàn không có,

Pháp lợi mình đâu đó đã thông,

Lợi người ta dạy đã xong,

Cho dù nán lại cũng không ích gì.

Cõi trời người ai kia đáng độ,

Thì bấy nay được độ cả rồi,

Ai chưa được độ đương thời,

Nhân duyên đã sẵn hẳn rồi cũng qua.

Nay đệ tử thay ta nối nghiệp,

Chỉ pháp thân bất diệt thường còn,

Thế gian muôn sự vô thường.

Hơp tan phải lẽ đừng thương đừng sầu.

Hãy tinh tấn sớm cầu giải thoát,

Trí tuệ làm gươm cắt mờ mê,

Thế gian đích thật hiểm nguy,

Rõ ràng muôn sự chẳng chi vững bền.

Nay nhập diệt bỏ đi bệnh dữ.

Bỏ cái thân ‘năm uẩn’ hợp này,

Tội tình nghiệp báo dãy đầy,

Người ta tạm gọi cái nầy là thân.

Giữa trầm luân sinh già bệnh chết,

Người trí mà đã dứt nó xong,

Ai không hoan hỉ tấc lòng,

Như trừ được giặc ai không vui mừng.

Này tăng ni ! Hãy dùng tha thiết,

Ráng tìm đường giải quyết sầu đau,

Thế gian to nhỏ trước sau,

Muôn loài vạn sự biết bao vô thường,

Các ông chớ cảm thương bi thiết,

Đã đến giờ nhập diệt Như Lai,

Đừng lời chi nữa dông dài,

Đến hồi thể nhập Niết-bàn Vô Dư,

Đó là những lời từ Phật dạy

Cũng là lời để lại sau cùng,

Phật-đà trí tuệ đại hùng,

Muôn đời soi sáng trùng trùng nhân gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15759)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11057)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53623)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12966)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16520)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15391)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19152)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19921)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15548)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15340)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15140)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20325)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23938)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15485)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13022)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20092)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13268)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29015)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11694)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18274)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16640)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13229)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12797)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13244)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12966)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12859)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13000)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13536)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11705)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14225)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17720)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22576)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13439)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105735)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14598)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38414)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15515)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16048)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11322)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15642)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14019)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12824)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13698)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12490)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19369)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27001)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13107)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13461)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21584)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17964)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21870)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14204)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16069)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16128)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19095)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant