Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phật Thuyết Công Đức Tạo Tháp

17 Tháng Ba 201709:48(Xem: 14307)
Kinh Phật Thuyết Công Đức Tạo Tháp
Kinh Phật Thuyết Công Đức Tạo Tháp

No. 699
Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc
Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu (01).
Việt dịch: Quảng Minh.

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật ở tại cung trời Đao lợi, ngồi trên pháp tòa làm bằng ngọc trắng, cùng với các đại tỳ kheo, các đại bồ tát, thiên chủ trời Đao lợi, vô lượng chúng đều đến tụ tập. Bấy giờ, Đại phạm thiên vương, Na la diên thiên tử, Đại tự tại thiên tử và năm vị càn thát bà vương, mỗi vị cùng các quyến thuộc đều đi đến chỗ đức Phật, muốn thưa hỏi đức Thế tôn phương pháp tạo tháp và cái lượng công đức sinh ra khi tạo tháp.

Trong pháp hội có vị bồ tát tên là Quán Thế Âm, biết ý nghĩ của họ, từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai bên phải, gối phải chấm đất, chắp tay hướng về đức Phật mà thưa: Bạch đức Thế tôn, hôm nay có chư thiên và các vị càn thát bà đi đến nơi đây là muốn thỉnh cầu đức Thế tôn chỉ dạy phương pháp tạo tháp và cái lượng công đức sinh ra khi tạo tháp, con xin đức Thế tôn vì họ và vì lợi ích cho tất cả vô lượng chúng sinhgiải thuyết.

Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ tát Quán Thế Âm: Thiện nam tử, chư thiên cùng đại chúnghiện tại đây và tất cả chúng sinh ở đời vị lai, tùy theo chỗ ở, phương xứ nào chưa có ngôi tháp thì có thể kiến tạo ngôi tháp ở nơi ấy. Hình thể của ngôi tháp có thể cao lớn, tráng lệ, vượt quá ba cõi, cho đến nhỏ như trái xoài (02) . Trụ tháp (03) có thể cao đến Phạn thiên, cho đến nhỏ như cây kim. Lọng tháp (04) có thể lớn trùm khắp cõi đại thiên, cho đến nhỏ như chiếc lá của cây táo. Bên trong ngôi tháp chứa thờ xá lợi, tóc, răng, râu, móng của Như lai, cho đến chỉ có một phần (những loại xá lợi), hoặc an trí pháp tạng là các kinh trong mười hai thể loại (05), cho đến an trí một bài kệ có bốn câu. Công đức của người tạo tháp bằng với công đức của bậc Phạn thiên. Người ấy sau khi mạng chung thì sinh lên cõi trời Phạn thế (06). Sống hết thọ mạngcõi trời Phạn thế, người ấy sinh về cõi trời Ngũ tịnh cư (07), đồng đẳng không có khác biệt với chư thiên cõi đó (08). Thiện nam tử, Như lai đã nói những việc như vậy, đó là nhân duyên và cái lượng công đức của việc tạo tháp, ông và chư thiên v.v… phải nên tu học.

Bấy giờ, bồ tát Quán Thế Âm lại thưa với đức Phật: Bạch đức Thế tôn, như những gì Thế tôn đã dạy, từ việc an trí xá lợi cho đến pháp tạng, con đã tiếp nhận ghi nhớ. Con kính thưa hỏi đức Thế tôn về nghĩa của bài kệ có bốn câu, cúi xin đức Thế tôn vì con mà phân biệt diễn thuyết.

Bấy giờ, đức Thế tôn thuyết bài kệ sau:

                        Các pháp nhân duyên sinh

                        Ta nói là nhân duyên

                        Nhân duyên hết là diệt

                        Ta dạy nói như vậy. (09)

Thiện nam tử, nghĩa của bài kệ này là nói về pháp thân của Phật. Các ông phải sao chép bài kệ này rồi an trí ở trong ngôi tháp. Vì sao? Vì tất cả các pháp do nhân duyên sinh đều là thể tánh không tịch (10), vì vậy Như lai gọi đó là pháp thân.           Nếu có chúng sinh hiểu rõ ý nghĩa nhân duyên của các pháp, nên biết người ấy thấy được Phật (11).

Bấy giờ, bồ tát Quán Thế Âm cùng với chư thiên, tất cả đại chúng, các vị càn thát bà v.v… nghe những điều Thế tôn tuyên thuyết, ai cũng rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhậnphụng hành.

---------------------

Lời Tựa Kinh Công Đức Tạo Tháp

Tháp là gọi theo tiếng Phạn, dịch ý chỗ đất cao ráo. Tháp có hình vuông hay hình tròn, chế tác đa dạng, cầu kỳ hay giản dị (12), vẻ đẹp hài hòa, đắp đất trồng cây lưu lại linh ứng, cửa khóa pháp tạng, mong mỏi truyền đạt công đức hà sa, ngõ hầu đền đáp công lao trần kiếp.

Tháp đâu phải là nơi nói lên sự ái mộ vĩnh hằng với người cung kiếm mão y; như lăng Vũ Đế (13), vách Khổng Tử (14), chỉ dùng hiển bày sự chôn giấu mà thôi. Tháp có thể có cái lượng bằng với Đại thiên, trùm cả ba cõi và cao đến trời Phạn thế; có thể chỉ bằng với trái xoài, sánh với lá táo và ví như cây kim. Tháp dẫu có hai đường cao thấp, phước cũng không hai, dẫu có ngàn cách lớn nhỏ, tịnh tâm chung một. Tháp không chỉ là vàng ròng, ngọc trắng, cạnh tranh sáng đẹp; lửa ngay, nước sạch (15), nổi chìm màu sắc. Vào buổi chiều, tiếng gió lành thổi rung hòa vào tiếng chuông ngân trầm ấm. Vào buổi sáng, ngọt ngào lờ lững sương móc cõi tiên, long lanh ngưng đọng trên những phù điêu. Tháp là nơi vị đầy ba quả (16), công thêm bốn thiền, cao lên cung trời Hữu đảnh, đi đến ý địa Vô tai. Tháp dạy truyền ý tứ rộng sâu như vậy.

Ngày 15 tháng 11, mùa đông năm Vĩnh Long thứ nhất (680, vua Đường Cao Tông), cung thỉnh pháp sư Địa bà ha la người Thiên trúc cùng với 5 vị ở chùa Tây Minh, đạo tràng Hoằng Phước là các sa môn Viên Trắc v.v… phụng chiếu tuyên dịch kinh này. Đến ngày mùng 8 tháng 12 năm đó thì chư vị dịch xong văn nghĩa của kinh này, ngõ hầu pháp bảo này cứu giúp Đại thiên, khiến cho tuệ đăng kia chiếu sáng ba cõi. Kinh ấy sau đây: (17)

25.03.2011

(21.02.Tân Mão)


01. Địa bà ha la (613 – 687): Hán dịch là Nhật Chiếu. Sư xuất gia từ thưở ấu niên, từng trụ các chùa Ma ha bồ đề, Na lan đà. Sư có phong nghi cao đẹp, thông minh đỉnh ngộ, thông đạt 3 tạng, am tường 5 minh, rất giỏi chú thuật. Ngưỡng mộ chí nguyện của ngài Huyền Trang, năm 676, đời vua Đường Cao Tông, sư đến Trường An, bấy giờ sư đã trên 60 tuổi. Năm 680, nhà vua ra sắc lịnh thỉnh sư ở biệt viện và sắc 10 vị đại đức giúp sư dịch kinh tại chùa Thái Nguyên ở Đông kinh và các chùa Thái Nguyên và chùa Hoằng Phước ở Tây kinh. Trong 6 năm, từ năm 680 đến năm 685, sư và 10 vị đại đức cùng dịch xong kinh Đại thừa hiển thức, 18 bộ, 34 quyển. Năm 684, tại chùa Thái Nguyên, Tây kinh, sư trao cho ngài Pháp Tạng phẩm Nhập pháp giới của kinh Hoa nghiêm, nhờ đó kinh Hoa nghiêmTrung Quốc mới được đầy đủ. Sư thường nghĩ đến việc báo đáp công ơn của mẹ, muốn trở về quê, nhiều lần dâng biểu xin từ quy, cuối cùng được vua chấp nhận, nhưng tiếc rằng sư bị bịnh, nên không về quê được. Năm 687, sư thị tịch thọ 75 tuổi. Vũ Hậu ban sắc an táng sư tại chùa Hương SơnLong Môn, kinh đô Lạc Dương, Trung Quốc.

02. Am la quả (菴羅果, Amra): Luật Thiện kiến gọi trái xoài là trái am la.

03. Biểu sát (表剎): gọi tắt là sát, xuất từ chữ sát đa la (剎多羅, Ksetra), nghĩa là trụ phướng (tràng can). Trụ phướng tiêu biểu ở trên đỉnh của ngôi tháp gọi là biểu sát: vật tiêu biểu tháp. Sát chỉ cho cõi Phật, cũng để tôn xưng tháp Phật. Tôn xưng chùa thì gọi là Phạn sát. Trên tháp đặt trụ cao vọt lên, có nhiều khoanh tròn gọi là luân cái (8 khoanh sắp lên là tháp Phật). Chóp trụ là hình viên ngọc vọt sáng, bên trong tôn trí xá lợi Phật. Có khi trụ này dựng riêng trước tháp, gọi là trụ biểu. Có khi không có tháp mà chỉ có trụ, thì trụ này chính là tháp (và trên đỉnh trụ có một luân cái mắc linh báu). Chóp tất cả loại trụ đều làm bằng vàng, nên gọi là kim sát. Kinh Pháp hoa, phẩm Phân biệt công đức ghi: Trụ tháp rất cao rộng, nhỏ lần đến Phạn thiên (biểu sát thậm cao quảng, tiệm tiểu chí Phạn thiên: 表剎甚高廣, 漸小至梵天). Kinh Duy ma, phẩm Pháp cúng dường ghi: Dựng tháp bảy báu, chu vi bằng một đại lục nhân loại, cao đến Phạn thiên, trụ biểu tráng lệ (起七寶塔,縱廣一四天下,高至梵天,表剎莊嚴: khởi thất bảo tháp, túng quảng nhất tứ thiên hạ, cao chí Phạn thiên, biểu sát trang nghiêm).

04. Luân cái (輪蓋): lọng hình bánh xe, còn gọi là bàn cái, thừa lộ bàn, hình giống như chiếc mâm tròn, nhiều lớp chồng lên nhau, xuyên tâm là cây biểu sát.

05. Thập nhị bộ kinh (mười hai bộ kinh): Thể văn và sự lý trong tất cả các kinh chia ra 12 loại (bộ = bộ phận, hay chi = thành phần), mà có bộ hay cuốn kinh đủ cả 12 loại, có bộ hay cuốn chỉ là 1 loại cho đến 11 loại. Đó là: 1. Tu đa la (Sutra = khế kinh, vì khế hợp chân lýtâm lý) là thể văn trường hàng trong các kinh, nói thẳng pháp nghĩa, 2. Kỳ dạ (Geya = ứng tụng hay trùng tụng) là thể văn chỉnh cú ứng với văn trường hàng mà lặp lại pháp nghĩa ở trước, 3. Già đà (Gatha = phúng tụng hay cô khởi) là thể văn chỉnh cú không theo trường hàng mà tự nói pháp nghĩa, 4. Ni đà na (Nidana = nhân duyên) là thuật lại lý do thấy Phật nghe pháp, lý do và địa điểm Phật thuyết pháp giáo hoá, 5. Y đế mục đa (Itivutaka = bản sự) là Phật thuật lại nhân duyên quá khứ của đệ tử, 6. Xà đa già (Jataka = bản sinh) là Phật nói về nhân duyên quá khứ của ngài, 7. A phù đạt ma (Adbhutadharma = vị tằng hữu) là ghi lại những việc bất tư nghị của thần lực Phật thị hiện, 8. A ba đà na (Avadana = thí dụ) là nói những ví dụ, 9. Ưu bà đề xá (Upadesa = luận nghĩa) là vấn đáp thảo luận về pháp nghĩa, 10. Ưu đà na (Udana = tự thuyết) là Phật tự nói chứ không ai hỏi được, 11. Tỳ phật lược (Vaipulya = phương quảng) nói về chân lý chính xác và rộng lớn, 12. Hoà già la (Vyakarana = thọ ký) thọ ký thành Phật cho bồ tát. Tựu trung, 3 loại đầu là chia theo thể văn, 9 loại sau là chia theo sự lý của thể văn ấy.

06. Phạn thế (梵世, brahmaloka): còn gọi là Phạn sắc giới, Phạn thế thiên, Phạn thế giới, Phạn giới; chỉ cho thế giới thuộc quyền chi phối của Phạn thiên. Từ ngữ Phạn thế còn là từ để gọi chư thiên cõi Sắc, vì người ở cõi này đã lìa dâm dục, cho nên xưa nayẤn độ gọi hạnh ly dục, thanh tịnh là Phạn hạnh.

07. Cõi trời Ngũ tịnh cư thuộc Sắc giới, cũng gọi là Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ a na hàm thiên. Kinh Thủ lăng nghiêm ghi: Ở đây, còn có năm bậc Bất hoàn thiên, đã dứt sạch chín phẩm tập khí của cõi dưới, khổ vui đều hết, chẳng định cư ở cõi dưới, nên an lập chỗ ở nơi tâm xả của đồng phận chúng sinh. Năm bậc đó là: l. Khổ vui đã diệt, ưa ghét chẳng sinh, hạng này gọi là Vô phiền thiên; 2. Tự tại phóng xả, chẳng có năng sở, tâm chẳng đối đãi, hạng này gọi là Vô nhiệt thiên; 3. Mười phương thế giới, diện kiến trong lặng, chẳng còn tất cả cấu nhiễm của cảnh trần, hạng này gọi là Thiện kiến thiên; 4. Diệu kiến hiện tiền, biến tạo vô ngại, hạng này gọi là Thiện hiện thiên; 5. Sắc trần từ tướng lăng xăng đến chỗ cứu cánh chẳng động, cùng tột tánh sắc chẳng có bờ bến, hạng này gọi là Sắc cứu cánh thiên. A Nan, với các cõi Bất hoàn thiên này, chỉ riêng bốn vị thiên vương cõi tứ thiền mới được nghe biết, nhưng chẳng thể thấy biết. Như nay trong thế gian, nơi núi sâu rừng thẳm, những đạo tràng của bậc thánh, đều có các vị a la hán trụ trì, mà người thế tục chẳng thể thấy.

08. Ngũ Tịnh cư thiên là chỗ ở của các vị a na hàm. Các vị sẽ ở đây tu tập tiếp để chứng quả a la hán. Thân của các vị trời trong Ngũ tịnh cư thiên bằng sắc chất cực vi tế hơn hẳn tất cả các cõi trời bên dưới trong Sắc giới.

09. Kệ tụng này thuyết minh sự bất sinh bất diệt của pháp thân, nên gọi là pháp thân kệ, pháp thân xá lợi kệ, pháp tụng xá lợi. Kinh Dục tượng công đức ghi: Thiện nam tử, chư Phật Thế tôn có đủ ba thân, đó là pháp thân, thọ dụng thânhóa thân. Sau khi Như lai nhập niết bàn, nếu ai muốn cúng dường ba thân này thì nên cúng dường xá lợi. Song xá lợi có hai loại: một là thân cốt xá lợi, hai là pháp tụng xá lợi. Đức Phật liền nói một pháp tụng: Các pháp theo duyên khởi/ Như lai nói là nhân/ Pháp kia nhân duyên hết/ Là đại sa môn nói.

(諸法從緣起, 如來說是因, 彼法因緣儘, 是大沙門說: Chư pháp tùng duyên khởi/ Như lai thuyết thị nhân/ Bỉ pháp nhân duyên tẫn/ Thị đại sa môn thuyết).

10. Thể tánh chân thật của tất cả các pháp, không luận là tâm hay sắc, đều là cái tánh không tịch. Các pháp không tịch nên không có một sự gì và cũng không có một tướng gì, nhưng vì vậytùy duyên có tất cả sự, tất cả pháp. Như Trung luận ghi: “Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành”.(以有空義故,一切法得成: Vì do có tánh không nên các pháp đều thành).

11. Tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâm chung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tônđảnh lễ Ngài lần cuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi ở của Thế Tôn được, cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mình ở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khi đến đức Thế Tôn hỏi: - Này Vakkali, nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vân hay hối hận không ? Tôn giả Vakkali thưa rằng: - Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali. Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp. (H.T Minh Châu dịch, kinh Tương ưng bộ, tập 3)

12. Chánh văn là sạ trác sạ phác. Cầu kỳ thì như ngọc đã mài giũa, giản dị thì như ngọc chưa mài giũa.

13. Chỉ cho vua Vũ nhà Hạ, 2205 trước Công nguyên.

14. Khổng bích: Sách Hán thư, thiên Nghệ văn chí có ghi: “Thượng thư cổ văn lấy từ trong vách nhà họ Khổng. Cuối đời Vũ Đế, Lỗ Cung Vương phá đất nhà Khổng Tử, muốn làm rộng cung thất của mình, mà phát hiện Cổ văn thượng thư, tới Lễ ký, Luận ngữ, Hiếu kinh, phàm hơn 10 thiên, đều là chữ cổ. Cung Vương ra vào nhà đó, nghe thấy tiếng đàn sắt, đàn cầm, chuông, khánh, sợ hãi bèn dừng việc không phá vách nữa. Khổng An Quốc là hậu duệ của Khổng Tử, dốc lòng học được sách này, khảo chú 29 thiên, được hơn 16 thiên. Được An Quốc hiến cho triều đình, gặp nạn vu cổ, chưa được xếp vào hàng học quan”.

15. Chỉ cho các hoa văn lửa và nước.

16. Ba quả là chỉ cho thánh quả a na hàm, quả thứ 3 trong bốn quả thanh văn.

17. Trong đại tạng kinh, lời tựa này nằm ở phía trên kinh văn, nay đưa xuống như là phụ lục.

Quảng Minh Việt dịch

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26164)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27453)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27837)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26651)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31128)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20194)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22819)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 29955)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21490)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20169)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22569)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20688)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30191)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28713)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34633)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44130)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35421)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22476)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21284)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20605)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24678)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37820)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 18951)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19272)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21726)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20811)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29438)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35019)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28756)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32527)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26158)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28853)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43042)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34830)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43821)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37797)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21272)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 42977)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48941)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39740)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53723)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36771)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40736)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49659)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47225)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27612)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 26976)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27171)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24026)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20797)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34269)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22414)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25040)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25781)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22894)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22430)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21705)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23280)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21116)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29824)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant