Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)

16 Tháng Giêng 201808:48(Xem: 16244)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)

 

NGHIÊN CỨU VỀ KINH A HÀM (Ãgama, Sanscrist)

oOo

T/S Lâm Như-Tạng

 

A-NGHIÊN CỨU MỘT

KINH A HÀM. Đó là tên gọi chung các Kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy. Dịch là Pháp qui nghĩa là gồm thâu các Pháp. Còn dịch là Vô tỷ pháp, nghĩa là các Pháp mầu nhiệm không chi sánh bằng.

Phật thuyết giảng Kinh A Hàm tất cả có bốn bộ:

1/-Trường A Hàm (Dirghãgama)

2/-Trung A Hàm (Madhyamãgama)

3/-Tạp A Hàm (Samyuktãgama)

4/-Tăng Nhứt A Hàm (Ekottarãgama)

Bốn bộ kinh A Hàm chuyên giải về giáo pháp Phật Giáo Nguyên Thủy, giảng giải rằng các pháp đều có nên gọi là Tứ hửu.

Sau khi thành đạo, đức Phật đến thành Ba La Nại thuyết pháp độ sanh, lưu trú tại Vườn Nai khoảng 12 năm. Do đó thời kỳ nầy được gọi là A Hàm Thời hoặc là Vườn Nai Thời.

Các kinh A Hàm đều được gom vào Tứ Diệu Đế và 12 Nhân Duyên. Ai thọ trì, khéo thi hành Tứ Diệu Đếquán tưởng mà diệt tận 12 Nhân Duyên thì được Đắc Đạo thành A La Hán hoặc Duyên Giác.

 

B-NGHIÊNG CỨU HAI

Theo danh từ Phật học tiếng Anh:

Ãgama, the Ãgama, a collection of doctrines, general name for the Hinayãna scriptures: the home or collecting-place of the Law or Truth; peerless law; or ne plus ultra , ultimate, absolute truth. Four Ãgama are Dirghãgama “long” treatises on cosmogony. Madhyamãgama “middle” teatises on metaphysics. Samyuktãgama “miscellaneous” treatises on abstract contemplation. Ekottarãgama “numerical” treatises, subjects treated numerically. There is also a division of Five Ãgama. The period when the Buđha taught Hinayãna doctrine in the Deer Garden during the first twelve years of his ministry. Hinayãna.

C-NGHIÊN CỨU BA

A Hàm (Ãgama) tên gọi chung các Kinh Phật Giáo Nguyên Thủy. Còn gọi là A cấp ma, A hàm, A hàm mộ, dịch là Pháp qui. Nghĩa là tất cả Pháp đều qui về nơi đây không thiếu sót. Còn dịch là Vô tỷ pháp, nghĩa là diệu pháp không gì so sánh kịp. Hoặc dịch là Xu vô, nghĩa là ý chỉ được nói ra cuối cùng không theo về đâu cả.

Tham khảo: Trường A hàm kinh tự. Danh nghĩa tập, quyển 4. A hàm mộ sao tự. Thiện kiến luật Tỳ bà sa, q.1; v.v…

1/-Biệt dịch Tạp A Hàm kinh 16 quyển, không rõ tên người dịch. Dịch toát yếu của Tạp A Hàm kinh.

2/-Ngũ A Hàm kinh gồm có: (1)-Trường A Hàm.(2)-Trung A Hàm. (3)-Tăng dục đa A hàm. (4)- Ương quật đà la A Hàm. (5)-Quật đà già A Hàm.

3/-Tạp A hàm kinh, 1 quyển. Không rõ tên người dịch. Dịch toát yếu trong Tạp A hàm bản kinh.

4/-Trường A hàm thập báo pháp kinh, 1 quyển. An Thế Cao đời Hậu Hán dịch, đồng bản với Thập Thượng Kinh của Trường A Hàm nhưng khác người dịch. Thập chủng pháp nói ở Tăng Nhất.

5/-Tứ A Hàm Kinh. Tất cả kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy chia làm 4 bộ:

(1)-Tăng Nhất A Hàm kinh (Ekottarãgama ), 51 quyển, sưu tập số của pháp môn.

(2)-Trường A Hàm kinh (Dirghãgama), 22 quyển, tập hợp những kinh văn dài.

(3)-Trung A Hàm kinh (Madhyamãgama), 60 quyển, tập hợp các kinh văn không dài không ngắn.

(4)-Tạp A Hàm kinh (Samyuktãgama), 50 quyển, hổn hợp cả 3 loại trên. Tên của 4 bộ do thể tài của kinh văn mà thành.

Các kinh A Hàm đều tập trung nói về Tứ Diệu Đế và 12 Nhân Duyên.

D-NGHIÊN CỨU BỐN

I-GIẢI THÍCH A HÀM

A Hàm dịch ý là Pháp qui, Pháp bản, Pháp tạng, Giáo pháp, Giáo phần, Chủng chủng thuyết, Vô tỷ pháp, Truyền giáo, Tịnh giáo, Thú vô, Giáo, Truyền, Qui, Lai, Tạng.

Hiện tại, các học giả giải thích nghĩa A Hàm là Lai trước, Thú qui, Tri thức, Thánh ngôn, Thánh huấn tập, Kinh điển v.v…tức là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do những giáo thuyết tập thành. A Hàm thông thường chỉ 4 bộ A Hàm hoặc 5 bộ A Hàm Thánh Điển của Phật Giáo Nguyên Thủy.

Những bộ luận giải thích về A Hàm gồm có: Luận Du già sư địa, quyển 85; Dị bộ tông luân luận thuật ký; Thành duy thức luận thuật ký, quyển 4; Câu xá luận quang ký quyển 28; Huyền ứng âm nghĩa quyển 23, 25; Du già luận ký quyển 6; Tuệ lâm âm nghĩa quyển 18, 26, 51; Hi lân âm nghĩa quyển 8; Viên giác kinh đại sớ sao quyển 4, v.v…Những luận trên đều giải thích A Hàmgiáo pháp được truyền thừa.

Thiện kiến luật tỳ bà sa quyển 2 thì gọi A Hàm là nghĩa dung chứa, tụ tập. Nhưng đây có thể là chỉ cho tiếng Pãli Nikaya có nghĩa là tập hội, hoặc toản tập chứ không phải giải thích Ãgama. Pháp hoa luận sớ quyển trung có nêu ra thuyết của Đạo An đời Đông Tấn, giải thích rằng: A Hàm là thú vô vi tất cả Pháp đều qui về pháp Không rốt ráo.

Trong bài tựa kinh A Hàm, Tăng Triệu giải thích A Hàm là pháp qui. Có thể nói tất cả những giải thích trên đây đều không đúng với ý chính của từ A Hàm. Bởi vì A Hàmgiáo pháp được truyền thừa, sau khi đức Phật nhập diệt mới lần lược được kết tập thành nội dung của Tạng Tu Đa La (Phạn: Sũtrãnta-pitaka, Tạng Kinh) trong ba tạng, chia làm 4 A Hàm hoặc 5 A Hàm. Bốn A Hàm tức là: Trung A Hàm, Trường A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, Tạp A hàm (hoặc Tương Ứng) mà kinh Bát Nê Hoàn quyển hạ, Hửu Bộ tỳ nại da tạp sự quyển 39, luận Đại Trí Độ quyển 2, luận Du Già Sư Địa quyển 85, soạn tập Tam TạngTạp Tạng truyện v.v…đã đề cập đến.

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 1, phẩm tựa, kinh Đại Bát Niết Bàn, bản Bắc, quyển 13; kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luận quyển 2, v.v…cũng có ghi tên bốn A Hàm.

Về Năm A Hàm, Thiện Kiến Luật Tỳ bà Sa quyển 1, Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trụ Kí, v.v…ghi rằng: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Thuật Đa (Tương Ưng), Ưng Quật Đa (Tăng Nhất) và Khuất Đà Ca ( Tạp Loại). Luật Ngũ Phần quyển 30, Luật Ma Ha Tăng Kỳ quyển 32, Luật Tứ Phần quyển 54, Luận Phân Biệt Công Đức quyển 1, v.v…gọi Khuất Đà Ca A Hàm trong 5 A HàmTạp Tạng. Năm A Hàm nầy tương đương với năm bộ kinh (pãnaca-nikãya) trong kinh Phật bằng tiếng Pãli.

Trong Tỳ Nai Ya Tiểu Phẩm (Vinayacũlavagga), Nhất Thiết Thiện Kiến (Samanta-pãsãdikã I) và bài tựa của Trường Bộ Kinh Chú (Sumangala-vilãsini) thì năm bộ kinh là: Dĩgha-nikãya, Mjjhima-nikãya, Sam-yutta-nikãya, Anguttara-nikãya và Khuddaka-nikãya tưng đương với năm bộ A Hàm: Trường, Trung, Tương Ứng, Tăng Chi và Tiểu Bộ kinh hiện nay.

Trong bài tựa của Trường Bộ kinh viết: Sau đại hội kết tập lần thứ nhất, Trường Bộ Kinh do hệ thống A Nan, Trung Bộ Kinh do hệ thống Xá Lợi Phất, Tương Ứng Bộ Kinh do hệ thống Đại Ca Diếp, Tăng Chi Bộ do hệ thống A Na Luật lần lượt truyền thừa.

Luận Di Bộ Tông, luận Câu Xá quyển 29, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích quyển 2 của Vô Tính, luận Thành Duy Thừc quyển 3, v.v…thì A Hàm là do các bộ phái truyền thừa tựa hồ không giống nhau.

Theo Pháp Hoa Kinh Huyền Tán quyển 1, phần đầu của Khuy Cơ, Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương quyển 4, Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm quyển 8 của Trừng Quán thì 4 bộ A Hàm và luật Ma Ha Tăng Kỳ đều do Đại Chúng Bộ truyền. Còn Câu Xá Luận Kê Cổ quyển thượng của Pháp Chàng thì cho rằng Trung A HàmTạp A HàmTát Bà Đa Bộ truyền, Tăng Nhất A Hàm do Đại Chúng Bộ truyền, Trường A Hàm do Hóa Địa Bộ truyền, Biệt dịch Tạp A Hàm do Ẩm Quang Bộ truyền. Nhưng thuyết nầy chưa hẳn đã chính xác.

Tóm lại A Hàm là do các bộ phái đều tự truyền thừa riêng nhưng sau khi kinh điển Đại Thừa phát đạt so với A Hàm, mới cho A Hàm là tên gọi khác của kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy.

Theo luận Đại Trí Độ quyển 33, 49, 100 thì tên gọi A Hàm cùng chung cho cả Đại Thừa. Cho nên trong kinh Đại Ban Nê Hoàn quyển 6 mới có từ ngữ “Phương Đẳng A Hàm”. Phương Đẳng A Hàm tức là chỉ kinh điển Đại Thừa.

Tham khảo: Du Già Luận Ký quyển 22. Huyền Ứng Âm Nghĩa quyển 24. Hi Lân Âm Nghĩa quyển 8. Phiên Phạm Ngữ quyển 1. Xuất Tam Tạng Ký Tập quyển 9. Di Bộ Tông Luận Thuật Ký Phát Nhẫn quyển thượng. Nguyên Thủy Phật Giáo Thánh Điển Chi Tập Thành Đệ Nhị Chương Đệ Tam Tiết, Đệ Tứ Tiết, Đệ Thất Chương, Ấn Thuận. A Hàm Kinh v.v…

II-KINH A HÀM

A Hàm là chỉ cho giáo pháp được truyền thừa hoặc là Thánh Điển truyền thừa giáo pháp của đức Phật. Ở đây nó cùng nghĩa với Pháp (Dharma (phạn)). Gọi A Hàmkinh A Hàm là do thói quen xưa nay.

Thời đại Phật Giáo Nguyên Thủy các vị đệ tử đức Phậttín đồ thường dùng thể thơ hoặc những đoạn văn xuôi ngắn gọn, hoặc dùng phương thức truyền miệng lẫn nhau để ghi nhớ và truyền thừa những giáo pháp đã nghe đức Phật nói.

Nói cách khác, cái căn cứ ghi nhớ của những người truyền thừa ấy chính là giáo thuyết khái quát của đức Phật. Vì các đệ tử Phật tiếp thu không giống nhau nên mới có những tư tưởng khác nhau. Bởi thế, đến khi giáo đoàn được thành lập thì giáo thuyết của đức Phật phải được chỉnh lý và thống nhất như thế nào đã trở thành một việc tất yếu.

Kết quả, giáo thuyết của đức Phật dần dần được đầy đủ hoàn bị và cũng dần phát triển thành một hình thức văn học nhất định. Sau cùng đã trở thành Thánh Điển. Đó là nguyên nhân kinh A Hàm được hình thành.

Như vậy kinh A Hàm được hệt thống hóa và hình thành vào thời gian nào? Vấn đề nầy phải lần theo thứ tự của các kỳ kết tập kinh điển để bàn thảo mới rõ được.

1-SAU KHI ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN

Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn vào mùa hạ an cư đầu tiên , năm trăm vị A La Hán họp ở hang đá Thất Diệp, bên ngoài thành Vương Xá. Ngài Đại Ca Diếp đưọc suy tôn làm Thượng Thủ, chủ tọa kết tập kinh điển lần thứ nhất, ngài A Nan đọc lại Pháp (kinh), Ưu Ba Li đọc lại luật.

Đây là lần kết tập Kinh, Luật nỗi tiếng trong lịch sử Phật Giáo và thường được gọi là Ngũ Bách Kết Tập (nghĩa là lần kết tập có 500 vị A La Hán tham dự).

2-SAU ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN KHOẢNG 100 NĂM

Bảy trăm vị tỳ kheo hội họp tại thành Tỳ Xá Ly, ngài Da Xá được bầu làm thượng thủ, cử hành kết tập lần thứ hai. Lần kết tập nầy chủ yếu là tụng lại Tạng Luật . Đây cũng là lần kết tập trứ danh và thường được gọi là Thất Bách Kết Tập (cuộc kết tập có 700 vị tỳ kheo tham dự).

3-SAU ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN KHOẢNG 236 NĂM

Tức là vào thời vua A Dục, tại thành Hoa Thị, dưới sự chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, cuộc kết tập lần thứ 3 đã được tổ chức, đến đây ba Tạng Giáo Pháp mới dược hoàn thành .

4-SAU ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN KHOẢNG 400 NĂM

Tại nước Ca Thấp Di La, Hiếp Tôn Giả và ngài Thế Hửu được suy tôn làm Thượng Thủ, cử hành kết tập lần thứ tư. Lần kết tập nầy chủ yếu là làm luận để giải thích ba Tạng.

Tóm lại, Kinh A Hàm được tụng lại trong lần kết tập thứ nhất. Từ lần kết tập thứ hai về sau, tức vào thế kỷ thứ ba trước tây lịch là thời kỳ kinh A Hàm chính thức được thành lập.

Về hình thức văn học, kinh A Hàm được chia làm 2 loại: 9 thể tài và 12 thể tài.

9 thể tài gồm có: Kinh, Trùng Tụng, Ký Thuyết, Kệ Tụng, Cảm Hứng Kệ, Như Thị Ngữ (bản sự), Bản Sinh, Phương Quảng, Vị Tằng Hửu Pháp.

12 thể tài gồm có: 9 loại nói trên cọng với Nhân Duyên, Thí Dụ, Luận Nghi, thành 12 thể tài. 9 thể tài được thành lập sớm hơn 12 thể tài. Nhưng về bộ loại văn học của kinh điển Phật Giáo thì lấy 12 thể tài làm luận cứ nhất định.

Sau đức Phật nhập Niết Bàn khoảng 100 năm, giáo đoàn thống nhất của Phật Giáo Nguyên Thủy bị phân làm 2 thành Thượng Tọa BộĐại Chúng Bộ.

Về sau lại chia nhỏ thành 20 bộ phái Nguyên Thủy và mỗi bộ phái đều có kinh tạng riêng truyền thừa riêng của mình.

Theo những tư liệu hiện nay cho thấy, lúc bấy giờ, ít ra cũng còn tồn tại các kinh điển do Thượng Tọa Bộ Phương Nam, Hửu Bộ, Hóa Địa Bộ, Pháp Tạng Bộ, Đại Chúng Bộ, Ẩm Quang BộKinh Lượng Bộ truyền.

Nhưng cho đến ngày nay, chỉ có kinh điển của Thượng Tọa Bộ Phương Nam là được bảo tồn một cách toàn vẹn, gồm có 5 bộ viết bằng tiếng Pãli, đó là: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ứng Bộ, Tăng Chi BộTiểu Bộ (tức Khuất Đà Ca A Hàm). Đây là 5 bộ Nam Truyền, cũng gọi là 5 A Hàm Nam Truyền.

Về phía Bắc truyền, những kinh điển rời rạc lẻ tẻ của các bộ phái được gôm lại thành 4 A Hàm: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A HàmTạp A Hàm viết bằng tiếng Phạn. Đây là 4 bộ A Hàm Bắc truyền. Trong đó, Trường Bộ, Trung Bộ của Nam Truyền tương đương với Trường A Hàm, Trung A Hàm của Bắc Truyền. Tương Ứng Bộ tương đương với Tạp A Hàm, Tăng Chi Bộ tương đương với Tăng Nhất A Hàm.

Năm bộ A Hàm Nam Truyền viết bằng tiếng Pãli, gần với tiếng nói hằng ngày ở thời đức Phật hơn, nên thông thường người ta cho rằng Nam Truyền giàu sắc thái Nguyên Thủy hơn Bắc Truyền. Và cũng vì thế nên các học giả cận đại muốn khảo chứng các tư liệu nguyên thủy, phần nhiều thích dùng Kinh Điển văn Pãli để đối chiếu nghiên cứu.

Thường trên phương diện truyền thống, các học giả thường cho kinh A Hàm thuộc về Phật Giáo Nguyên Thủy. Trên phương diện giáo lý sử, tại Trung QuốcNhật Bản v.v… kinh A Hàm từ trước đến nay không được coi trọng. Mãi đến thời cận đại các nước châu Âu mới để tâm nghiên cứu. Từ năm 1820 dần dần mới coi trọng và xác nhận: Kinh A Hàm không phải chỉ là kinh điển Tiểu Thừa mà còn là kinh điển của Phật Giáo Nguyền Thủy. Nội dung bao hàm cả thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp thực tiễn của đức Phật có nhiều ý nghĩagiá trị quan trọng.

5-BỐN BỘ A HÀM BẮC TRUYỀN

a-KINH TRƯỜNG A HÀM

Gồm có 22 quyển, chia làm 4 phần, 30 kinh. Các kinh trong phần thứ nhất nói về đức Phật. Phần thứ 2 là kinh điển nói về giáo lý và sự tu hành. Phần thứ 3 là những lời vấn nạn của ngoại đạo. Phần thứ tư bàn về sự sanh diệt, thành hoại của thế giới.

b-KINH TRUNG A HÀM

Gồm có 60 quyển, 222 kinh, đại ý nói rõ 4 Diệu Đế, 12 Nhân Duyên, ví dụ những lời nóiviệc làm của đức Phật và các vị đệ tử.

c-KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Gồm có 51 quyển, là kinh gom góp các loại pháp số. Vì kinh nầy gom thu các pháp số từ một Pháp đến 11 Pháp cho nên gọi là Tăng Nhất (thêm một).

d-KINH TẠP A HÀM

Gồm có 50 quyển, do gom góp các kinh ngắn và lẫn lộn nhiều thứ mà thành cho nên gọi là Tạp A Hàm.

Năm A Hàm Nam Truyền và 4 A Hàm Bắc truyền, nội dung chưa hẳn đã hoàn toàn giống nhau. Đôi khi cũng có chỗ hơi khác nhau. A Hàm Nam Truyền có thuyết năm phần. A Hàm Bắc truyền thì có 2 thuyết 4 phần và 5 phần.

Đồ biểu đối chiếu các thuyết như sau:

d1-THUYẾT 5 NIKÃYA

*Theo Luật Nhất Thiết Thiện Kiến, văn Pãli:

(1)-Dĩgha nikãya. (2)-Majjhima nikãya. (3)-Samyutta nikãya. (4)-Anguttara nikãya. (5)-Khuddaka nikãya.

d2-THUYẾT 5 A HÀM

*Theo Thiện Kiến Luật Tì Bà Sa quyển 1:

(1)-Trường A Hàm. (2)-Trung A Hàm. (3)-Tăng Thuật Đa A Hàm. (4)- Ương Quật Đa La A Hàm. (5)-Khuất Đà Ca A Hàm.

d3-THUYẾT 4 A HÀM NĂM BỘ

*Theo Luật Ngũ Phần quyển 30, Luật Ma Ha Tăng Kỳ quyển 32, Luật Tứ Phần quyển 54:

(1)-Trường A Hàm. (2)-Trung A Hàm. (3)-Tạp A Hàm. (4)-Tăng Nhất A Hàm. (5)-Tạp Tạng.

d4-THUYẾT 5 A CẤP MA

*Theo Pháp Trụ Ký:

(1)-Trường A Cấp Ma. (2)-Trung A Cấp ma. (3)-Tương Ưng A Cấp Ma. (4)-Tăng Nhất A Cấp Ma. (5)-Tạp Loại A Cấp Ma.

d5-THUYẾT 4 A HÀM

*Theo Hửu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự quyển 39:

(1)-Trường. (2)-Trung. (3)-Tương . (4)-Tăng.

*Theo Tăng Nhất A Hàm Tự Phẩm:

(1)-Tăng. (2)-Trung. (3)-Trường.(4)-Tạp.

*Theo Du Già Sư Dịa Luận quyển 85:

(1)-Tạp. (2)-Trung. (3)-Trường. (4)-Tăng.

*Theo Tuyển tập Tam TạngTạp Tạng Truyền:

(1)-Tăng. (2)-Trung. (3)-Trường. (4)-Tạp.

*Theo kinh Ban Nê Hoàn:

(1)-Trung. (2)-Trường. (3)-Tăng . (4)-Tạp.

III-TẠP A HÀM – KINH BIỆT SINH

Bốn kinh A Hàm Hán dịch cùng một bản tiếng Phạn nhưng dịch khác, và các kinh Biệt Sinh được biểu liệt như sau:

1-Kinh Tạp A Hàm 50 quyển, Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống dịch.

2-Kinh Biệt Sinh Tạp A Hàm, 16 hay 20 quyển, đời Hậu Tấn, mất tên người dịch.

3-Kinh Tạp A Hàm quyển 1, đời Ngô, mất tên người dịch.

4-Kinh Phật Thuyết Thất Xứ Tam Quán 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 2 và quyển 34), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

5-Kinh Ngũ Uẩn Giai Không 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 2), Nghĩa Tịnh đời Đường dịch.

6-Kinh Phật Thuyết Thánh Pháp Ấn 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 3), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

7-Kinh Phật Thuyết Pháp Ấn 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 3), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

8-Kinh Ngũ ẤmThí Dụ 1 quyển (Tạp A Hàm 10 quyển), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

9-Kinh Phật Thuyết Thủy Mạc Sở Phiêu 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 10), Trú Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

10-Kinh Phật Thuyết Bất Tự Thủ Ý 1 quyển (Tạp A Hàm 11 quyển) Chi Khiêm đời Ngô dịch.

11-Kinh Phật Thuyết Mãn Nguyệ n Tử 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 13), đời Đông Tấn, mất tên người dịch.

12-Kinh Phật Thuyết Chuyễn Pháp Luận 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 15), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

13-Kinh Tam Chuyển Pháp Luận 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 15), Nghĩa Tịnh đời Đường dịch.

14-Kinh Phật Thuyết Tương Ứng Tương Khả 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 16), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

15-Kinh Luân Vương Thất Bảo 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 27), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

16-Kinh Phật Thuyết Bát Chánh Đạo 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 28), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

17-Kinh Nan Đề Thích 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 30), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

18-Kinh Phật Thuyết Mã Hửu Tam Tướng 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 33), Chi Diệu đời Hậu Hán dịch.

19-Kinh Phật Thuyết Mã Hửu Bát Thái Thí Nhân 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 33), Chi Diệu đời Hậu Hán dịch.

20-Kinh Phật Thuyết Giới Đức Hương 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 38), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

21-Kinh Phật Thuyết Giới Hương 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 38), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

22-Kinh Ương Quật Ma 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 38), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

23-Kinh Ương Quật Kế 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 38), Pháp cự đời Tây Tấn dịch.

24-Kinh Ưng Quật Ma La 4 quyển (Tạp A Hàm quyển 38), Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Rống dịch.

25-Kinh Nguyệt Dụ 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 41), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

26-Kinh Phạm Chí Kế Thủy Tịnh 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 44), đời Đông Tấn, mất tên người dịch.

27-Kinh Đại Tam Ma Nhạ 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 44), Pháp Thiên đời Bắc Tống dịch.

28-Kinh Thụ Tân Tuế 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 45), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

29-Kinh Tân Tuế 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 45), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

30-Kinh Giải Hạ 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 45), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

31-Kinh Ba Tư Nặc Vương Thái Hậu Băng Trần Thổ Bộn Thân 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 46), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

32-Kinh Phóng Ngưu 1 quyển (Tạp A Hàm quyển 47), Cưu Ma La Thập đời Hậu Tần dịch.

IV-KINH TRUNG A HÀM

Chỉ có một bản tiếng Phạn nhưng có 2 bản dịch tiếng Trung Hoa:

*Kinh Trung A Hàm 59 quyển, Đàm Ma Nan Đề đời Phù Tần dịch (đã mất).

*Kinh Trung A Hàm 60 quyển, Tăng Già Đề Bà đời Đông Tấn dịch (hiện còn).

BIỆT SINH KINH có 66:

1-Kinh Phật Thuyết Nhất Trí 1 quyển (kinh Thiện Pháp), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

2-Kinh Phật Thuyết Viên Sinh Thụ 1 quyển (kinh Trú Độ Thụ), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

3-Kinh Phật Thuyết Hàm Thủy Dụ 1 quyển (kinh Thủy Dụ), mất tên người dịch.

4-Kinh Phật Thuyết Tát Bát Đa Tô Ly Du Nại Dã 1 quyển (kinh Thất Nhật), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

5-Kinh Phật Thuyết Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân (kinh Lậu Tận), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

6-Kinh Phật Thuyết Tứ Đế (kinh Phân Biệt Thánh Đế), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

7-Kinh Phật Thuyết Hằng Thủy (kinh Chiêm Ba), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

8-Kinh Pháp Hải 1 quyển (kinh Chiêm Ba), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

9-Kinh Phật Thuyết Hải Bát Đức 1 quyển (kinh Chiêm Ba), Cưu Ma La Thập đời Hậu Tần dịch.

10-Kinh Phật Thuyết Bản Tướng Y Trí 1 quyển (kinh Bản Tế), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

11-Kinh Phật Thuyết Duyên Bản Trí 1 quyển (kinh Bản Tế), mất tên người dịch.

12-Kinh Phật Thuyết Luân Vương Thất Bảo 1 quyển (kinh Thất Bảo), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

13-Kinh Phật Thuyết Đỉnh Sinh Vương Cố Sự 1 quyển (kinh Tứ Châu), Đàm Vô Sấm đời Bắc Lương dịch.

14-Kinh Phật Thuyết Văn Đà Kiệt Vương 1 quyển (kinh Tứ Châu), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

15-Kinh Phật Thuyết Tần Bà Sa La Vương 1 quyển (kinh Tần Bà Sa La Vương Nghinh Phật), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

16-Kinh Phật Thuyết Thiết Thành Nê Lê 1 quyển (kinh Thiên Sứ), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

17-Kinh Phật Thuyết Diêm La Vương Ngũ Thiên Sứ Giả 1 quyển (kinh Thiên Sứ), Tuệ Giản đời Lưu Tống dịch.

18-Kinh Phật Thuyết Cổ Lai Thế Thời 1 quyển (kinh Thuyết Bản), mất tên người dịch.

19-Kinh Đại Chính Cú Vương 1 quyển (kinh Bì Tứ), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

20-Kinh Phật Thuyết A Na Luật Bát Niệm 1 quyển (kinh Bát Niệm), Chi Diệu đời Hậu Hán dịch.

21-Kinh Phật Thuyết Ly Thụy 1 quyển (kinh Trưỡng Lão Thượng Tông Thụy Miên), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

22-Kinh Phật Thuyết Thị Pháp Phi Pháp 1 quyển (kinh Chân Nhân), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

23-Kinh Phật Thuyết Cầu Dục 1 quyển (kinh Uế Phẩm), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

24-Kinh Phật Thuyết Thụ Tuế 1 quyển (kinh Tỳ Khưu Thỉnh), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

25-Kinh Phật Thuyết Phạm Chí Kế Thủy 1 quyển (kinh Thủy Tịnh Phạm Chí), mất tên người dịch.

26-Kinh Phật Thuyết Đại Kinh Nghĩa 1 quyển (kinh Đại Nhân), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

27-Kinh Phật Thuyết Khổ Ấm 1 quyển (kinh Khổ Ấm), mất tên người dịch.

28-Kinh Phật Thuyết Khổ Ấm Nhân Sự 1 quyển (kinh Khổ Ấm), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

29-Kinh Phật Thuyết Thích Ma Nam Bản Tứ Tử 1 quyển (kinh Khổ Ấm), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

30-Kinh Phật Thuyết Lạc Tưởng 1 quyển (kinh Tưởng), Trúc Pháp Hộ đời Hậu Hán dịch.

31-Kinh Phật Thuyết Lậu Phân Bá 1 quyển (kinh Đạt Phạm Hạnh), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

32-Kinh Phật Thuyết A Nậu Phong 1 quyển (kinh A Nô Ba), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

33-Kinh Phật Thuyết Chư Pháp Bản 1 quyển (kinh Chư Pháp Bản), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

34-Kinh Phật Thuyết Cù Đàm Di Ký 1 quyển (kinh Cù Đàm Di), Tuệ Giản đời Lưu Tống dịch.

35-Kinh Phật Thuyết Chiêm Ba Tỳ Kheo 1 quyển (kinh Chiêm Ba), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

36-Kinh Phật Thuyết Phục Dâm 1 quyển (kinh Hành Dục), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

37-Kinh Phật Thuyết Ma Nhiễu Loạn 1 quyển (kinh Hàng Ma), mất tên người dịch.

38-Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên 1 quyển (kinh Hàng Ma), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

39-Kinh Phật Thuyết Lại Tra Hòa La 1 quyển (kinh Lại Tra Hòa La), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

40-Kinh Phật Thuyết Hộ Quốc 1 quyển (kinh Lại Tra Hòa La), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

41-Kinh Phật Thuyết Đế Thích Sở Vấn 1 quyển (kinh Thích Vấn), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

42-Kinh Phật Thuyết Số 1 quyển (kinh Toán Số Mục Kiền Liên), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

43-Kinh Phạm Chí Át Ba La Diên Vấn Chủng Tôn (kinh A Nhiếp Hòa), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

44-Kinh Phật Thuyết Tu Đạt 1 quyển (kinh Tu Đạt Đá), Cầu Na Tỳ Địa đời Tiêu Tề dịch.

45-Kinh Phật Thuyết Trưỡng Giả Thí Bảo 1 quyển (kinh Tu Đạt Đá), Pháp Thiên đời Bắc Tống dịch.

46-Kinh Phật Thuyết Tam Qui Ngũ Giới Từ Tâm Yếm Ly Công Đức 1 quyển (kinh Tu Đạt Đá), mất tên người dịch.

47-Kinh Phật Vị Hoàng Trúc Viên Lão Bà La Môn Thuyết Học 1 quyển (kinh Hoàng Lư Viên), mất tên người dịch.

48-Kinh Phạm Ma Du 1 quyển (kinh Phạm Ma), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

49-Kinh Phật Thuyết Tôn Thượng 1 quyển (kinh Thích Trung Thiền Thất Tôn), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

50-Kinh Phật Thuyết Đâu Điều (kinh Anh Vũ), mất tên người dịch.

51-Kinh Phật Thuyết Anh Vũ 1 quyển (kinh Anh Vũ), Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống dịch.

52-Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt 1 quyển (kinh Anh Vũ), Cù Đàm Pháp Trí đời Tùy dịch.

53-Kinh Phân Biệt Thiện Ác Nghiệp Báo Ứng 2 quyển (kinh Anh Vũ), Thiên Tức Tai đời Bắc Tống dịch.

54-Kinh Phật Thuyết Ý 1 quyển (Tâm Kinh), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

55-Kinh Phật Thuyết Ứng Pháp 1 quyển (kinh Thụ Pháp), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

56-Kinh Phật Thuyết Phân Biệt Bố Thí 1 quyển (kinh Cù Đàm Di), Thí Hộ Đời Bắc Tống dịch.

57-Kinh Phật Thuyết Tức Tránh Nhân Duyên 1 quyển (kinh Chu Na), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

58-Kinh Phật Thuyết Nê Lê 1 quyển (kinh Si Tuệ Địa), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

59-Kinh Phật Thuyết Trai (Phụ Phật Thuyết Trai Kinh Khoa Chú) 1 quyển (kinh Trì Trai), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

60-Kinh Phật Thuyết Ưu Bà Di Đọa Xá ca 1 quyển (kinh Trì Trai), mất tên người dịch.

61-Kinh Phật Thuyết Bát Quan Trai 1 quyển (kinh Trì Trai), Thư Cừ Kinh Thanh đời Lưu Tống dịch.

62-Kinh Phật Thuyết Tỳ Ma Túc 1 quyển (kinh Tỳ Ma Na Tu), Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống dịch.

63-Kinh Phật Thuyết Bà La Môn Tử Mệnh Chung Ái Niệm Bất Ly 1 quyển (kinh Ái Sinh), An Thế Cao đời Hậu hán dịch.

64-Kinh Phật Thuyết Thập Chi Cư Sĩ Bát Thành Nhân 1 quyển (kinh Bát Thành), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

65-Kinh Phật Thuyết Tà Kiến 1 quyển (Kiến Kinh), mất tên người dịch.

66-Kinh Phật Thuyết Tiễn Dụ 1 quyển (kinh Tiễn Dụ), mất tên người dịch.

PHÂN LOẠI NỘI DUNG KINH TRUNG A HÀM

*Theo Tăng Triệu: gồm có 5 tụng, 18 phần, 22 kinh, 60 quyển.

*1-Tụng Đầu: 5 phẩn rưỡi, 60 tư kinh, 12 quyển.

*2-Tiểu Thổ Thành Tụng: bốn phẩm rưỡi kinh, 16 quyển.

*3-Niệm Tụng: 1 phẩm rưỡi, 52 kinh, 9 quyển.

*4-Phân Biệt Tụng: 2 phẩm, 2 nửa phẩm, 35 kinh, 11 quyển.

*5-Tụng Cuối: 3 phẩm rưỡi, 36 kinh, 12 quyển.

V-TRƯỜNG A HÀM – KINH BIỆT SINH

1-Kinh Thất Phật 1 quyển (phần đầu của kinh Đại Bản Duyên), Pháp Thiên đời Bắc Tống dịch.

2-Kinh Tỳ Bà Thi Phật 2 quyển (phần sau của kinh Đại Bản Duyên), Pháp Thiên đời Bắc Tống dịch.

3-Kinh Phật Ban Nê Hoàn 2 quyển (kinh Du Hành), Bạch Pháp Tổ đời Tây Tấn dịch.

4-Kinh Đại Ban Niết Bàn 3 quyển (kinh Du Hành), Pháp Hiển đời Đông Tấn dịch.

5-Kinh Ban Nê Hoàn 2 quyển (kinh Du Hành), đời Đông Tấn, mất tên người dịch.

6-Kinh Đại Kiên Cố Bà La Môn Duyên Khởi 2 quyển (kinh Điển Tôn), Thi Hộ Đời Bắc Tống dịch.

7-Kinh Nhân Tiên 1 quyển (kinh Xà Ni Sa), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

8-Kinh Bạch Y Kim Chàng Nhị Bà La Môn Duyên Khởi 2 quyển (kinh Tiểu Duyên), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

9-Kinh Ni Câu Đà Phạm Chí 2 quyển (kinh Tán Đà Na), Thí Hộ Đời Bắc Tống dịch.

10-Kinh Đại Tập Pháp Môn 2 quyển (kinh Chúng Tập), Thí Hộ đời Bắc Tống dịch.

11-Kinh Trường A Hàm Thập Báo Pháp (kinh Thập Thượng), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

12-Kinh Nhân Bản Dục Sinh 1 quyển (kinh Đại Duyên Phương Tiện), An Thế Cao đời Hậu hán dịch.

13-Kinh Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ 1 quyển (kinh Thiện Sinh), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

14-Kinh Tin Phật Công Đức 1 quyển (kinh Tự Hoan Hỉ), Pháp Hiền đời Bắc Tống dịch.

15-Kinh Đại Tam Ma Nhạ 1 quyển (kinh Đại Hội), Pháp Thiên đời Bắc Tống dịch.

16-Kinh Phật Khai Giải Phạm Chí A Bạt 1 quyển (kinh A Ma Trú), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

17-Kinh Phạm Võng Lục Thập Nhị Kiến 1 quyển (kinh Phạm Động), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

18-Kinh Tịch Chí Quả 1 quyển (kinh Sa Môn Quả), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

19-Kinh Đại Lâu Thán 6 quyển (kinh Thế Kí), Pháp Cự, Pháp Lập đời Tây Tấn dịch.

20-Kinh Khởi Thế (kinh Thế Kí), Xà Na Quật Đa đời Tùy dịch.

21-Kinh Khởi Thế Nhân Bản 10 quyển (kinh Thế Kí), Đạt Ma Cấp Đa đời Tùy dịch.

VI-TĂNG NHẤT A HÀM – KINH BIỆT SINH

1-Kinh A La Hán Cụ Đức 1 quyển (phẩm Đệ Tứ Đệ Tử, phẩm đệ ngũ Tỳ Kheo Ni, phẩm đệ lục Thanh Tín Sĩ, phẩm đệ thất Thanh Tín Nữ là cùng bản tiếng Phạn), Pháp Hiền đời Bắc Tông dịch.

2-Kinh Tứ Nhân xuất hiện thế gian 1 quyển (cùng bản tiếng Phạn vớ phẩm Tứ Ý Đoạn), Cầu Na Bạt Đà La đời Lư Tống dịch.

3-Kinh Ba Tư Nặc Vương Thái Hậu Băng Trần Thổ Bộn Thân 1 quyển (cùng bản tiếng Phạn với phẩm Tứ Ý Đoạn) Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

4-Kinh Tu Ma Đề Nữ 1 quyển (cùng bản phẩm Tu Đà), Chi Khiêm đời Ngô dịch.

5-Kinh Cấp Cô Trưỡng Giả Nữ Đắc Độ nhân duyên 1 quyển (cùng bản phẩm Tu Đà), Thí Hộ đời Bắc Tống.

6-Kinh Tam Ma Kiệt 1 quyển (cùng bản phẩm Tu Đà), Trúc Luật Viêm đời Ngô dịch.

7-Kinh Bà La Môn Tỵ Tử 1 quyển (cùng bản phẩm Tăng Thượng), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

8-Kinh Thực Thí Hoạch Ngũ Phúc Báo 1 quyển (cùng bản phẩm Thiện Tụ), đời Đông Tấn, mất tên người dịch.

9-Kinh Tần Tỳ Sa La Vương Nghệ Phật Cúng Dường 1 quyển (cùng bản phẩm Đẳng Kiến), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

10-Kinh Trưỡng Giả Tử Lục Quá Xuất Gia 1 quyển (cùng bản phẩm Tà Tụ), Tuệ Giảng đời Lưu Tống dịch.

11-Kinh Ưng Quật Ma 1 quyển (cùng bản phẩm Lực), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

12-Kinh Ương Quất Kế 1 quyển (cùng bản Phẩm Lực), Pháp Cự đời Tây Tấn dịch.

13-Kinh Lực Sĩ Di Sơn 1 quyển (cùng bản phẩm Bát Nạn), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

14-Kinh Tứ Vị Tằng Hửu Pháp (cùng bản phẩm Bát Nạn), Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch.

15-Kinh Xá Lợi Phất Ma Ha Mục Liên Du Tứ Cù 1 quyển (cùng bản phẩm Mã Vương), Khang Mạnh Tường đời Hậu Hán dịch.

16-Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tính Tự 1 quyển (cùng bản phẩm Thập Bất Thiện), đời Tào Ngụy, mất tên người dịch.

17-Kinh Phóng Ngưu 1 quyển (cùng bản phẩm Phóng Ngưu), Cưu Ma La Thập đời Hậu Tần dịch.

18-Kinh Duyên Khởi 1 quyển (cùng bản phẩm Phóng Ngưu), Huyền Trang đời Đường dịch.

19-Kinh Thập Nhất Tưởng Tư Niệm Như Lai 1 quyển (cùng bản phẩm lễ Tam Bảo), Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống dịch.

20-Kinh Tứ Nê Lê 1 quyển (cùng bản phẩm Lễ Tam Bảo), Trúc Đàm Vô Lan đời Đông Tấn dịch.

21-Kinh A Na Bân Khâu Hóa Chất Tử 1 quyển (cùng bản phẩm Phi Thường), An Thế Cao đời Hậu Hán dịch.

22-Kinh Ngọc Da Nữ 1 quyển (cùng bản phẩm Phi Thường), đời Tây Tấn, mất tên người dịch.

23-Kinh Ngọc da 1 quyển (cùng bản phẩm Phi Thường), Trúc Đàm Vô Lương đời Đông Tấn dịch.

24-Kinh A Sắc Đạt 1 quyển (cùng bản phẩm Phi Thường), Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống dịch.

25-Kinh Đại Ái Đạo Ban Niết Bàn 1 quyển (cùng bản phẩm Đại Ái Đạo Ban Niết Bàn), Tuệ Giản đời Lưu Tống dịch.

26-Kinh Phật Mẫu Ban Nê Hoàn 1 quyển (cùng bản Đại Ái Đạo Ban Niết bàn), Bạch Pháp Tổ đời Tây Tấn dịch.

27-Kinh Xá Vệ Quốc Vương Thập Mộng 1 quyển (cùng bản phẩm Đại Ái Đạo Ban Niết Bàn), đời Tây Tấn, mất tên người dịch.

28-Kinh Quốc Vương Bất Lê Tiên Nê Thập Mộng 1 quyển (cùng bản phẩm Đại Ái Đạo Ban Niết Nàm), Trúc Đàm Vô Lan, đời Đông Tấn dịch.

Tham khảo: Kinh Ban Nê Hòan quyển hạ. Xuất Tam Tạng Ký Tập quyển 9. Huyền Trang Ứng Âm Nghĩa quyển 23. Nguyên Thủy Phật Gaó Thánh Điển Chí Tập Thành quyển 23. V.v…

 

Lâm Như-Tạng

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11959)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11113)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11343)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12559)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10766)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17980)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11727)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9947)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15339)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11240)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12001)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11184)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10613)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13169)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14840)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12679)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16575)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19665)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13108)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12667)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12263)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11847)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13523)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11949)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12767)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9872)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18015)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13050)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10691)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12494)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant