Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Nói Đầu GS. Guy Newland, Ph.D.

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9113)
Lời Nói Đầu GS. Guy Newland, Ph.D.

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ


LỜI NÓI ĐẦU 
GS. Guy Newland, Ph.D.

Nếu có người tìm đến bạn và ngỏ ý muốn tìm hiểu về Phật Giáo, bạn sẽ nên bắt đầu như thế nào? Ta nên trình bày tỉ mỉ với họ thế nào là ý nghĩa của quy y Tam Bảo? Hay là thuyết giảng cho họ nghe về Tứ Diệu Đế, bài pháp đầu tiên của Đức Bổn Sư? Joshua Cutler (Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Tây Tạng tại Washington, New Jersey) đã nêu lên câu hỏi này với Đức Đạt Lai Lạt Ma và được Ngài đề nghị rằng, đối với giới Tây phương trong thời đại này, tốt hơn là ta nên bắt đầu với vấn đề Nhị Đế: Tục Đế (Sự thực ước lệ) và Chân Đế (Sự thực rốt ráo).

Ngài quan niệm rằng để dẫn dắt con người đến với Giáo Pháp tốt nhất là nên thông qua luận lý triết học và phân tích bản chất của thực tại. Trên căn bản của lời khuyên này, Joshua đã tổ chức một cuộc hội luận, mời gọi những bậc thức giả Tây Tạng và phương Tây đến tham dự và trình bày những kiến giải liên quan đến vấn đề Nhị Đế theo truyền thống Phật giáo mà họ nắm vững nhất. Joshua đã gởi đến tôi những cuốn băng này; Tôi đã chăm chú lắng nghe và đó là nguồn cảm hứng để tôi viết lên bản sơ thảo đầu tiên của cuốn sách này dùng tại Trung Tâm. Một số người nhận thấy giá trị của tập bản thảo và đề nghị tôi nên xuất bản nó.

THẾ NÀO LÀ THỰC TẠI ?

Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng. Thế nhưng, thúc đẩy bởi mối quan tâm đến phúc lợi của toàn thể chúng sanh, Ngài đã hành hoạt trong khuôn khổ của thế giới sắc tướng, ước lệ, vận dụng mọi khả năng của ngôn ngữ ước lệ để dẫn dắt chúng ta đi đúng hướng. Triết lý Phật giáo có ý hướng làm sáng tỏ nội dung triết họctri thức của một vấn đề cốt tủy của Phật giáo, và cũng là vấn đề muôn thuở của nhân loại: tính hai mặt của thế giới hiện tượng.

Trong cái thế giới đa dạng và phong phú này, ta đang sống với những hóa tướng và ước lệ, những tập tục và truyền thống; tuy nhiên điều này không có nghĩa là không có sự thôi thúc ta đi tìm sự bí mật về chân tướng của sự vật, cái thực tại tuyệt đối. Hẵn nhiên là chúng ta không thể tìm ra cái thực tại này ở bất cứ nơi nào khác mà phải ngay chính từ những hóa tướng này. Những triết gia Phật giáo gọi tính hai mặt này là Nhị Đế: Tục đếChân đế. Mỗi trường phái triết học Phật giáo đều đã cố gắng đưa ra những lý giải một cách chân xác nhất theo đường hướng của mình về thế nào là Nhị Đế và mối liên hệ giữa chúng như thế nào. Đi vào việc khám phá những trường phái này, chúng ta đang ghé mắt nhìn vào công việc của các nhà tư tưởng Phật giáo đang nắm bắt một vấn đề cơ bản: Thực tại là gì?

Dĩ nhiên đây không phải là một câu hỏi vớ vẩn mang tính trí thức mà là một vấn đề xuyên suốt tận cùng cốt tuỷ của đời sống tu tập chúng ta. Nếu một sự phân tích thấu đáo về thực tại đưa đến việc không có sự hiện hữu của thế giới vật chất, của bản ngã cá nhân, thế thì chúng ta là ai đây? Và nếu như sự phân tích thực tại đưa đến việc không có sự hiện hữu của một thiết định tuyệt đối về tiêu chuẩn đạo lý, thì cái gì sẽ hướng dẫn ta trong cuộc sống chung với đồng loại? Trong hành trình tu tập, đi xuyên qua giữa cái mớ bòng bong rối rắm này, một cái gì đó chợt bùng vỡ, thế là ta được giải thoátgiác ngộ.

Thực tại là gì? Đó là một câu hỏi đòi hỏi những phân tích trí tuệ. Tu tập chuyển hoá con người một cách toàn diện, kể cả mặt tinh thần. Đối với một vài tông phái Phật Giáo Tây Tạng, kể cả truyền thống Hoàng Mạo phái của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tu tập bao gồm cả việc trau dồi sắc bén trí óc, biến nó thành một lưỡi gươm của trí tuệ viên mãn. Những tín đồ của truyền thống Hoàng Mạo phái khẳng định rằng trí huệ bát nhã không bao giờ là việc rời bỏ vô minh, mê vọng để rơi vào một tình trạng hư không, vô thức. Nếu giác ngộ được quan niệm một cách đơn giản như là chấm dứt dòng suy tưởng nhận thức, thì một nhát búa đánh vào đầu chắc chắn sẽ tạo ra trí tuệ bát nhã ngay lập tức! (1)

Thế thì thay vì chạy trốn khỏi sự rối rắm của tư tưởng nhị nguyên, chúng ta phải đối đầutìm cách nhận ra sự vật y nhưchân tướng của chúng, vận dụng luận lý để phân tích sự mê chấp của chính mình. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ được thật tướng của sự vật chúng ta mới có thể bắt đầu thanh lọc trí tuệ bát nhã này để tiến đến tình trạng thể nhập trực tiếp vào cảnh giới vô vi của niết bàn. Thế nên, theo Đức Đạt Lai Lạt Ma và những người thuộc truyền thống Hoàng Mạo phái, vấn đề nghiên cứu một cách nghiêm túc các trường phái triết học Phật giáo không phải là chuyện sinh hoạt học thuật phụ thuộc bên cạnh hành trì tu tập mà đó chính là sự tu tập, cơ bản và sống động nhất. Trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Phật dạy:

Giáo thuyết của ta có hai dạng:
Khuyến tấn và những học thuyết 
Đối với kẻ sơ cơ ta cho họ những lời khuyên
Đối với bậc du già sư, ta cho họ học thuyết. (2)

NHỮNG THUYẾT PHÁI

Cấu trúc của tứ đại thuyết phái Phật giáo được trình bày ở đây không đặt cơ sở trên sự phát triển theo tính niên đại của các học thuyết này tại Ấn Độ, cũng như nếu ta liên hệ chúng với truyền thống Phật giáo mang tính niên đại của Tây Tạng hay nhìn theo quan điểm của ngành niên đại học Tây phương đương đại (3). Thế nên khi bạn bắt đầu nghiên cứu triết học Phật giáo một cách có hệ thống, bắt đầu bằng tứ đại thuyết phái này, bạn không dùng phương thức tiếp cận của khoa sử học.

Bởi lý do này, một số học giả đã lên tiếng chỉ trích việc sử dụng các học thuyết này như là một chìa khóa nhận thức để hiểu biết về triết học Phật giáo. Họ lập luận rằng việc làm này đã xóa nhoà đi những dị biệt giữa các tổ sư Ấn Độ có thể đã sống xa cách nhau hàng trăm năm. Họ cũng cho rằng những “thuyết phái” này đã xuất hiện một cách khúc chiết và mạch lạc qua sự tưởng tượng phong phú của người Tây Tạng hơn là nội dung thực sự của chúng được trình bày dưới thời của các vị Tổ Ấn Độ, nay đã bị họ xếp loại một cách có ý đồ. Họ cũng đặc biệt quan tâm đến việc tránh đừng để cho việc nghiên cứu các nguồn mạch chính thống cuả chúng ta liên quan đến những kiến thức về triết học Phật giáo bị che mờ bởi các thuyết phái đã bị sắp xếp.

Dĩ nhiên là tôi rất thiện cảm với những phê phán này. Nghiên cứu về các thuyết phái sẽ không là mục tiêu tối hậu của những khám phá về triết học; đây cũng không phải là cách thế lựa chọn tốt nhất thay vì chúng ta có thể đọc thẳng các tác phẩm của các ngài Long Thọ, hay Thế Thân chẳng hạn. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng các nhà học giả Tây phương cũng đã đi hơi quá xa khi phủ nhận các tư liệu của Phật giáo Tây Tạng trình bày về các thuyết phái.

Mặc dù nó không dính chặt với lịch sử của những tư tưởng này, thế nhưng nó đã trình bày, cống hiến cho ta một khung sườn để suy nghĩ về triết học Phật giáo. Đánh giá thấp sự uyên bác của một số người Tây Tạng trong những phân tích của họ về triết học Phật giáo Ấn Độ, như Jamyang Shayba chẳng hạn, các nhà học giả đã phải bỏ công ra cả hàng năm trời để đi đến những kết luận mà lẽ ra họ có thể đạt đến chỉ trong khoảng vài tuần, vài ngày, thậm chí là vài tiếng đồng hồ.

Như vậy, trừ phi mối quan tâm của chúng ta nghiêng về mặt học thuật, ta không thể nào đặt nặng đến khía cạnh lịch sử của những tư tưởng cho đến khi nào ta có thể hiểu được những tư tưởng này là gì. Thế nên tư liệu về các thuyết phái là nơi tốt nhất trang bị cho ta hiểu biết, nhận thức. Và nếu chúng ta lưu ý rằng sự sắp xếp đặc biệt này được hình thành tại Tây Tạng như là một cách thế để cấu trúc một cái nhìn toàn diện mạch lạc, có thể dung hợp được tính cách đa dạng của triết học Phật giáo Ấn Độ, chúng ta sẽ sử dụng nó một cách đúng đắn đầy lợi ích. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với các nhà học giả Tây Tạng, những người đã làm công việc này, từ vị trí cái nhìn của họ, không phải là không cống hiến cho chúng ta nhiều phúc lợi.

Thế cho nên, một điều cũng rất rõ ràng rằng, cuốn sách này không có mục đích trình bày một cái nhìn tổng quát về triết học Phật giáo, càng không phải là một tổng quan về triết học Phật giáo Tây Tạng. Cuốn sách này được viết cho những độc giả đã có một số hiểu biết về Phật giáođặc biệt là đối với những ai đang thật tình quan tâm đến việc tìm hiểu những khía cạnh triết học của Phật giáo Ấn Độ hay Tây Tạng nhưng có thể đã bị bối rối trước những dịch phẩm của những tư liệu mang nặng tính học thuật. Những điều mà tôi muốn trình bày trong tập sách nhỏ này -những tư tưởng cốt tủy của tứ đại thuyết phái được lý giải dưới cái nhìn của Hoàng Mạo phái- hy vọng có thể là một chiếc cầu hay ít ra là một viên gạch lót đường để đưa đến một nhận thức rộng mở và một nghiên cứu sâu sắc hơn.

ĐÔI HÀNG CẢM TẠ

Trong tập sách này, xin được chia xẻ những điều mà tôi đã được học từ những vị tôn sư của Phật giáo Tây Tạng còn sống hay đã qua đời, cũng như từ các đồng nghiệp và các bậc thầy của tôi. Một số vị mà tôi nghĩ là có những đóng góp rất quan trọng cụ thể như Harvey Aronson, Anne Klein, Elizabeth Napper, Joe Wilson, Don Lopez, Dan Cozort, John Buescher, Kensur Yesche Tupden, và Geshe Palden Dragpa. Đồng thời cũng xin được gởi lời cảm tạ đến Susan Kyser (của Snow Lion) và Nathan Lamphier về những góp ý đối với bản thảo. Cuốn sách này sẽ không được hình thành nếu không có những nỗ lực của Jeffrey Hopkins, Joshua Cutler (người thực hiện dự án), Sidney Piburn (người thúc đẩy tôi hoàn thành và xuất bản tác phẩm này), cũng như của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

GHI CHÚ 

Trong tập sách này, một số thuật ngữ Tây Tạng và Sanskrit được chuyển qua dạng Anh ngữ được trình bày trong dấu ngoặc đơn. Những chuyển ngữ này đặt căn bản trên hệ thống đã được Turrel Wylie giới thiệu trong bài viết , “A standard System of Tibetan Transcription” (Havard Journal of Asiatic Studies, 22, 1959, 261-276). Ngoài ra, những danh từ riêng Tây Tạng đượcviết dưới dạng ngữ âm học nguyên thuỷ, dĩ nhiên không hẵn là giúp người đọc phát âm một cách đúng đắn mà chỉ có mục đích duy nhất là tạo một âm hưởng tương đối gần đúng với tên gọi của Tây Tạng.

GUY NEWLAND

CHÚ THÍCH:

(1) Thí dụ này được gợi ý từ lời chú giải của một vị Thiền sư đương đại, Shengyen: “Không phải khi một người không còn những ý nghĩ phân tán tức là vấn nạn của đương sự đã được giải quyết. Nếu bạn cãm thấy thích thú được ở trong tình trạng như thế, thì cứ việc nhờ ai đó đánh mạnh vào đầu. Có rất nhiều người không phân biệt được giữa trí tuệ chân thựctrạng thái tịch tĩnh. Nếu bạn không hiểu được sự khác biệt này, cho dù là bạn dày công tu tập, cũng chỉ uổng phí thôi.” -Trích từ Faith in Mind in Deborah Sommer’s Chinese Religion. New York: Oxford, 1995. 337.

(2) Lankavatarasutra (Descent into Lanka Sutra) trích dẫn trong Practice and Theory of Tibetan Buddhism, bản dịch của Sopa & Hopkins. New York: Grove Press, 1976. 53.

(3) Muốn có một thí dụ về những kiến giải theo truyền thống Tây Tạng, có thể đọc thêm: Meditation on Emptiness. Jeffrey Hopkins. London: Wisdom, 1983. 353-364. Muốn có một thí dụ về những kiến giải theo truyền thống kinh viện Tây phương, có thể đọc thêm: Mahayana Buddhism. Paul Williams. New York: Routledge, 1989.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15760)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11062)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53625)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12970)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16521)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15394)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19155)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19923)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15550)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15343)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15142)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20327)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23941)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15488)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13027)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20102)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13270)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29018)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11700)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18278)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16640)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13229)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12797)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13246)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12967)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12862)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13001)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13540)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11710)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17721)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22586)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13440)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14326)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105738)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14600)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38415)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15520)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34670)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16052)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11327)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15644)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14021)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13701)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12492)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19371)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27006)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13110)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13466)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21590)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17966)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21872)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14206)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16076)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16138)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19098)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24773)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant