Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Người Dịch Tâm Hà Lê Công Đa

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9571)
Lời Người Dịch Tâm Hà Lê Công Đa

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ

LỜI NGƯỜI DỊCH 
Tâm Hà Lê Công Đa

Là một Phật tử bình thường có thể chúng ta không cần phải bận tâm đến việc thế giới này là có thực hay hư vọng, cũng không cần phải biết đến Chân đế hay tục đế, hoặc bản tánh chân thực của con ngườivạn pháp là cái gì... Đây là những vấn đề thuộc về triết học, nghĩa là những vấn đề dễ làm cho ta nhức đầu, chưa kể một khi đi sâu vào lãnh vực này, nhận chân được tánh Khôngthực tướng của muôn vật, người Phật tử sẽ không khỏi hoang mang tự đặt cho mình một câu hỏi: Nếu con người chỉ là một giả lập của những sắc uẩntưởng uẩn thì những khổ đau của con người cũng chỉ là những huyễn giả, tại sao chư Phật và chư Bồ Tát lại phải thị hiện ra giữa cõi đời này, mà mục đích là để giúp đỡ cứu độ cho muôn loài chúng sanh -vốn dĩ không có thật?

 Nhưng thưa bạn, Đạo Phật là đạo của GIÁC NGỘ, trừ phi bạn chọn cho mình trở thành một người Phật tử bình thường để có thể dễ dàng quay lưng lại với những vấn nạn nói trên và an vui -cũng như đau khổ- với những dục lạc của cõi thế gian này thì không nói làm gì; tuy nhiên nếu như bạn là một người thiết tha tìm cầu giải thoát và đang là một hành giả cô đơn, nỗ lực tinh tấn trên hành trình vươn đến giác ngộ, trong niềm tin tưởng vững chắc rằng mình có khả năng để vươn đến, thì bất cứ bạn là ai, nếu muốn chạy thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của luân hồi sinh tử, cũng đều phải vượt qua cửa ải của thực chứng tánh Không.

Không có một con đường nào khác. Chư Phật, chư Bồ Tát, chư đại thánh Tăng, tổ sư đều cũng phải đi qua con đường này. Từ đây, trên vách núi cheo leo của Tánh Không, hành giả tha hồ nhảy múa mà không còn phải sợ hãi phải rơi xuống vực thẳm của chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến. Và cũng từ đây, trên đỉnh núi cao của tỉnh thứctrí tuệ, không còn mây mờ của vô minh che phủ, hành giả có thể phóng tầm mắt nhìn rõ thực tướng của muôn loài, để sẽ không còn như người mê ngủ hoang mang giưã hai bờ Chân đếTục đế, để rồi suốt đời cứ phải loay hoay bỏ vọng tìm chân, làm nhọc lòng đến Tuệ Trung Thượng Sĩ , một thiền gia xuất sắc đời Trần phải lên tiếng cảnh cáo:

Người đời bỏ vọng để cầu chân
Chân vọng tâm kia cũng pháp trần
Hãy vượt cao lên bờ bến ấy
Tham cùng đồng tử đối tiền nhân

Nếu Phật đạo có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn thì con đường đi vào thực chứng tánh Không cũng có rất nhiều cánh cửa, kể cả cánh cửa trực nghiệm bằng ý thức loại suy, thiền quán phân tích. Tốt hơn hết là ta nên bắt đầu bằng Nhị Đế. Khi đối đầu với vấn nạn triết lý sắc tướngthực tướng của vạn pháp, tức Nhị Đế, những trường phái triết học lớn của Phật giáo, được biết đến như Tứ đại thuyết phái: Đại Tỳ Bà Sa, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức, và Trung Quán- đã đưa ra những lý giải khác nhau. 

Trong những lý giải này, có những điểm người ta đã đồng ý với nhau, nhưng cũng có những điểm đã gây nên những tranh cãi kịch liệt. Hoàng Mạo phái của Phật Giáo Tây Tạng, một môn phái sở trường về thiền quán phân tích do Đại sư Tông Kha Ba sáng lập mà vị tổ sư thừa kế đương đại là Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ mười bốn, đã duyệt qua tất cả những kiến giải của tất cả những trường phái này và đưa ra những lý giải, phân tích rất xuất sắc và có hệ thống.

Những kiến giải này đã được Tiến sĩ Guy Newland, đương kim Khoa trưởng Phân khoa Triết họcTôn giáo Đại học Công lập Central Michigan, bang Michigan, tóm tắt lại trong tác phẩm “SẮC TƯỚNG VÀ THẬT TƯỚNG,Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo” do nhà xuất bản Snow Lion phát hành gần đây và hiện được dùng như là một tài liệu giảng dạy và tham khảo chính trong các Đại học Phật giáo, Trung tâm nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng. Là một nhà sư phạm, GS Newland đã trình bày một cách rõ ràng, khúc chiết về những vấn đề cốt tuỷ của triết học Phật giáo như Nhị Đế, Vô Ngã, Tánh Không thông qua quan điểm của bốn trường phái triết học chính của Phật giáo: Phân Biệt Thuyết (Đại Tỳ Bà Sa), Kinh Lượng Bộ, Duy ThứcTrung Quán, hy vọng sẽ giúp cho người đọc lãnh hội những vấn đề này không mấy khó khăn.

Nhận thấy trong khu rừng tài liệu Phật học tiếng Việt, các tài liệu nghiên cứu về lãnh vực triết học Phật giáo còn rất hạn chế, người dịch -dù khả năng còn hạn hẹp- cũng đã phát tâm chuyển ngữ tác phẩm này sang tiếng Việt, hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào kho tài liệu tham khảo cho những người có nhu cầu nghiên cứu.

Tuy rằng qua tác phẩm này, Tứ đại thuyết phái đã được nhìn dưới lăng kính của Hoàng Mạo phái, nhưng trừ phi bạn là người có trí tuệ siêu việt, đối với những Phật tử trung bình như chúng ta, cái nhìn của Hoàng Mạo phái có thể được coi như là một khởi điểm tốt để bắt đầu, bởi vì như GS. Newland nhận định: “Cách tiếp cận của Hoàng Mạo phái là cố gắng tránh bớt đi những mâu thuẫn, mập mờ khó hiểu càng nhiều càng tốt, cũng như nói về tánh Không bằng một ngôn ngữ thông tục, ngôn ngữchúng ta trao đổi trong cuộc sống đời thường. Do phẩm tánh hoàn toàn bất nhị của nó, trực nghiệm về tánh không là một kinh nghiệm nhận thức khác biệt tận căn bản với tất cả những gì mà chúng ta đã từng biết qua.

Tuy nhiên để có thể xây dựng nên một hệ thống thuyết lý mạch lạc phù hợp với kinh nghiệm đời thường, cũng như nhằm mục đích nhấn mạnh đến tính khả đắc của thực chứng rốt ráo (ngay cả bằng ý thức loại suy), những nhà Hoàng Mạo phái đã thuyết giảng về tánh Không như là cái gì khả tri, có thể nhận biết được, một cái gì đó có thể đạt đến và hiểu thấu được.”

Trong khi dịch thuật tác phẩm này, nếu gặp phải những điểm nào không được rõ ràng cần làm sáng tỏ, chúng tôi đã được may mắn trực tiếp trao đổi với GS. Newland, và như vậy hy vọng nội dung bản dịch của tác phẩm này được truyền đạt một cách trung thực đến độc giả. Chúng tôi vì thế nhân đây xin được bày tỏ sự biết ơn của mình đối với sự chấp thuận và khuyến khích của GS. Newland, cũng là một cao đồ của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ mười bốn, trong việc hình thành bản dịch Việt ngữ này.

Đối với một số thuật ngữ Phật giáo trong tác phẩm này, chúng tôi vừa sử dụng từ Hán Việt -để qúy vị đã từng quen với thuật ngữ Phật giáo dễ lãnh hội- nhưng đồng thời cũng đã diễn giải ý niệm này ra một cách dễ hiểu hơn và không quên kèm theo các danh từ Tạng ngữ, Phạn ngữ và Anh ngữ tương đương để tiện cho việc tra cứu. Tuy nhiên dù có cố gắng đến mức nào đi nữa, chắc chắn là bản dịch này cũng sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết, hy vọng được chư Tôn đức, chư thiện hữu trí thức đóng góp ý kiến để sửa chữaphúc lợi chung.

Một điểm cuối cùng cũng xin được nêu ra ở đây là, như qúy vị biết, tác phẩm này thuộc bản quyền của nhà xuất bản Snow Lion, bởi vậy nếu như bản dịch này được dùng để làm tài liệu giảng dạy, nghiên cứu, hoặc bất cứ vị Phật tử nào phát tâm muốn ấn tống miễn phí thì không có vấn đềtuy nhiên nếu bất cứ qúy vị hay nhà xuất bản nào có nhã ý muốn xuất bản bản dịch này đưa vào thị trường sách vở, xin vui lòng thương thảo với nhà xuất bản nói trên.

Trân trọng.

Tâm Hà Lê Công Đa.
lecongda@aol.com



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22298)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15035)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18963)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14453)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18635)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14432)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13593)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13557)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11823)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13265)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13669)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13942)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13255)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16166)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11087)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16460)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11910)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17602)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12881)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16398)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13134)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12094)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12776)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12920)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14128)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16486)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12382)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14391)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11038)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13197)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13897)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13167)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13513)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12740)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10237)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10239)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13708)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16272)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11971)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12981)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12683)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10800)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11002)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10948)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11902)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12771)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11069)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11331)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant