Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương IX: Nhị ĐếBồ Tát Đạo

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9683)
Chương IX: Nhị Đế Và Bồ Tát Đạo

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ

CHƯƠNG IX
NHỊ ĐẾBỒ TÁT ĐẠO

Thấu hiểu một thuyết phái Phật giáo có nghĩa là phải thấu hiểu những điểm cơ bản, đạo lộ, và đạo quả tu chứng của thuyết phái đó. Trong nhữngï lý giải của Trung Quán Tông về Bồ tát đạo, điều này có nghĩa là ta cần phải thấu hiểu :

(1) Phúc đế và Chân đế;

(2) Thực hành phương tiện thiện xảotrí tuệ ; và

(3) Sắc thânchân thân của một vị Phật.

Mặc dù trọng tâm nghiên cứu của cuốn sách này là những xác định chung quanh Nhị Đế, chúng ta cũng đã cố gắng ghi nhận những khẳng định của tứ đại thuyết phái Phật giáo về Nhị Đế trên cơ sở của đạo lộ và đạo quả của từng trường phái một.

Nhận thức rõ những phúc đế được thiết định như thế nào -ví dụ như con người hiện hữu một cách công ước, những nghiệp hành, nghiệp quả, v.v...- có thể làm phát khởi lòng từ bi và tích lũy công đức qua việc thực hành lục độ ba la mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v... mà tất cả đều được thúc đẩy bởi động cơ chính là lòng từ vô hạn.

Nếu một người mất khả năng thiết định phúc đế, rơi vào chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến, họ rất dễ dàng bị cuốn hút vào những hành động vô luânhậu quả là dẫn đến những tái sanh vào các cảnh giới xấu ác. Mặc dù ta không hoàn toàn hiểu thấu được cái ý nghĩa cho rằng nghiệp hànhnghiệp quả đều là những phúc đế, tức là “những chân lý nhận biết bởi vô minh”, phải đợi đến sau khi ta thực chứng được tánh Không của những hiện hữu tự thân để biết được chúng xuất hiện một cách giả dối, niềm tin vào các hiện tượng giới công ước hiện hữu và hành hoạt các chức năng của chúng là một điều cần thiết ngay từ khởi điểm.

Trong khi một khả năng thiết định phúc đế như con người, nghiệp hànhnghiệp quả, v.v... là điều cần thiết để tích lũy công đức hầu tái sanh vào những cảnh giới tốt đẹp hơn, sự giải phóng con người ra khỏi vòng luân hồi sinh tử là bất khả thi nếu khôngtuệ giác thực chứng được Chân đế, tức là tánh Không, cái bản thể rốt ráo sau cùng của mọi hiện tượng giới.

Như vậy sự nhận thức vô phân biệt về Nhị Đế cho phép vị Bồ Tát gieo trồng công đức lẫn hạt giống trí tuệ. Hai tập hợp của công đứctrí tuệ mang đến đạo quả thể hiện qua “sắc thân” (sắc tướng xuất hiện trong thế giới này và những thế giới khác để giáo hóa chúng sanh) và “chân thân” (tuệ giác của một vị Phật và tánh Không của tuệ giác đó) của một vị Phật.

Có người có thể cho rằng quả là điều nghịch lý nếu không nói là phi lý khi một vị Bồ tát triển khai lòng đại từ bi đối với những chúng sanh đã không hề tự khẳng định sự hiện hữu, những chúng sanh chỉ thuần là những ý niệm giả lậptuy nhiên trong thực tế tu tập, từ bitrí tuệ đã phát huy tác dụng khi được kết hợp một cách viên dung. Thực chứng tánh Không hổ trợ, củng cố, và hoạt động song hành cùng với từ bivị tha trong nhiều cách thế khác nhau:

(1) Khi nhận thấy rằng không có một cái hiện hữu tự thân khác nhau giữa một cái ta và kẻ khác, nhà hành giả Du già xoá nhòa dần lòng thương yêu vị kỷ “chỉ biết tìm kiếm cái số một”, tức là cho rằng có một cái ngã thực sự hiện hữu “ở đây” cần phải được bảo vệ và nuông chìu không cần đếm xỉa đến kẻ khác hoặc ngay cả dưới cái giá phải trả của kẻ khác.

(2) Khi nhận thấy rằng mình chia xẻ cùng tất cả mọi loại chúng sanh một bản thể cơ bản về tánh Không, nhà hành giả Du già củng cố cảm giác sâu xa về mối thân cận và liên hệ với tha nhân, tức là yếu tố chính của lòng thương yêutừ bi.

(3) Trong mối khát khao vươn đến Phật quảhạnh phúc của muôn loài, nhận chân được rằng điều này đòi hỏi một nỗ lực cố gắnghy sinh vô cùng lớn lao, nhà hành giả Du già cần được võ trang bằng một niềm tin vững chắc rằng họ có thể trở thành một vị Phật. Niềm tin này lớn mạnh qua sự nhận thức rằng những khả năng hữu hạn của ta để giúp đỡ tha nhân trong hiện tại không phải là bản tánh tự thân -bản tánh đó là tánh Không tinh khiết, vốn có khả năng rộng mở không bờ bến về sự tự chuyển hóa.

(4) Cuối cùng, khi một vị Bồ tát thực hành những hạnh nguyện do lòng từ bi thúc đẩy, cụ thể như bố thí ba la mật, tất cả những hành động này đều được tịnh hoá để trở thành “viên mãn” thông qua tri kiến của vị bồ tát rằng người bố thí, vật bố thí và hành động bố thí tất cả đều trống rỗng hiện hữu tự thân.

Trái lại, tinh thần vị tha nâng cao khả năng phát triển trí tuệ bằng cách hổ trợ một động cơ thúc đẩy rất tinh khiết và mạnh mẽ cho việc thiền quán tánh Không. Theo trường phái Quy Mậu Biện Chứng, những hành giả của Tiểu thừa cũng thực chứng một tánh Không sâu sắc như một bậc Bồ tát thực chứng, đó là tánh Không của hiện hữu tự thân. Tuy nhiên, những hành giả Tiểu thừa, do được thúc đẩy bởi ý nguyện chính là đạt đến sự giải thoát cho riêng cá nhân mình, đã chỉ tiếp cận tánh Không thông qua một vài lý do hạn định, nhằm vươn đến sự giải phóng an bình một cách cá nhân như là những A la hán.

Bậc Bồ Tát, trái lại trong khi tìm kiếm mọi cách để gia tăng tối đa khả năng cứu độ chúng sinh, đãphong phú hoá kinh nghiệm của mình trong trăm nghìn cách tiếp cận việc thực chứng tánh Không. Thúc đẩy bởi lòng vị tha không bờ bến, họ tự trui rèn mình trong việc vun trồng công đứctrau dồi trí tuệ qua không biết bao nhiêu a tăng tỳ kiếp. Với vô lượng công đức được tích luỹ này, không những cho phép bậc Bồ Tát vượt qua những trở ngại trên hành trình giải thoát, mà còn cả những trở ngại nhằm vươn đến tình trạng nhất thiết trí, toàn tri toàn giác.

11.14.02


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11597)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16499)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19585)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11912)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11807)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12576)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15620)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13571)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11123)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant