Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Kinh "nhất Dạ Hiền Giả"

25 Tháng Chín 201805:51(Xem: 13029)
Tìm Hiểu Ý Nghĩa Kinh "nhất Dạ Hiền Giả"

TÌM HIỂU Ý NGHĨA
KINH "NHẤT DẠ HIỀN GIẢ"
(BHADDEKARATTA  SUTTA)
"One fortunate attachment /  Một dính mắc may mắn"

 Thích Nữ Hằng Như

         Tìm Hiểu Ý Nghĩa Kinh nhất Dạ Hiền Giả



Trung Bộ Kinh
 Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền  (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tạivà an trú trong bây giờ và ở đây.

          Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa bài KinhNhất Dạ Hiền Giả mà xưa kia Đức Phật đã thuyết giảng cho các vị Tỳ Kheo, tại thành Savatthi (Xá Vệ), Jetavana (Kỳ-Đà Lâm), nơitịnh xá ông Anathapindika (Cấp-Cô-Độc).

          Bài kinh tiếng Pàli, có tựa đề là "Bhaddekaratta Sutta" đã được cố Đại Lão Hoà ThượngThích Minh Châu dịch là "Kinh Nhất Dạ Hiền Giả". Bài kinh đó như sau:

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnhtrầm lặng.

 

NỘI DUNG BÀI KINH "NHẤT DẠ HIỀN GIẢ"

          Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận. Còn tương lai thì chưa tới. Đối với pháp hiện tại hãy quán sát bằng trí tuệ (Vipassati) để tâm được bình yên không bị dao động rung chuyển khi gặp những chuyện bất như ý. Phải tu tập tuệ quán ngay hôm nay vì không ai biết được Vô thường tức sự chết đến lúc nào, mà cũng không ai có thể điều đình van xin khất hẹn với cái chết. Vị nào tu tập luôn an trú trong tuệ quán, tức an trú trong Tánh giác ngày đêm không mệt mỏi, thì vị ấy xứng đáng được gọi là bậc Thánh an tịnh trầm lặng.

Ý NGHĨA CHI TIẾT BÀI KINH "BHADDEKARATTA"

          Bhaddekaratta là tập hợp của 3 từ: Bhadda, Eka và Ratta. Bhadda nghĩa là "may mắn". Eka nghĩa là "một", còn Ratta nghĩa là "dính mắc". Sutta nghĩa là "Kinh". Kinh là lời Phật dạy.

          Khi ghép từ "Bhadda" với từ "Eka", vì hai nguyên âm sát nhau nên bỏ bớt nguyên âm "a" viết là "Bhaddekaratta". Các học giả Tây Phương dịch tựa bài kinh này là: "One fortunate attachment".Dịch qua tiếng Việt là: "Một Dính Mắc May Mắn".

          - Trong bản kinh tiếng Việt, Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pàli "Bhaddekaratta"qua tiếng Việt là: "Nhất Dạ Hiền Giả". Hiền giả là một bậc hiền triết, một bậc thánh hiền. Ở đâychúng ta tạm hiểu là một vị Thánh tăng tu tập an trú trong Tánh Giác được Đức Thế Tôn tán thán là bậc an tịnh trầm lặng. Còn nhất dạ là một đêm.

          Nhưng thực ra ý nghĩa của bài kinh không có gì là một đêm hết!

          Hoà Thượng Thích Thông Triệt thì cho rằng nội dung bài kinh này Đức Thế Tôn dạy phương pháp "tu tập an trú trong Tánh Giác" và cho đây là "một dính mắc may mắn".

          Chúng ta thử tìm hiểu xem tại sao "dính mắc mà may mắn", trong khi từ trước đến giờ Đức Phật khuyên bảo chúng đệ tử tu tập không được bám víu hay dính mắc với mọi thứ trên thế giannày. Chẳng hạn như sáu căn tiếp xúc sáu trần không được dính mắc với sáu trần, thì tâm mới đượcan ổn bình yên.

          Chúng ta lần lượt tìm hiểu nghĩa bình thường và nghĩa rộng của bài kinh, mà Đức Thế Tônmuốn nhắn nhủ chúng ta: "Quá khứ không truy tìm. Tương lai không ước vọng".   

          - Quá khứ: Là những chuyện đã xảy ra, đã qua rồi.

          - Tương lai: Là những chuyện chưa xảy ra.

          - Truy tìm: Là truy xét tìm tòi, lục lọi, bươi móc...  tìm lại những gì đã mất.   - Ước vọng:Nghĩa là mong ướcvọng tưởng những gì mình chưa có.

          Trong đoạn kinh này Đức Phật dặn dò chúng đệ tử "không nên truy tìm lại quá khứ, cũng không nên ước vọng tới tương lai". Theo như Ngài dạy thì:

          - "Truy tìm về quá khứ" có nghĩa là mình cố ý quay về tìm tòi những kỷ niệm hân hoan vui thích và muốn sống lại toàn bộ những hân hoan vui thích trong quá khứ, thì đó là mình truy tìm quá khứ.

          - "Không truy tìm quá khứ" có nghĩa là khi mình nhớ tới sự kiện xảy ra trong quá khứ, tâm mình vẫn bình thản, không bị kích động đau buồn hay khởi tâm đắm chìm toàn thân (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) với hân hoan vui thích trong quá khứ, thì đó là mình nghĩ về quá khứ nhưng không truy tìm quá khứ.

          - "Ước vọng trong tương lai": Khi mình nghĩ tới tương lai rồi tưởng tượng truy tìm sự hân hoan vui thích sống toàn bộ (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) trong sự tưởng tượng, thì đó là mình ước vọng trong tương lai.

          - "Tương lai không ước vọng": Sống trong cuộc đời cũng cần có những dự án cho tương lai. Khi đưa ra kế hoạch, thì tuần tự thực hànhBản thân không mơ mộng, không đắm chìm trongảo ảnh tương lai, thì đó là không ước vọng trong tương lai.

          Đức Phật khuyên chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không ước vọng tương lai vì Ngài cho rằng:

          - "Quá khứ đã đoạn tận.  Tương lai thì chưa tới": Hai câu này, Đức Thế Tôn giải thíchnguyên do tại sao không nên dính mắc với quá khứ hay tương lai, là bởi vì quá khứ chấm dứt rồi, đừng mơ tưởng sống lại trong quá khứ để tìm niềm vui hạnh phúc trong quá khứ. Còn tương lai thì đừng tìm sự hân hoan vui thích, đừng tưởng tượng mình đang sống hạnh phúc trong tương lai vì tương lai chưa tới.

          Thực ra nếu còn bám víu vào sự hân hoan vui thích tức là còn Tham. Nếu bám víu vào sự buồn khổ tức tối là còn Sân. Như thế là không tu tập theo Chánh pháp tức là còn Vô Minh.

          Đức Phật dạy không nên để Ngũ uẩn truy tìm quá khứ đã qua, cũng không ước vọng tương lai chưa tới. Vậy còn hiện tại thì sao? Đối với hiện tại Ngài dạy rằng: "Chỉ có pháp hiện tạiTuệ Quán chính ở đây, Không động, không rung chuyển,"

           - "Pháp hiện tại": Trong phần văn xuôi Đức Phật dặn không nên để bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại. Pháp hiện tại ở đây có thể hiểu là con người hay Ngũ uẩn trong hiện tại.

          Người không tu tập theo pháp của các bậc Thánh, bậc Chân nhân cho nên họ "quán ngũ uẩn là tự ngã, hay quán tự ngã có ngũ uẩn". Nghĩa là trong ngũ uẩn luôn có cái ngã, cái ta làm chủ. Đó là họ "bị lôi kéo vào pháp hiện tại".

          Nếu tu tập theo đúng Chánh pháp thì họ "không quán ngũ uẩn là tự ngã, không quán ngũ uẩn có tự ngã". Tức Ngũ uẩn là Ngũ uẩnNgũ uẩn không phải là Ngã, là tự Ngã. Như vậy là"không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại".

          Tuệ Quán: Đối với các pháp hiện tại Đức Thế Tôn dạy hãy quán sát bằng trí tuệ (Vipassati) để thấy rõ ba đặc tínhVô thường, Khổ, Vô ngã của hiện tượng thế gian. Khi nhận ra bản thân con người bị Vô thường, Khổ, Vô ngã chi phốihành giả biết rằng cái thân Ngũ uẩn này không thực chất tính cho nên nó Vô thường. Vị ấy siêng năng tu tập an trú trong "bây giờ và ở đây" tức trú trong các Tánh, không còn bị lôi cuốn theo các pháp hiện tại, nghĩa là không bị Ngũ uẩn lôi cuốnvào các pháp thế gian như: Tài, sắc, danh, thực, thuỳ là những pháp hiện tại.

          - "Không động không rung chuyển": Là nói đến Tánh Giác. An trú trong Tánh Giác là an trútrong "bây giờ và ở đây", Tâm không bị dính mắc vào hiện tượng thế gian thì Tâm đó là Tâm "không động không rung chuyển".

          Mấy câu đầu của bài kinhĐức Phật dạy chúng đệ tử không nên dính mắc vào Tâm Ba Thời mà phải tu tập quán chiếu các pháp hiện tại bằng Tuệ trí (Tuệ quán) để thấy "cái đang là" của pháphiện tại "ngay bây giờ và ở đây" tức "an trú trong Tánh Giác". An trú trong Tánh Giác hay Tâm bậc Thánh hoặc cao hơn là Tâm Phật sẽ không bị lay động khi những ngọn gió đời bất ngờ thổi tới. Trong kinh gọi chỗ đó là Tâm "không động không rung chuyển".

          Đức Thế Tôn dạy tiếp: "Biết vậy nên tu tập, Hôm nay nhiệt tâm làm.  Ai biết chết ngày mai? Không ai điều đình được, Với đại quân thần chết."

          - "Biết vậy nên tu tập, Hôm nay nhiệt tâm làm. Ai biết chết ngày mai?":  Nếu an trú trong Tánh Giác thì Tâm yên lặng "không động không rung chuyển". Hiểu như vậy, thì hôm nay phải siêng năng tu tập liền, vì cái chết sẽ đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Có thể ngày hôm nay còn sống, nhưng ngày mai Vô thường cướp mất mạng sống của chúng ta mất rồi!

          Nói về sự Vô thường, tức nói về cái chết thì trong kinh có kể lại câu chuyện như sau: Một hôm, Đức Phật hỏi đệ tử: "Cuộc sống đời người kéo dài bao lâu?" Có người đáp: "Một năm". Có người đáp: "Một tháng". Có người đáp: "Một tuần" v.v... Nghe thế Đức Phật quở: "Các ông chưa hiểu được Vô thường". Sau cùng có một vị thưa: "Cuộc sống của đời người chỉ trong hơi thở", thì Đức Phật gật đầu khen: "Đúng".

          Câu chuyện trên cho thấy cuộc đời chúng ta sẽ gặp những bất ngờ xảy tới khó biết được. Riêng về cái Vô thường có khi nó đến từ từ, chậm chậm, có khi nó đến bất ngờ không ai lường trước được. Cho nên phải lo tu tập để có trí huệ sáng suốt, cũng như có định lực vững chắc ngay từ bây giờ không chờ đợi đến ngày mai vì ngày mai không bao giờ đến. Chính vì thế Đức Thế Tônmới bảo chúng ta "Biết vậy nên tu tập, Ai biết chết ngày mai?"

          - "Không ai điều đình được, Với đại quân thần chết": Không một ai có thể điều đình, van xin thần chết buông tha cho được sống thêm một thời gian nữa. Khi thần chết tức Vô thường đến thì đành bó tay chịu chết cho dù mình còn rất muốn sống.

          Giảng dạy xong Đức Thế Tôn khích lệ: "Trú như vậy nhiệt tâm. Đêm ngày không mệt mỏi.Xứng gọi Nhất dạ Hiền. Bậc an tịnh trầm lặng."

          - "Trú như vậy nhiệt tâm": Trú có nghĩa an trú hay an trụ trong Tánh Giác hay Tánh Nhận Thức không động không tung chuyển.

          - "Đêm ngày không mệt mỏi": Tu tập trong bốn oai nghi: Đi, đứng, nằm, ngồi. Lúc nào cũng phải tỉnh thức để mà sống trong cái bây giờ và ở đây.

          - "Xứng gọi Nhất dạ Hiền, Bậc an tịnh trầm lặng": Người miên mật tu tập, Tâm luôn yên lặng, trí tuệ sáng suốtđịnh lực vững chắc, được Đức Phật ví như là một bậc Thánh an tịnh trầm lặng.

TẠI SAO "DÍNH MẮC" lại "MAY MẮN"?

          - Rốt cuộc tựa bài kinh "Một dính mắc may mắn" là dính mắc vào cái gì mà được Đức Phậtgọi đó là dính mắc may mắn? Xét lại mục tiêu của đạo Phật là tu tập để được Thoát Khổ, Giác Ngộ,Giải ThoátCon người sở dĩ khổ đau là vì luôn sống trong Tâm Ba Thời. Tâm Ba Thời là tâm ích kỷ,đố kỵ, ưa ganh ghét, nó chứa đầy những tham sân si, mạn, nghi, tà kiến.

          Người sống trong Tâm Ba Thời bị pháp thế gian tài sắc danh thực thuỳ lôi cuốn. Những thứ dục này luôn khuấy động khiến bản thân phải sống trong phiền não khổ đau và làm cho người thân kẻ sơ liên hệ cũng khổ đau phiền muộn.  

          Người sống trong Tâm Ba Thời là người sống trong "cái Biết Có Lời" tức trong Tâm lúc nào cũng dính mắc với suy tư, phân biệtso sánh, tưởng tượng, tạo ra nhiều Nghiệp xấu, nên đó là những "dính mắc bất hạnh".

          Trong bài kinh "Nhất Dạ Hiền Giả"Đức Phật khuyên chúng đệ tử của Ngài hãy tu tập quan sát vạn pháp là Vô thường, Khổ, Vô ngã bằng cách nhìn hiện tượng thế gian qua con mắt Tuệ tức thấy "cái đang là" của đối tượng và an trú trong "Chánh Niệm bây giờ và ở đây", tức an trú trong Tánh Giác. An trú trong Tánh Giác thì tâm hoàn toàn yên lặng chỉ có dòng Biết Không Lời nghĩa là Thầm Nhận Biết trong yên lặng. Trạng thái Thầm Nhận Biết Không Lời vững chắc là trạng thái Địnhvững chắc. Định vững chắc thì bên trong tâm cô lập được lậu hoặctập khíkiết sửtuỳ miên... bên ngoài "tám gió đời" (Lợi-Suy, Xưng-Cơ, Huỷ-Dự, Lạc-khổ) thổi tới, Tâm vẫn "không động không rung chuyển".  Như vậy, an trú trong Tánh Giác hay sâu sắc hơn là Tánh Nhận Thức, thì đạt được mục tiêu Thoát Khổ, Giác NgộGiải Thoát. Vì thế "dính mắc với Tánh Giác là một dính mắc may mắn".Nhận định này thật là đúng đắn!

 

KẾT LUẬN

          Bài kinh "Bhaddekaratta" hay "One fortunate attachment" hoặc "Một Dính Mắc May Mắn" màHoà Thượng Thích Minh Châu dịch là "Kinh Nhất Dạ Hiền Giả", tuy ngắn gọn và đơn giản nhưng xét kỷ thì thật sâu sắc. Đức Phật đã nhắm đúng vào tâm trạng của chúng sinh luôn khổ để màgiảng bài kinh này.

          - Nỗi khổ con người không ngoài sự dính mắc với Tâm Quá KhứHiện Tại và Tương Lai. Người lớn tuổi hay dính mắc với quá khứ. Người trẻ tuổi hay dính mắc với tương lai. Thông thườngmọi người hay dính mắc với hiện tại, vì bên dưới có những đam mêlậu hoặc từ lâu đời.

           Sinh lão bệnh tử là quy luật khách quan không ai tránh khỏi. Khi Vô thường đến, chúng tađều phải ra đi. Khi ra đi tức khi chết, chúng ta bỏ lại tất cả tài sản gồm tiền bạc, vòng vàng, nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, danh thơm tiếng tốt, vợ đẹp, con ngoan. Chúng ta chỉ có thể mang theomột trong hai loại hành trang:

          - Hành trang thứ nhất là: Tâm đời mang theo lậu hoặc, nghiệp xấu và nghiệp tốt. - Hành trang thứ hai là: Tâm linh mang theo trí huệcông đức tu hành.

          Cuộc sống của chúng ta tuỳ theo hơi thở. Còn thở thì sống. Ngưng thở thì chết. Cho nên khi còn sống trên đời này, dù gặp hoàn cảnh nào chúng ta cũng cố gắng sống một cuộc đời đáng sống dù dài hay ngắn. Sống một cuộc đời đáng sống là sống tỉnh thức, sống an vui, sống lợi íchcho mình và cho người.

          Sau khi tìm hiểu ý nghĩa của bài kinh "Một dính mắc may mắn" này, chúng ta nhận ra: Chỉ có "sát na bây giờ và ở đây là cái biết của Tánh Giác".  Nếu an trú trong đó thì chúng ta tự làm chủ lấy mình.

          Trong kinh, Đức Thế Tôn dạy chúng ta phải tu tập liền để làm chủ lấy Tâm hầu chuyển nghiệp trong giây phút bây giờ và ở đây chứ không thể chần chờ.

          Tu tập thì có thể tu theo đường Huệ: Thấy Biết Như Thật, Không dán nhãn đối tượng. Tu theo đường Định thì tu theo pháp Thở, Không Nói hay Không định danh đối tượng.

          Tóm lại qua nội dung bài kinh Bhaddekaratta, chúng ta nhìn hiện tượng thế gian qua cái Biết không lời của Tánh Giác để được an trú trong Tánh Giác, chuyển nghiệp từ từ đi trên con đườngtâm linh. Đây chính là một dính mắc may mắn vậy!

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

September 19-2018

(Giảng tại chùa Địa Tạng, Montreal, Canada tháng 6-2016

và đạo tràng Thiền Tánh Không Houston, Texas, USA tháng 7-2017)

Tài liệu:

Trung Bộ Kinh: (131) Kinh Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta). Hoà Thượng Thích Minh Châudịch sang tiếng Việt.

-  Giáo trình giảng dạy của Hoà Thượng Thích Thông Triệt lớp Thiền Căn Bản.

Bài đọc thêm:
Kinh Nhất Dạ Hiền Gỉa (Thích Minh Châu dịch)
Hiện Pháp Lạc Trú   (nhiều bài viết về phương pháp thực hành "An trú trong hiện tại"


Ý kiến bạn đọc
14 Tháng Hai 201904:01
Khách
Nhìn hiện tượng qua "cái biết không lời. Đây chính là một dính mắc may mắn vậy". Cái dính mắc may mắn này chính là dính mắc vào nhất niệm vô minh bởi sự cảm nhận của 5 giác quan (trực thức vô trạch) thuộc thức tri nên nói "cái biết không lời". Còn cái biết có lời là đã qua phần tưởng tri của ý, nên phát sanh hai tâm lý phụ tùng là tham hoặc ưu. Đây chính là pháp quán chiếu của "Bốn niệm xứ" để chế ngự tham ưu ở đời; chứ không phải nội dung của kinh Nhất Dạ Hiền giả; mà kinh Nhất dạ hiền giả, đức Phật dạy vượt thoát 5 thụ uẩn của 3 thời gian (chiếu kiến ngũ uẩn giai không). Vậy thì làm sao vượt thoát 5 thụ uẩn của 3 thời gian? Phật dạy: "Tuệ quán chính ở đây: không động không rung chuyển", tức vượt thoát cái biết không lời bởi thức tri của nhất niệm vô minh, vượt thoát cái biết có lời của ý thức phân biệt bởi tưởng tri, và vượt thoát luôn cả nhắm mắt chiêm bao của mạt na bởi mộng tưởng tri, thì thật trí (trí bát nhã) mới hiển lộ. Hòa Thượng hiểu lầm nên mới cho "một sự dính mắc may mắn". Sư cô cũng hiểu lầm nên đem pháp đại thừa trở về nhị thừa! Xin các vị đừng tưởng lầm trong hệ kinh thuộc tạng Nykaya không có nội dung đại thừa!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16499)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19586)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11912)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11811)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12576)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15621)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13572)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17953)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11124)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12443)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant