Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Kim Cương Phạn Bản Tân Dịch

09 Tháng Mười Hai 201809:03(Xem: 10763)
Kinh Kim Cương Phạn Bản Tân Dịch
KINH KIM CƯƠNG PHẠN BẢN TÂN DỊCH
[KINH TRÍ TUỆ SIÊU VIỆT TOÀN HẢO
CÓ KHẢ NĂNG PHÁ HỦY NHƯ SẤM SÉT]

vajracchedikāprajñāpāramitā|
/Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā

Phước Nguyên dịch từ nguyên bản Sanskrit

ấn bản điện tử: 22/11/2018

blank

Kính lễ đức Śākya-muni Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác.

Kính lễ Thế Tôn, bậc Thánh Trí toàn hảo.

Tôi nghe như vậy:

Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc), với đại Bí-sô Tăng, hiện diện gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị Bí-sô, và cùng rất nhiều vị Bồ-tát Đại sĩ.

Bấy giờ, vào buổi sáng sớm, đức Thế Tôn chỉnh sửa thường phục, choàng y Tăng-già-lê, ôm bình bát đi vào thành phố Śrāvastī để khất thực.

Khi đó, đức Thế Tôn tại thành phố Śrāvastī, sau khi đã tuần tự khất thực rồi, ngài soạn bữa với thực phẩm đã khất thực được, dùng cơm xong, liền quay trở về, cất đặt y bát, rửa hai chân, ngồi vào chỗ đã sắp sẵn như thường lệ, với tư thế kiết già, giữ thân ngay thẳng, dựng niệm trước mặt.

Lúc ấy, rất nhiều vị Bí-sô đi đến trước chỗ đức Thế Tôn ngồi, đầu lạy xuống sát hai chân ngài, rồi đi nhiễu quanh ba vòng về phía bên phải và ngồi xuống một bên Thế Tôn.

2. Lại nữa, vào thời điểm ấy, Trưởng lão Subhūti cũng đã có mặt ở trong hội chúng đó và cùng ngồi xuống.  

Rồi thì, Trưởng lão Subhūti, từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt thượng y qua một bên vai, đầu gối chân phải quỳ xuống chấm đất, ngài chắp hai tay lại, cung kính hướng đến đức Thế Tôn, bạch rằng:

“Thật tuyệt diệu thay, bạch đức Thế Tôn!

Thật vô cùng tuyệt diệu thay, bạch đức Thiện Thệ!

Có bao nhiêu các vị Bồ-tát Đại sĩ cũng được Như Lai, A-la-hán, bậc Chánh đẳng giác, nhiếp thọ, với sự nhiếp thọ ưu việt nhất!

Thật tuyệt vời thay, bạch đức Thế Tôn! Có bao nhiêu vị Bồ-tát Đại sĩ cũng được Như Lai, A-la-hán, bậc Chánh đẳng giác nâng đỡ, với sự nâng đỡ ưu việt nhất!

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện nào, đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì họ phải an trú như thế nào? Phải tu tập như thế nào? Và phải nhiếp hộ tâm như thế nào?

Đức Thế Tôn, liền dạy Trưởng lão Subhūti:

“Tốt lắm, tốt lắm, này Subhūti! Điều ấy đúng như thế, điều ấy quả đúng như thế, này Subhūti! Điều ấy, đúng như lời ông nói.

Các vị Bồ-tát Đại sĩ, đã được nhiếp thọ, với sự nhiếp thọ ưu việt nhất; các vị Bồ-tát Đại sĩ đã được nâng đỡ, với sự nâng đỡ ưu việt nhất.

Này Subhūti! Cho nên, đối với những câu hỏi ấy, ông hãy lắng nghe kỹ và tư duy cẩn trọng. Nay Ta sẽ thuyết giảng cho ông, rằng: ‘Người nào đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì họ nên an trú giống như vầy, tu tập giống như vầynhiếp hộ tâm giống như vầy’.

Trưởng lão Subhūti bạch đức Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, thưa vâng! Con xin được lắng nghe.


3. Đức Thế Tôn dạy như sau:

Này Subhūti! Ở đây, bất cứ ai đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì nên phát khởi tâm thế này:

Này Subhūti! Bất cứ loại chúng sanh nào thuộc chủng tính chúng sanh, được liệt vào trong chúng sinh, hoặc sinh ra từ trứng, sinh từ thai, sinh từ thấp khí, sinh từ sự biến hóa, hoặc có hình thái, hoặc không có hình thái, hoặc có ấn tượng, hoặc không có ấn tượng, hoặc không phải có ấn tượng mà cũng không phải không có ấn tượng, cho đến có bất cứ khái niệm nào về chủng tính chúng sinh được tư duy khái niệm, thì tất cả những điều ấy, ta dẫn dắt thể nghiệm Niết-bàn tuyệt đối, khi đã vào trong chủng tính Niết-bàn này, thì không còn sót lại một chút tàn dư nào của chất liệu tồn tại. Dù đã dẫn dắt vô lượng chúng sanh thể nghiệm Niết bàn như thế, nhưng kỳ thực khôngchúng sanh nào đã được dẫn dắt thể nghiệm Niết bàn cả. 

Này Subhūti, Vì nguyên nhân gì? Vì nếu ấn tượng chúng sanh của Bồ-tát còn hoạt động, thì không thể gọi là Bồ-tát.

Này Subhūti, Tại sao vậy? Vì ấn tượng chúng sanh của vị ấy hoạt động, ấn tượng sinh mệnhấn tượng con người của vị ấy còn hoạt động, nên không thể gọi vị ấy là Bồ-tát.


4. Lại nữa, Này Subhūti! Bồ-tát nên thực hành bố thí tài sản không thiết lập trên cơ sở nào, thậm chí vị ấy nên thực hành bố thí tài sản không thiết lập trên bất cứ cái gì. Nghĩa là, vị ấy khi thực hành sự bố thí tài sản không thiết lập trên sắc, không thiết lập trên thanh, hương, vị, xúc, và đối tượng của tâm để thực hành bố thí tài sản.

Thực vậy, này Subhūti! Các vị Bồ-tát Đại sĩ cần thực hành bố thí tài sản theo cách như thế, tức vị ấy không thiết lập bằng tín hiệu của ấn tượng. Tại sao vậy? Này Subhūti! Bởi vì Bồ-tát không có chỗ thiết lậpthực hành bố thí tài sản, thì khối phước đức của vị ấy không dễ dàng nhận thức và đo lường được.

Này Subhūti, Ông nghĩ sao? không gian ở phương Đông có dễ nhận thức và đo lường được không?

Subhūti thưa: Bạch Thế Tôn! Thực sự không dễ.

Đức Thế Tôn hỏi:  không gian ở các phương Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới, các hướng trung gian, và tất cả mười phương chung quanh có dễ nhận thức và đo lường được không?

Subhūti thưa: Bạch Thế Tôn! Thực sự không dễ.

Đức Thế Tôn dạy: cũng như vậy, này Subhūti, Bồ-tát không có chỗ thiết lậpthực hành bố thí tài sản, thì khối phước đức của vị ấy không dễ dàng nhận thức và đo lường được.

Này Subūti, đó là lý do tại sao, những vị đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, cần phải thực hành sự không thiết lập trên tín hiệu của ấn tượng.


5. Này Subhūti, Ông nghĩ sao, có thể chiêm nghiệm đức Như Lai bằng các hình thái được sở hữu nơi thân ngài hay không?

Subhūti thưa: Thật không thể, bạch Thế Tôn. Không thể chiêm nghiệm Như Lai bằng các hình thái được sở hữu nơi thân ngài.

Tại sao vậy? Bạch Thế Tôn! Các hình thái sở hữu nơi thân được nói bởi Như Lai, chính các hình thái sở hữu nơi thân ấy không phải là hình thái sở hữu nơi thân.

Đức Thế Tôn, gọi Subhūti mà dạy rằng:

Này Subhūti! Bất cứ cái gì có sở hữu hình thái, cái đó có sự hư dối; Bất cứ cái gì không sở hữu hình thái, cái đó không có sự hư dối. Do đó, đức Như Lai cần phải được chiêm nghiệm bằng “không hình thái” ngay nơi “hình thái”.


6. Trưởng lão Subhūti bạch đức Thế Tôn:

Bạch đức Thế Tôn! Liệu có chúng sinh nào sống trong thời kỳ tương lai, trong thời đại sau cùng, trong kỷ nguyên cuối cùng, và trong năm trăm năm chót, vào thời điểm “Chánh Pháp” bị ẩn mất, mà những câu trong kinh có đặc điểm như vậy được giảng dạy, thì họ có phát sinh được ấn tượng chân thực về nó hay không?

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, ông đừng nói như thế: “Liệu có chúng sinh nào sống trong thời kỳ tương lai, trong thời đại sau cùng, trong kỷ nguyên cuối cùng, và trong năm trăm năm chót, vào thời điểm “Chánh Pháp” bị ẩn mất, mà những câu trong kinh có đặc điểm như vậy được giảng dạy, thì họ có phát sinh được ấn tượng chân thực về nó hay không?”

Lại nữa, này Subhūti! Vào thời kỳ tương lai, trong thời đại sau cùng, trong kỷ nguyên cuối cùng, mà những câu ở trong kinh này được giảng dạy, sẽ có những vị Bồ-tát Đại sĩ đầy đủ phẩm chất, giới đứctrí tuệ - phát sinh được ấn tượng chân thực.

Lại nữa, này Subhūti! Những vị Bồ-tát Đại sĩ ấy, không chỉ tôn kính một đức Phật duy nhất, và cũng không chỉ vun trồng thiện căn nơi một đức Phật mà thôi.

Khác hơn, này Subhūti! Những Bồ-tát Đại sĩ ấy, khi nghe những câu trong kinh có đặc điểm như vậy được giảng dạy được như vầy, thậm chí họ sẽ chứng đắc tín tâm thuần tịnh bằng sự nhất tâm, giống như đã tôn kính hàng trăm ngàn vị Phật, đã gieo trồng thiện căn ở nơi hàng trăm ngàn vị Phật.

Này Subhūti! Như Lai biết được họ bằng trí giác Phật.

Này Subhūti! Như Lai thấy được họ bằng con mắt Phật.

Này Subhūti! Như Lai nhận thức toàn diện về họ.

Này Subhūti! Hết thảy những vị ấy, sẽ phát sinh và đạt được khối phước đức vô lượng, vô số.

Tại sao vậy? Này Subhūti! Vì chính các vị Bồ-tát Đại sĩ ấy, không có sự hoạt động của ấn tượng tự ngã, không có sự hoạt động của ấn tượng chúng sanh, không có sự hoạt động của ấn tượng con người và không có sự hoạt động của ấn tượng sinh mệnh.

Này Subhūti! Và những ấn tượng về pháp và về phi pháp của những vị Bồ-tát Đại sĩ ấy cũng không còn hoạt động.

Này Subhūti! Và đối với những ấn tượng và phi ấn tượng nơi chính họ cũng không còn hoạt động.

Tại sao vậy? Này Subhūti, nếu ấn tượng về pháp còn hoạt động nơi những vị Bồ-tát đại sĩ ấy, thì họ còn tồn tại sự bảo thủ về tự ngã, tồn tại sự bảo thủ về chúng sanh, sự bảo thủ về sinh mệnh và sự bảo thủ về con người.

Và nếu ấn tượng về phi pháp còn hoạt động nơi những vị ấy, thì chính họ còn tồn tại sự bảo thủ về tự ngã, tồn tại sự bảo thủ về chúng sanh, sự bảo thủ về sinh mệnh và sự bảo thủ về con người.

Lại nữa, này Subhūti! Tại sao vậy? Vì một vị Bồ-tát Đại sĩ, thì không nên có sự dựng dậy tập quán bảo thủ về pháp, hoặc phi pháp.

Do đó, giáo lý được công bố bởi Như Laimật ý, nên những ai có trí cần phải thấu hiểu: “Pháp thoại giống như chiếc bè, pháp còn phải buông bỏ, huống chi là phi pháp”.


7. Đức Thế Tôn lại dạy Trưởng lão Subhūti:

Này Subhūti, Ông nghĩ gì? Có bất cứ pháp nào mà Như Lai đã thể nghiệm hoàn toàn gọi là “sự tối thượng của Chánh đẳng giác” không? Và có bất cứ pháp nào đã được Như Lai giảng dạy không?

Trưởng lão Subhūti, thưa với đức Thế Tôn:

Bạch đức Thế Tôn! Thưa không, thực tế con hiểu nghĩa lý giáo thuyết của Thế Tôn như thế này: Không có bất cứ pháp nào mà Như Lai đã thể nghiệm gọi là “sự tối thượng của Chánh đẳng giác” và cũng không có bất kỳ pháp nào đã được Như Lai giảng dạy.

Tại sao vậy? Vì pháp mà Như Lai đã hoàn toàn thể nghiệm và công bố, pháp ấy không thể nắm bắt và mô tả. Pháp đó không phải là pháp, cũng không phải là phi pháp.

Tại sao vậy? Bởi vì các bậc Thánh nhân đều từ vô vi mà được đề cao hơn.


8. Đức Thế Tôn dạy:

Này Subhūti! Ông nghĩ gì? Nếu có người con trai hoặc người con gái gia đình hiền thiện nào làm đầy cả một nghìn tỷ thế giới bằng bảy thứ báu vật, rồi sau đó hiến cúng các phẩm vật đó lên các đức Như Lai, A-la-hán, bậc Chánh đẳng giác, thì liệu thông qua nhân tố đó họ có thể thành tựu được một khối phước đức to lớn hay không?

Subhūti thưa:

Dạ rất nhiều, bạch Thế Tôn! Dạ rất nhiều, bạch Thiện Thệ! Người con trai hoặc người con gái gia đình hiền thiện ấy, thành tựu được khối phước đức to lớn thông qua nhân tố ấy.

Bạch đức Thế Tôn! Tại sao vậy? Vì Như Lai đã dạy khối phước đức này, chính nó ‘không phải là khối’ được dạy bởi Như Lai. Do đó, Như Lai nói: khối phước đức ấy chính là khối phước đức.

Đức Thế Tôn dạy: Lại nữa, này Subhūti! Nếu có người con trai hoặc người con gái gia đình hiền thiện nào làm đầy cả một tỷ thế giới bằng bảy thứ báu vật, rồi sau đó đem hiến cúng các phẩm vật đó lên các đức Như Lai, A-la-hán, bậc Chánh đẳng giác; và lại có bất cứ người nào khác, thọ trì bài chỉnh cú chỉ gồm bốn câu ở trong pháp thoại này, rồi đem trình bày và giải thích chi tiết cho người khác nữa, thì thông qua nhân tố ấy, người đó thành tựu được khối phước đức vượt trội hơn vô lượng, vô số so với người hiến cúng bảy báu kia.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì từ Pháp thoại này mà lưu xuất ra ‘Sự toàn giác tối thượng đích thực’ của các đức Như Lai, A-la-hán, bậc Chánh đẳng giác. Chư Phật Thế Tôn cũng xuất hiện từ Pháp thoại đó.

Này Subhūti, vì nguyên nhân gì? Vì Như lai đã dạy: những pháp đặc biệt của chư Phật chính nó không phải là những pháp đặc biệt của chư Phật. Đó là lý do tại sao chúng được gọi là pháp đặc biệt của chư Phật.


9. Này Subhūti, ông nghĩ gì, có vị Dự lưu nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị Dự Lưu” hay không?

Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không có vị Dự Lưu nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị Dự Lưu”. Tại sao vậy? Bạch đức Thế Tôn, vì vị đó không đạt được bất cứ pháp nào cả. Vì vậy, vị đó được gọi là bậc Dư Lưu. Không gia nhập vào sắc, không gia nhập vào thanh, hương, vị, xúc và pháp. Đó là lý do tại sao vị ấy được gọi là bậc Dự Lưu.

Bạch Thế Tôn! Nếu có bậc Dự lưu nào còn hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị Dự Lưu”, thì vị đó đang còn sự bảo thủ tự ngã, bảo thủ về chúng sanh, bảo thủ về sinh mệnhbảo thủ về con người.

Đức Thế Tôn nói: Này Subhūti, ông nghĩ gì, có vị Nhất lai nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị Nhất Lai” hay không?

Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không có vị Nhất Lai nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị Nhất Lai”. Tại sao vậy? Vì không tồn tại bất cứ pháp nào dự vào thể tính Nhất Lai cả. Đó là lý do tại sao vị đó được gọi là Nhất Lai.   

Đức Thế Tôn nói: Này Subhūti, ông nghĩ gì, có vị Bất hoàn nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị Bất hoàn” hay không?

Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không có vị Bất hoàn nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị Bất hoàn”. Tại sao vậy? Vì không tồn tại bất cứ pháp nào dự vào thể tính Bất hoàn cả. Đó là lý do tại sao vị ấy được gọi là Bất hoàn.  

Đức Thế Tôn nói: Này Subhūti, ông nghĩ gì, có vị A-la-hán nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị A-la-hán” hay không?

Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không có vị A-la-hán nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị A-la-hán”.

Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì không có pháp nào có tên là A-la-hán cả. Đó là lý do tại sao vị đó được gọi là A-la-hán.

Bạch Thế Tôn! Nếu vị A-la-hán nào hiện khởi ý nghĩ: “Ta chứng đắc quả vị A-la-hán”, thì vị ấy còn bảo thủ tự ngã, còn bảo thủ chúng sanh, sinh mệnhcon người.

Tại sao? Vì bản thân con là người đã được Thế Tôn, Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác nói con là vị thượng thủ hạnh an trú a-lan-nhã.

Bạch Thế Tôn! Nếu con nghĩ, con là A-la-hán viễn ly các dục, thì Thế Tôn đã không gọi con là A-la-hán viễn ly các dục.

Bạch Thế Tôn! Nếu con cho rằng, con thể nghiệm A-la-hán, thì Như Lai đã không công bố: “Subhūti là người con trai của gia đình hiền thiện, thượng thủ hạnh an trú a-lan-nhã, nhưng không lưu trú bất cứ nơi nào, nên gọi hạnh a-lan-nhã được gọi là hạnh a-lan-nhã”.


10. Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì? Với Như Lai, có pháp nào mà Như Lai thọ trì trong thời kỳ thân cận đức Dipaṃkara (Nhiên Đăng), A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác không?

Ngài Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Với Như Lai, không có pháp nào mà ngài thọ trì trong thời kỳ thân cận đức Dipaṃkara, A-la-hán, Bậc giác ngộ viên mãn cả.

Đức Thế Tôn dạy:

Này Subhūti! Có vị Bồ-tát nào nói rằng: “Ta đã trang nghiêm đất nước”, là vị ấy nói không đúng.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì đất nước trang nghiêm được dạy bởi Như Lai, gọi tên là trang nghiêm, đó không phải là trang nghiêm. Vì vậy, mới gọi là đất nước trang nghiêm.

Thế nên, này Subhūti! Với Bồ-tát Đại sĩ, nên sinh khởi tâm không thiết lập; nên sinh khởi tâm không thiết lập trên bất cứ cái gì. Nên sinh khởi tâm không bị thiết lập bởi sắc; nên sinh khởi tâm không bị thiết lập bởi thanh, hương, vị, xúc và pháp.

Này Subhūti! Ví như người có thân hình to lớn, thân tự nhiên, hình thể của người kia có hình thái giống như núi chúa Sumeru (Tu-di). Ông nghĩ gì, hình thể của người kia có lớn không?

Subhūti thưa: hình thể của người kia rất lớn, bạch Thế Tôn! hình thể của người kia rất lớn, bạch Thiện Thệ!   

Bạch Thế Tôn! Tại sao? Vì sắc thân được nói bởi đức Như Lai với tên là sắc thân, chính nó là phi sắc thân, cho nên mới gọi là sắc thân.

Bạch Thế Tôn! Thực tế thân này không phải là hữu tính, mà cũng không phải là phi hữu tính, nên mới gọi là sắc thân.


11. Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì? Ví như sông Gaṅgā rộng lớn, có bao nhiêu hạt cát và mỗi hạt cát là một sông Gaṅgā, vậy số cát ở trong tất cả sông Gaṅgā đó, có nhiều không?

Subhūti thưa: Bạch Thế Tôn! Chỉ số lượng sông Gaṅgā cũng đã quá nhiều, huống nữa là số hạt cát ở trong các sông Gaṅgā ấy.

Đức Thế Tôn, gọi Subhūti dạy rằng:

“Ta nói sự thật cho ông biết, nếu có người con trai hay con gái của gia đình hiền thiện nào, có thể dùng bảy thứ châu báu chứa đầy cả thế giới nhiều như số cát ở trong các sông Gaṅgā ấy, để hiến cúng các đức Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác, thì này Subhūti ông nghĩ sao, thông qua nhân duyên ấy, người con trai hay người con gái của gia đình hiền thiện đó, thành tựu khối phước đức có nhiều không?”

Subhūti thưa: Dạ nhiều, bạch Thế Tôn! Dạ nhiều, bạch Thiện Thệ! Người con trai hay người con gái của gia đình hiền thiện đó thông quan nhân duyên ấy thành tựu khối phước đức vô lượng.

Đức Thế Tôn dạy: Lại nữa, này Subhūti! Nếu có người con trai hay người con gái của gia đình hiền thiện nào, có thể dùng bảy thứ châu báu, chứa đầy cả thế giới để đem hiến cúng các đức Như Lai, A-la-hán, Bậc giác ngộ viên mãn; và lại có người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện nào, chỉ thực hành bài chỉnh cú khoảng chừng bốn câu trong pháp thoại này, rồi đem trình bày đầy đủ, giải thích chi tiết cho người khác hiểu, thì người này thành tựu khối phước đức thông qua nhân duyên ấy, vượt trội hơn vô lượng so với người hiến cúng châu báu kia.


12. Cũng như thế, này Subhūti! Nơi trú xứ nào mà có bài chỉnh cú khoảng chừng bốn câu trong pháp thoại này, được thực hành, giải thích, giảng dạy, thì nơi trú xứ ấy đều trở thành tháp miếu chân thực của thế giới: Chư thiên, Nhân loại và A-tu-la v.v... Huống nữa là người suốt đời thực hành, đọc tụng, thông đạt, giảng dạy chi tiết pháp thoại này cho người khác. Này Subhūti! Người ấy thành tựu phẩm tính tuyệt diệu bậc nhất.

Này Subhūti! Trú xứ nào có kinh điển này, trú xứ ấy có bậc Đạo sư trú ngụ, hoặc một vị đệ tử minh triết đại diện cho vị ấy.


13. Bấy giờ, Trưởng lão Subhūti, bạch đức Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn! Pháp thoại này, nên gọi tên là gì, và con nên phụng hành thế nào?

Lúc ấy, đức Thế Tôn dạy, Trưởng lão Subhūti:

Này Subhūti! Pháp thoại này tên là “PrajñāpāramitāTrí tuệ siêu việt toàn hảo” (Bát-nhã Ba-la-mật-đa), Ông hãy như vậy mà phụng hành.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì “Trí tuệ siêu việt toàn hảo” được nói bởi Như Lai, chính nó không phải là Trí tuệ siêu việt toàn hảo được nói bởi Như Lai. Do đó, mới gọi là “Trí tuệ siêu việt toàn hảo”.

Này Subhūti! Ông nghĩ gì, có pháp nào được Như Lai nói không?

Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không có pháp nào được nói bởi Như Lai cả.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! Ông nghĩ gì, các hạt vi trần ở trong một tỷ thế giới có nhiều không?

Subhūti thưa: Dạ nhiều, bạch Thế Tôn! Dạ có nhiều hạt vi trần, bạch Thiện Thệ!

Tại sao vậy? Bạch Thế Tôn Vì các hạt vi trần được nói bởi Như Lai, chính nó không phải là hạt vi trần được Như Lai nói, nên mới gọi là hạt vi trần. Cũng vậy, thế giới được nói bởi Như Lai, chính nó không phải là thế giới được Như Lai nói, nên gọi là thế giới.

Đức Thế Tôn dạy:

Này Subhūti! Ông nghĩ gì, có thể chiêm nghiệm Như Lai, A-la-hán, Bậc giác ngộ viên mãn, bằng ba mươi hai đặc điểm của bậc Trượng phu không?

Subhūti thưa: Bạch Thế Tôn! Không thể chiêm nghiệm Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác, bằng ba mươi hai đặc điểm của bậc Trượng phu. Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì ba mươi hai đặc điểm của bậc Trượng phu được nói bởi Như Lai, thì chính chúng không phải là các đặc điểm được Như Lai nói, cho nên mới gọi là ba mươi hai đặc điểm của bậc Trượng phu.

Đức Thế Tôn dạy:

Lại nữa, nếu có người trai hay người con gái của gia đình hiền thiện nào, hằng ngày đem thân mạng bố thí nhiều như số hạt cát sông Gaṅgā, và bố thí thân mạng như vậy, trải qua nhiều kiếp như số hạt cát sông Gaṅgā; Lại có người khác, chỉ thực hành bài chỉnh cú khoảng chừng bốn câu trong pháp thoại này, rồi đem trình bày đầy đủ, giải thích chi tiết cho người, thì thông qua nhân duyên ấy, người này thành tựu khối phước đức, vượt trội hơn vô lượng so với người kia.


14. Lúc bấy giờ, Trưởng lão Subhūti, khi nghe pháp thoại này, vì pháp lực, liền xúc cảm rơi nước mắt, sau đó Trưởng lão lau nước mắt, rồi bạch đức Thế Tôn:

Thật tuyệt vời thay, bạch Thế Tôn! Thật vô cùng tuyệt vời thay, bạch Thiện Thệ! Pháp thoại này được Như Lai giảng dạy vì lợi ích cho những chúng sanh nào đã khởi hành trên cỗ xe tối thượng (tối thượng thừa); và vì lợi ích cho những chúng sanh nào đã khởi hành trên cỗ xe ưu việt nhất (vô thượng thừa).

Bạch Thế Tôn! Do vậy trong con đã khởi lên nhận thức này: Bạch Thế Tôn! Từ trước đến nay, con chưa từng được nghe pháp thoại nào như thế này cả.

Bạch Thế Tôn! Có những vị Bồ-tát thành tựu phẩm chất tuyệt diệu bậc nhất, ở đây sau khi nghe thuyết giảng kinh này, họ sẽ phát sinh được ấn tượng chân thực.

Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì ấn tượng chân thực, chính nó không phải là ấn tượng chân thực, nên Như Lai nói ấn tượng chân thực mới là ấn tượng chân thực.

Bạch Thế Tôn! Thật tuyệt diệu, nhưng đối với bản thân con không thể tin hiểu Pháp thoại đã được thuyết giảng này. Bạch Thế Tôn! Cũng vậy, trong thời kỳ tương lai, trong thời đại sau cùng, trong kỷ nguyên cuối cùng, và trong năm trăm năm chót, vào thời điểm “Chánh Pháp” bị ẩn mất, chúng sinh đó có thể thực hành, nghiên cứu, đọc tụng, giới thiệu chi tiết pháp thoại này cho những người khác, thì những chúng sinh này sẽ thành tựu phẩm chất tuyệt diệu bậc nhất.

Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Nơi họ ấn tượng tự ngã không hoạt động, ấn tượng chúng sanh không hoạt động, ấn tượng sinh mệnh không hoạt độngấn tượng con người không hoạt động; nơi họ ấn tượng hay phi ấn tượng đều không hoạt động.

Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì ấn tượng về tự ngã, chính nó không phải là ấn tượng; ấn tượng về chúng sanh, ấn tượng về sinh mệnhấn tượng về con người, chính nó không phải là ấn tượng.

nguyên nhân gì? Vì chư Phật Thế Tôn, các ngài đã xa lìa hết thảy ấn tượng.

Sau khi nghe Trưởng lão Subhūti trình bày, đức Thế Tôn liền dạy Trưởng lão Subhūti:

Này Subhūti! Điều ấy, đúng như thế. Điều ấy, quả đúng như thế. Này Subhūti! Nếu những chúng sanh nào nghe Ta công bố kinh này mà không sợ hãi, không bối rối, không bị rơi vào trạng thái khiếp đảm, thì những người ấy sẽ thành tựu phẩm chất tuyệt diệu bậc nhất.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì “Sự toàn hảo đệ nhất” (Ba-la-mật tối thượng) được nói bởi Như Lai, cái ấy không phải là “Sự toàn hảo đệ nhất”.

Này Subhūti! “Sự toàn hảo đệ nhất” mà Như Lai đã nói, điều ấy vô lượng chư Phật Thế Tôn cũng đã nói như thế, cho nên gọi là “Sự toàn hảo đệ nhất”.

Này Subhūti! Lại nữa, sự nhẫn nhục toàn hảo của Như Lai, chính nó không phải là toàn hảo.

Này Subhūti, tại sao? Vì nếu khi vua Kaliṅga róc thịt trên các phần thân thể của ta, chính lúc ấy ta không có ấn tượng về ngã, ấn tượng về chúng sanh, ấn tượng về sinh mệnh, ấn tượng về con người, và nơi ta ấn tượng hay phi ấn tượng đều không hoạt động.

Này Subhūti, Tại sao vậy? Vì nếu thời ấy, ấn tượng tự ngã của ta hoạt động, thì ngay lúc đó ấn tượng sân hận trong ta cũng hoạt động. Nếu ngay thời ấy, trong ta hiện khởi ấn tượng chúng sanh, ấn tượng sinh mệnhấn tượng con người, thì ngay khi ấy, ấn tượng sân hận trong ta cũng hoạt động.

Này Subhūti, tại sao? Vì ta nhớ lại năm trăm đời trước trong thời quá khứ, ta đã từng làm vị Tiên nhẫn nhục. Trong thời ấy, ấn tượng về tự ngã của ta cũng không hoạt động, ấn tượng về chúng sanh, ấn tượng về sinh mệnhấn tượng về con người cũng đều không hoạt động.

Do đó, này Subhūti! Với Bồ-tát Đại sĩ, cần buông bỏ hết thảy nhận thức sai lầm để phát lập tâm Bồ-đề tối thượng. Hãy phát tâm không thiết lập vào sắc; hãy phát tâm không thiết lập vào thanh, hương, vị, xúc và pháp; hãy phát tâm không thiết lập vào pháp; hãy phát tâm không thiết lập vào không phải pháp; hãy phát tâm không bị thiết lập trên bất cứ cái gì. Nếu thiết lập trên cái nào, thì nên ngay nơi cái đó mà không thiết lập.

Thế nên, sự bố thí tài sản của Bồ-tát Đại sĩ được Như Lai gọi là sự bố thí tài sản không bị thiết lập trên sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.

Lại nữa, này Subhūti! Bồ-tát vì lợi ích của hết thảy chúng sanh, cần bố thí tài sản bằng phẩm hạnh thoát ly như thế.

Này Subhūti, tại sao? Vì ấn tượng về chúng sinh, chính cái ấy không phải là ấn tượng. Những chủng tínhNhư Lai gọi là chúng sanh, thì chính nó không phải chúng sanh.

Này Subhūti, tại sao? Vì Như Lai nói lời chân thực, nói lời đúng với sự thực, nói lời như thực, Như Lai không nói lời khác với như thực, Như Lai không nói lời trái nghịch với sự thực.

Lại nữa, này Subhūti! Pháp đựơc Như Lai thể nghiệm, tư duycông bố, pháp ấy không phải chân thực, không phải hư ngụy.

Này Subhūti! Cũng như thế, một người bước vào chỗ tối tăm không thấy gì. Bồ-tát nên biết rằng rơi vào sự tướng để thí xả tài vật cũng thế. Cho nên, khi Bồ-tát thực hành bố thí tài sản, cần phải quán chiếu đúng như phápthoát ly.

Này Subhhūti! Cũng như vậy, một người có mắt, có ánh sáng ban ngày của mặt trời xuất hiện chiếu rọi, nên thấy đúng mọi đặc điểm khác biệt của sự vật. Cho nên, khi Bồ-tát thực hành bố thí tài sản, cần phải quán chiếu đúng như phápthoát ly.  

Lại nữa, này Subhūti! Nếu có người con trai hay con gái gia đình hiền thiện nào, thực hành, nghiên cứu, đọc tụng, giảng dạy và giới thiệu chi tiết pháp thoại này cho nhiều người khác, thì này Subhūti! Như Lai sẽ biết họ bằng Trí giác Phật. Này Subhūti! Như Lai sẽ thấy họ bằng con mắt Phật. Như Lai biết họ bằng trí giác toàn diện. Này Subhūti! Tất cả những chúng sanh ấy, sẽ vun bồi và tiếp nhận khối phước đức không dễ dàng nhận thức và đo lường.


15. Này Subhūti! Lại nữa, nếu có người con trai, hay con gái của gia đình hiền thiện nào nào, buổi sáng bố thí thân thể như số hạt cát sông Gaṅgā, buổi trưa bố thí thân thể như số hạt cát sông Gaṅgā, buổi chiều tối bố thí thân thể như số hạt cát sông Gaṅgā, với cách bố thí thân thể như thế, trải qua hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỷ kiếp,…Và lại người nào nghe được pháp thoại này mà không phỉ báng, thông qua nhân duyên ấy, người này thành tựu khối phước đức nhiều hơn vô lượng so với người kia. Huống chi biên chép, tiếp nhận, nghiên cứu, đọc tụng, thông đạt, giới thiệu chi tiết cho những người khác. Cho nên, này Subhūti! Pháp thoại này là vô giá, là không thể nghĩ bàn.

Này Subhūti! Pháp thoại này được Như Lai giảng dạy vì lợi ích cho những chúng sanh nào đã khởi hành trên cỗ xe tối thượng; vì lợi ích cho những chúng sanh nào đã khởi hành trên cỗ xe ưu việt nhất.

Những nguời nào tiếp nhận, nghiên cứu, đọc tụng, thông đạtgiới thiệu chi tiết pháp thoại này cho những người khác, thì này Subhūti! Như Lai biết người đó bằng Trí giác Phật. Này Subhūti! Như Lai thấy người đó bằng Con mắt Phật. Đối với Như Lai người ấy là vị trí giác.

Này Subhūti! Tất cả những chúng sanh ấy sẽ thành tựu khối phước đức vô lượng: khối phức đó không thể nghĩ bàn, không thể ước lượng, và vô giá.

Này Subhūti! Tất cả chúng sanh ấy, họ sẽ đọc tụng, thông đạtduy trì tri thức như nhau.

Này Subhūti! Tại sao vậy? Vì đối với những chúng sanh có khuynh hướng và niềm tin thấp kém, thì họ không có khả năng lắng nghe pháp thoại này bằng sự nhận thức không có tự ngã, nhận thức không có chúng sinh, sinh mệnhcon người.

Pháp thoại này, với những chúng sanh không có sự thiết lập chí nguyện Bồ-tát, mà lại có khả năng lắng nghe, tiếp nhận, nghiên cứu, đọc tụngthông đạt. Trường hợp như vậy, hoàn toàn không thể xảy ra.

Này Subhūti! Ở trú xứ nào, có giảng dạy kinh này, nơi trú xứ ấy cần phải được phụng sự; trú xứ ấy gọi là tháp miếu, xứng đáng được thế giới: Chư thiên, Nhân loại, A-tu-la, v.v… kính lễ và đi nhiễu vòng quanh về phía bên phải.


16. Lại nữa, này Subhūti! Nếu có người con trai hoặc người con gái gia đình hiền thiện nào tiếp nhận, nghiên cứu, đọc tụngthông đạt, ghi nhớ cụ thể những kinh điển như thế này, rồi giới thiệu chi tiết cho mọi người, mà người ấy lại bị người khác khinh rẽ, phỉ báng và ngược đãi. Này Subhūti! Vì sao lại xảy ra như vậy? Vì những hành vi vẩn đục đã tạo tác trong đời trước của những chúng sinh ấy, đáng lý sẽ dẫn độ họ đến cảnh vực khổ não, nhưng trong đời hiện tại, do sức mạnh của sự khinh miệt đó, khiến cho những hành vi vẩn đục trong đời sống trước đây của họ đều bị tiêu diệt, họ sẽ thể nghiệm được tuệ giác của một vị Phật.

Này Subhūti! Ta nhớ vô số kiếp trong thời quá khứ về trước, trước đức Dīpaṃkara, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác vô lượng thời gian, có tám mươi bốn triệu tỉ đức Phật, ta đều thân cận phụng sự, hiến cúng, không để thiếu sót.

Này Subhūti! Nếu đem so sánh việc ta thừa sự, hiến cúng chư Phật Thế Tôn không để thiếu sót. Thì, này Subhūti! trong thời kỳ tương lai, trong thời đại sau cùng, trong kỷ nguyên cuối cùng, và trong năm trăm năm chót, vào thời điểm “Chánh Pháp” bị ẩn mất, đối với pháp thoại này có bất cứ chúng sinh nào có thể thực hành, nghiên cứu, đọc tụng, giới thiệu chi tiết cho những người khác. Này Subhūti! Khối phước đức của ta trước đó, so với khối lượng của vị này không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần triệu, một phần mười triệu, một phần tỷ, cho đến dùng bất cứ toán số, thí dụ nào cũng đều không thể so sánh được.

Lại nữa, này Subhūti! Nếu ta nói cụ thể khối phước đức của những người con trai hay con gái của gia đình hiền thiện ấy và khối phước đức mà những người con trai hay con gái gia đình hiền thiện ấy vun bồi và tiếp nhận, thì ngay khi đó có những chúng sanh sẽ bối rối hoài nghi và đầu óc bị cuồng loạn.

Thế nên, này Subhūti! Pháp thoại này được giảng dạy bởi Như Laivô giá, là không thể nghĩ bàn và sự thừa hưởng kết quả được hướng tới của pháp thoại này cũng không thể nghĩ bàn.


17. Lúc bấy giờ, Trưởng lão Subhūti thưa đức Thế Tôn: Những ai đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát phải an trú như thế nào? Phải tu tập như thế nào? Và phải nhiếp hộ tâm như thế nào?

Đức Thế Tôn dạy:

Này Subhūti! Những ai đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, nên dựng lập tâm như vậy:

“Tất cả chúng sanh đều đã được ta dẫn dắt thể nghiệm Niết-bàn tuyệt đối. Dù đã dẫn dắt vô lượng chúng sanh thể nghiệm Niết bàn như thế, nhưng kỳ thực khôngchúng sanh nào đã được dẫn dắt thể nghiệm Niết bàn cả.”

Này Subhūti, tại sao? Vì nếu ấn tượng chúng sanh của Bồ-tát hoạt động, thì không thể được gọi là Bồ-tát. Cho đến ấn tượng sinh mệnhcon người còn hoạt động thì không thể được gọi là Bồ-tát.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì không có pháp nào được gọi là pháp khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát cả.

Này Subhūti! Ông nghĩ gì? Có pháp Vô thượng chánh đẳng giác mà nào Như Lai trực tiếp thể nghiệm từ thời của đức Dīpaṃkara Như Lai không?

Sau khi đức Thế Tôn hỏi, Trưởng lão Subhūti thưa:

Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu, đúng như ý nghĩa lời dạy của Thế Tôn, thì không có pháp “Vô thượng Chánh đẳng giác”, mà đức Như Lai đã thể nghiệm trực tiếp từ thời của đức Dīpaṃkara Như Lai, A-la-hán cả.

Trưởng lão trả lời xong, đức Thế Tôn dạy Trưởng lão Subhūti:

Này Subhūti, đúng như vậy! Quả đúng như vậy! Này Subhūti! Không có pháp Vô thượng Chánh đẳng giác nào được Như Lai thể nghiệm trực tiếp từ thời của đức Dīpaṃkara Như Lai, A-la-hán cả.

Lại nữa, này Subhūti! Vì nếu có pháp nào được thể nghiệm bởi Như Lai, thì bấy giờ đức Dīpaṃkara Như Lai đã không thọ ký cho ta:

“Này thanh niên! Trong tương lai, thời niên thiếu con sẽ thành bậc Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác, với danh hiệu Śākya-muni”.

Vì vậy, này Subhūti! Không có pháp “Vô thượng Chánh đẳng giác” nào được thể nghiệm bởi Như Lai cả, do đó mà ta đã được đức Dīpaṃkara Như Lai thọ ký:

“Này thanh niên! Trong tương lai, ngươi sẽ thành Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác, với danh hiệu Śākya-muni”.

nguyên nhân gì? Này Subhūti, Vì Như Lai là danh từ đồng nghĩa với chân như.

Này Subhūti! Như Lai là danh từ đồng nghĩa với pháp tính bất sinh.

Này Subhūti! Như Lai là danh từ đồng nghĩa với sự đoạn tận pháp.

Này Subhūti! Như Lai là là danh từ đồng nghĩa với tuyệt đối bất sinh.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì vô sinhmục đích tối thượng.

Này Subhhūti! Nếu có người nào nói, Như Lai, A-la-hán thể nghiệm Vô thượng Chánh đẳng giác là người ấy nói không đúng sự thực.

Này Subhūti! Do không hiểu đúng sự thực, nên người ấy nói lời hủy báng Như Lai. Này Subhūti, tại sao vậy? Vì không có pháp Vô thượng Chánh đẳng giác nào đuợc thể nghiệm bởi Như Lai cả.

Này Subhūti! Pháp giác ngộ được Như Lai giảng dạy, pháp ấy không phải chân thực, không phải hư vọng. Vì thế, Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật Pháp.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì tất cả pháp được dạy bởi Như Lai là không phải pháp, do đó nói: tất cả pháp đều là pháp Phật Phật.

Này Subhūti! Ví như người có thân bẩm sinh to lớn.

Trưởng lão Subhūti thưa: Bạch Thế Tôn! Người có thân bẩm sinh, thân to lớn được dạy bởi Như Lai. Bạch Thế Tôn! Thân người ấy không phải là thân được dạy bởi Như Lai, nên mới gọi thân người ấy là thân bẩm sinh, thân to lớn.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! Đúng như vậy, vị Bồ-tát nói: ta sẽ dẫn dắt chúng sanh thể nghiệm Niết bàn, thì vị ấy không phải là Bồ-tát.

Vì, Subhūti, có pháp nào gọi tên là Bồ-tát không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không có pháp nào gọi là Bồ-tát cả.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! Những chúng sanh được Như Lai gọi bằng danh từ chúng sanh, chính nó không phải là chúng sanh, nên mới gọi là chúng sanh.

Do đó, Như Lai nói, tất cả pháp không có tự ngã, tất cả pháp khôngsinh mệnh, không có chúng sanh, không có con người.

Này Subhūti! Vị Bồ-tát nào nói: ta làm trang nghiêm đất nước Phật, vị Bồ-tát ấy nói không đúng sự thực. Này Subhūti, tại sao vậy? Vì đất nước trang nghiêm được dạy bởi Như Lai với danh từ là đất nước trang nghiêm, nó không phải là trang nghiêm, nên mới gọi là đất nước trang nghiêm.

Này Subhūti! Vị Bồ-tát nào thông đạt các pháp vô ngã, thì họ được Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác gọi là Bồ-tát Đại sĩ.


18. Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như Lai có con mắt thường không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Như Lai có con mắt thường.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như Lai có con mắt siêu nhân không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Như Lai có con mắt siêu nhân.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như Lai có con mắt thẩm sát không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Như Lai có con mắt thẩm sát.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như Lai có con mắt Pháp không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ đúng như vậy, bạch Thế Tôn, Như Lai có con mắt Pháp.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhuti, Ông nghĩ gì, Như Lai có con mắt Phật không? Dạ đúng như vậy, bạch Thế Tôn, Như Lai có con mắt Phật.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì, cho đến số hạt cát của nhiều sông Gaṅgā rộng lớn, Như Lai có gọi chúng là hạt cát không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ đúng như vậy, bạch Thế Tôn. Dạ đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Như Lai gọi chúng là hạt cát.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì, cho đến có bao nhiêu hạt cát ở trong sông Gaṅgā rộng lớn, thì có bấy nhiêu sông Gaṅgā, và số thế giới nhiều như số hạt cát ở trong các sông Gaṅgā ấy, như vậy số thế giới có nhiều không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Có rất nhiều thế giới.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! Có bao nhiêu chủng loại chúng sanh trong những hệ thống thế giới như vậy, bằng trí tuệ ta biết rõ những xu hướng đa dạng của tâm họ.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì những xu hướng đa dạng của tâm được gọi bởi Như Lai với tên xu hướng đa dạng của tâm, chính nó không phải là xu hướng đa dạng của tâm, nên mới gọi là những xu hướng đa dạng của tâm.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì tâm quá khứ không thể nắm bắt được; tâm vị lai không thể nắm bắt được và tâm hiện tại không thể nắm bắt được.


19. Này Subhūti, Ông nghĩ gì, nếu có người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện nào, dùng bảy thứ báu chứa đầy cả một tỷ thế giới, để đem hiến cúng các đức Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác, vậy người con trai và người con gái gia đình hiền thiện ấy, thông qua nhân duyên đó thành tựu khối phước đức có nhiều không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ nhiều, bạch Thế Tôn! Dạ nhiều, bạch Thiện Thệ!

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, đúng như vậy, đúng như vậy! Người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện ấy, thông qua nhân duyên đó thành tựu khối phước đức vô lượng.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì khối phước đức được nói bởi Như Lai, chính cái ấy không phải là khối, nên mới gọi là khối phước đức.

Lại nữa, này Subhūti! Nếu khối phước đức có thực, thì Như Lai đã không nói khối phước đức, khối phước đức.


20. Này Subhūti, Ông nghĩ gì, đức Như Lai có thể được chiêm nghiệm bằng sự sở hữu các hình thái nơi thân ngài hay không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không thể chiêm nghiệm được đức Như Lai bằng các hình thái được sở hữu nơi thân ngài, tại sao vậy? Vì sự sở hữu các hình thái được dạy bởi Như Lai, bằng danh từ “các hình thái được sở hữu”, chính hình thái ấy không phải là “sở hữu”, nên mới gọi là “các hình thái được sở hữu”.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti, Ông nghĩ gì, đức Như Lai có thể được chiêm nghiệm bằng sự sở hữu các hình thái nơi thân ngài hay không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không thể chiêm nghiệm được đức Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái nơi thân ngài, tại sao vậy? Vì sự sở hữu các hình thái được dạy bởi Như Lai, thì chính các hình thái ấy Như Lai nói là không phải “sở hữu”, nên mới gọi là Vì sự sở hữu các hình thái được dạy bởi Như Lai, bằng danh từ “các hình thái được sở hữu”, chính hình thái ấy không phải là “sở hữu”, nên mới gọi là “các hình thái được sở hữu”.


21. Đức Thế Tôn dạy:   

Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như Lai có nghĩ rằng, Như Lai giảng dạy Giáo Pháp không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Bạch Thế Tôn! Như Lai không có nghĩ rằng: Như Lai giảng dạy Giáo Pháp.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! Nếu có người nào nói: Như Lai có giảng dạy Giáo Pháp là người ấy nói không đúng sự thực.

Này Subhūti! Vì không có sự minh triết, nên họ nói lời phỉ báng Như Lai. Này Subhūti, tại sao vậy? Vì sự giảng dạy giáo Pháp, không có pháp nào được thừa nhận bằng danh từ “giảng dạy Giáo Pháp” cả.

Sau khi đã nghe Thế Tôn dạy, Trưởng lão Subhūti thưa với ngài:

Bạch Thế Tôn, trong thời kỳ tương lai, trong thời đại sau cùng, trong kỷ nguyên cuối cùng, và trong năm trăm năm chót, vào thời điểm “Chánh Pháp” bị ẩn mất, mà khi nghe được pháp thoại như thế này, liệu họ có khả năng tin tưởng thâm thiết hay không?

Đức Thế Tôn dạy:

Này Subhūti! Họ không phải là chúng sanh mà cũng không phải là không chúng sanh.

Này Subhūti, Tại sao vậy? Vì tất cả chúng sanh được gọi bằng danh từ chúng sanh.

Này Subhūti! Họ được Như Lai gọi là không phải chúng sanh, cho nên họ mới được gọi là chúng sanh.


22. Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như laichứng nghiệm Vô thượng Chánh đẳng giác không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Không có pháp Vô thượng Chánh đẳng giác nào được Như Lai chứng nghiệm cả.

Đức Thế Tôn dạy:

Này Subhūti! Đúng như vậy, đúng như vậy. Ngay cả pháp nhỏ nhất cũng không thể liễu đạt, cũng không thể chứng đắc nơi pháp ấy, nên mới gọi là Chánh đẳng giác tối thượng.


23. Lại nữa, này Subhūti! Gọi là “Vô thượng Chánh đẳng giác” bởi vì Pháp ấy vốn bình đẳng, không có sự cao thấp nào nơi pháp ấy cả.

“Vô thượng Chánh đẳng giác”, pháp ấy bình đẳng với tất cả thiện pháp được chứng nghiệm do không có tự ngã, không có chúng sanh, không có sinh mệnh và không có con người.   

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì những thiện pháp được nói bởi Như Lai bằng tên gọi thiện pháp, chính nó không phải là thiện pháp được nói bởi Như Lai, nên mới gọi là thiện pháp.


 24. Lại nữa, này Subhūti! Nếu có người con trai hay con gái của gia đình hiền thiện nào, dùng bảy thứ châu báu chất cao như núi chúa Sumeru ở trong một tỷ thế giới, để đem hiến cúng các đức Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác; và lại có người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện nào thực hành bài chỉnh cú khoảng chừng bốn câu trong pháp thoại này, rồi trình bày cụ thểgiải thích chi tiết cho người khác, thì này Subhūti! Thông qua nhân duyên ấy, khối phước đức của nguời hiến cúng chư Phật bằng bảy thứ châu báu so với khối phước đức của nguời này, không bằng một phần trăm, cho đến toán số thí dụ đều không thể so sánh ước lượng được.


25. Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như Lai có nghĩ rằng, Như Lai đã dìu dắt chúng sanh không?

Lại nữa, này Subhūti! Đừng nên nghĩ như thế. Tại sao vậy? Này Subhūti! Vì không có chúng sanh nào được Như Lai dìu dắt cả.

Lại nữa, này Subhūti! Nếu có chúng sanh nào được dìu dắt bởi Như Lai thì Như Lai còn sự cố chấp tự ngã, còn cố chấp chúng sanh, còn có cố chấp sinh mệnhcố chấp con người.

Này Subhūti! Cố chấp tự ngã, điều ấy được giảng dạy bởi Như Lai là không cố chấp, mà những kẻ phàm phu lại cố chấp.   

Này Subhūti! Những kẻ phàm phu được nói bởi Như Lai, chính họ không phải là phàm phu, nên mới gọi là phàm phu.


26. Này Subhūti, Ông nghĩ gì, có thể nhìn thấy Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái hay không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Theo con hiểu, đúng như ý nghĩa lời dạy của đức Thế Tôn, thì không thể chiêm nghiệm Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái.

Đức Thế Tôn dạy:

Này Subhūti, tốt lắm, tốt lắm! Này Subhūti, điều ấy đúng như vậy, điều ấy đúng như lời ông nói! Không thể chiêm nghiệm Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì nếu chiêm nghiệm Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái, thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai. Vì vậy, không thể chiêm nghiệm Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái.

Trưởng lão Subhūti, thưa với đức Thế Tôn: Như vậy con hiểu, đúng ý nghĩa lời dạy của đức Thế Tôn, là không thể chiêm nghiệm Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái.

Ngay lúc đó, đức Thế Tôn nói bài chỉnh cú này:

ye māṃ rūpeṇa cādrākṣurye māṃ ghoṣeṇa cānvaguḥ |
mithyāprahāṇaprasṛtā nấ māṃ drakṣyanti tế janāḥ || 1 ||
dharmato buddho draṣṭavyo dharmakāyā hi nāyakāḥ |
dharmatā ca na vijñeyā na sā śakyā vijānitum || 2 || 

“a. Ai nhìn thấy ta
qua hình tướng,
Hoặc theo đuổi ta qua âm thanh,
Họ lạc vào các lộ trình sai lầm,
Những người ấy không thấy được ta.
b. Cần phải thấy chư Phật từ Pháp,
Tức pháp thân chính là đạo sư.
Pháp tính siêu việt sự nhận thức,
Cũng không phải đối tượng thông tri”.   

27. Này Subhūti, Ông nghĩ gì, Như Laichứng nghiệm Vô thượng Chánh đẳng giác bằng sự sở hữu các hình thái hay không?

Này Subhūti! Không nên nhìn nhận điều ấy như vậy.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì quả thực không có sự Vô thượng Chánh đẳng giác nào được chứng nghiệm bởi Như Lai bằng sự sở hữu các hình thái cả.

Lại nữa, này Subhūti! Chẳng có ai khởi lên ý nghĩ như vậy:

“Bất cứ ai khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì  khởi khái niệm giả định rằng, có sự hủy hoại hay diệt tận của một pháp nào đó”.

Này Subhūti! Người ấy không nên nhìn nhận như vậy. Tại sao? Vì đối với bất cứ ai khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, thì không khởi lên khái niệm giả định nào cho rằng: “có sự hủy hoại hay diệt tận của một pháp nào đó”.

28. Lại nữa, này Subhūti! Nếu có người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện nào, có thể dùng bảy thứ châu báu, nhiều như số cát ở trong sông Gaṅgā, rồi đem hiến cúng các đức Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác; và nếu có một vị Bồ-tát thể nghiệm sự nhẫn nhục ngay nơi các pháp, không có trạng thái tự ngã, không có trạng thái sinh khởi, thì thông qua nhân duyên ấy, vị đó thành tựu khối phước đức vượt trội hơn vô lượng so với vị kia.

Lại nữa, này Subhūti! Với Bồ-tát Đại sĩ không nên chấp giữ khối phước đức.   

Trưởng lão Subhūti thưa: Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ-tát không nên chấp giữ phước đức?

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! Nên chấp giữ là không nên chấp giữ, nên gọi là chấp giữ.

29. Này Subhūti! Lại nữa, có người nào nghĩ rằng, Như Lai có đến, có đi, có đứng, có ngồi, có nằm, thì người ấy không hiểu được ý nghĩa những gì Như Lai giảng dạy.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì “Như Lai” là để gọi cho “bậc không từ đâu đến và không đi về đâu”. Thế mới gọi là Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác.

30. Này Subhūti! Nếu có người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện nào, lấy hạt vi trần trong một tỷ thế giới, với sự nỗ lực nghiền nát và chia chẻ các vi trần của những thế giới ấy thành nhuyễn mịn, trong thực tế làm chúng nhỏ đến như khối kết cấu vô số các vi trần.

Này Subhūti, Ông nghĩ gì, khối kết cấu vô số các vi trần như vậy có nhiều không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ rất nhiều, bạch Thế Tôn! Dạ rất nhiều, bạch Thiện Thệ! Khối kết cấu vô số các vi trần như vậy quả thực rất nhiều.

Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì nếu khối kết cấu vô số các vi trần như vậy quả thực được nói là rất nhiều, thì Thế Tôn đã không gọi là khối kết cấu vô số các vi trần.

Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì khối kết cấu vô số các vi trần đó được nói bởi Như Lai, chính cái ấy không phải khối kết cấu vô số các vi trần được Như Lai nói, nên mới gọi là khối kết cấu vô số các vi trần.

Một tỷ thế giới được nói bởi Như Lai, chính cái ấy không phải là thế giới được Như Lai nói, nên mới gọi là một tỷ thế giới.

Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì nếu thế giới có thực, thì đó chỉ là “sự nắm bắt trên một đối tượng sự thể”, chính “sự nắm bắt trên một đối tượng sự thể” ấy được dạy bởi Như Lai, cái ấy vốn không phải là “sự nắm bắt trên một đối tượng sự thể” được Như Lai dạy, nên mới gọi là “sự nắm bắt trên một đối tượng sự thể”.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! “Sự nắm bắt trên một đối tượng sự thể” ấy, không thể diễn tả, không thể bàn luận. Nó không phải là pháp cũng không phải là phi pháp. Thế mà những kẻ phàm phu cố thủ vào “sự nắm bắt trên một đối tượng sự thể” ấy.

31. Này Subhūti, tại sao vậy? Vì nếu có người nào nói rằng, kiến chấp tự ngã được dạy bởi Như Lai, kiến chấp chúng sanh, kiến chấp sinh mệnh, kiến chấp con người cũng được dạy bởi Như Lai, thì này Subhūti người ấy nói có chính xác không?

Trưởng lão Subhūti thưa: Dạ không, bạch Thế Tôn! Dạ không, bạch Thiện Thệ! Người ấy nói không đúng sự thật.   

Bạch Thế Tôn, tại sao vậy? Vì kiến chấp tự ngã được Như Lai dạy, chính cái ấy là phi kiến chấp được dạy bởi Như Lai, vì vậy mới gọi là kiến chấp tự ngã.

Đức Thế Tôn dạy: Này Subhūti! Thật đúng như thế. Tất cả pháp đối với người đã khởi hành trên cỗ xe Bồ-tát, nên biết, nên thấy, nên tin và nên hiểu. Nên biết đúng như vậy, nên thấy đúng như vậy, nên tin và hiểu đúng như vậy, không nên thiết lập trên ấn tượng về pháp hay ấn tượng về phi pháp.

Này Subhūti, tại sao vậy? Vì ấn tượng pháp được dạy bởi Như Lai với tên gọi ấn tượng pháp, chính cái ấy không phải ấn tượng, cho nên mới gọi là ấn tượng pháp.

32. Lại nữa, này Subhūti! Nếu có vị Bồ-tát Đại sĩ nào, có thể dùng bảy thứ châu báu chứa đầy vô lượng, vô số thế giới, rồi đem hiến cúng các đức Như Lai, A-la-hán, Bậc Chánh đẳng giác, và nếu có người con trai hay người con gái gia đình hiền thiện nào, thực hành, nghiên cứu, đọc tụng, thông đạt khoảng chừng bài chỉnh cú bốn câu trong pháp thoại “Trí tuệ siêu việt toàn hảo” này, rồi đem giải thích cụ thể cho người khác, thông qua nhân duyên này, người ấy thành tựu khối phước đức vượt trội hơn vô số, vô lượng so với người hiến cúng bảy báu kia.

Và vị ấy nên khai diễn như thế nào? Chính là, không khai diễn. Do đó, nói là “khai diễn”:


tārakā timiraṃ dīpo māyāvaśyāya budbudam |
svapnaṃ ca vidyudabhraṃ ca evaṃ draṣṭavya saṃskṛtam ||

Như tinh tú bạch nội chướng,
như đèn nến – huyễn thuật,
như sương mai - bọt nước,
như giấc mộng - sét chớp,
và như một vầng mây.  
Nên quán chiếu pháp hữu vi như vậy.

Thuyết giảng đúng với chân như, nên gọi là thuyết giảng.

Sau khi đức Thế Tôn đã thuyết giảng như vậy, Trưởng lão Subhūti, các vị Bí-sô, Bí-sô ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, những vị Bồ-tát, cùng thế giới: Chư thiên, Nhân loại, A-tu-la, Càn-thát-bà,… đều phấn khởi hoan hỷ, vâng lãnh thánh giáo của Thế Tôn.

                                                  KẾT THÚC KINH NĂNG ĐOẠN KIM CƯƠNG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT

**********

Phụ lục:
Kinh Tinh hoa Trí tuệ siêu việt toàn hảo
(Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật,
Phước Nguyên dịch từ Phạn bản)

1. Bồ-tát Ārya-Avalokitésvara trong khi thể hiện sự nghiệpTrí tuệ siêu việt toàn hảo sâu thẳm”, vị ấy đã chiêm nghiệm: Đây là năm uẩn; và vị ấy thấy chúng là KHÔNG trong tự tính.

2. Này Śāriputra! SẮC ở đây là TÍNH KHÔNG, TÍNH KHÔNG là SẮC; SẮC không khác TÍNH KHÔNG, TÍNH KHÔNG không khác SẮC; SẮC chính là TÍNH KHÔNG, TÍNH KHÔNG chính là SẮC. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy.”

3. Này Śāriputra! Tất cả pháp ở đây, có đặc điểmTÍNH KHÔNG: “Chúng không sinh khởi, không tiêu diệt; không cấu nhiễm, không phải không cấu nhiễm;  không tăng trưởng, không tổn giảm”. 

Vì vậy, này Śāriputra, trong TÍNH KHÔNG: “Không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến: không có ý thức giới; không có minh, không có vô minh, không có sự diệt tận của minh, không có sự diệt tận của vô minh, cho đến: không có tuổi già và sự chết, không có sự diệt tận của tuổi già và sự chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, không có đắc; và không có hiện chứng, bởi vì không có thủ đắc.

4. Do y chỉ trên “Trí tuệ siêu việt toàn hảo” của Bồ-tát, mà vị ấy an trú với tâm không bị bưng kín, vì không có những sự bưng kín trong tâm mình, nên Ngài không có sợ hãi, và mộng tưởng điên đảo đã viễn ly, Niết-bàn đã được cứu cánh.

Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tạivị lai, do y chỉ trên “Trí tuệ siêu việt toàn hảo” mà chứng nghiệm: “Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề”.

5. Vì vậy, nên biết “Trí tuệ siêu việt toàn hảo”: Là thần chú vĩ đại, là thần chú của minh huệ vĩ đại, là thần chú tuyệt đỉnh, là thần chú vô giá, có thể trừ diệt toàn bộ khổ đau; đó là chân thật vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong kinh Bát-nhã ba-la-mật, điều ấy như vầy:

gate, gate, pāragate, pārasaṅgate, bodhi, svāhā!
(Đi qua, đi qua, qua đến bờ bên kia, qua đến bờ kia hoàn toàn, thì có giác ngộ, ngài khéo nói).
_______________________________________

*THAM KHẢO CÁC BẢN PHẠN KINH KIM CANG:
- Để bản: Vajracchedika Prajnaparamita, Based on the ed. by P.L. Vaidya in: Mahayana-sutra-samgrahah, Part 1.
Darbhanga: The Mithila Institute 1961 (Buddhist Sanskrit Texts, 17).
- Prajñāpāramitā-sūtra Vajracchedikā, ed. F. Max Müller, 1881.
- Prajñāpāramitā-sūtra Vajracchedikā, ed. F. E. Pargiter, 1916.
- Vajracchedika Prajnaparamita, Based on the edition by Paul Harrison and Shogo Watanabe in: Buddhist Manuscripts, vol. 3,
ed. by Jens Braarvig, Oslo 2006 (Manuscripts in the Schøyen Collection), pp. 89-132.
- Vajracchedika Prajnaparamita, Based on G. Schopen, "The Manuscript of the Vajracchedikā Found at Gilgit", in: Studies in the Literature of the Great Vehicle, Three Mahāyāna Buddhist Texts,
ed. L.O. Gomez and J.A. Silk, Ann Arbor 1989, pp. 89-141.
- Prajñāpāramitā-sūtra Vajracchedikā, ed. Paul Harrison and Shōgo Watanabe, 2006

PHƯỚC NGUYÊN DỊCH VÀ CHÚ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11963)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11115)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11349)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12067)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17985)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9950)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15343)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14327)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12097)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10617)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14842)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12687)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16579)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19667)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13111)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12671)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12266)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11852)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10904)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13526)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11953)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14518)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12896)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12176)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11483)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12497)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant