Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Kalama: Lời Phật Dạy Cho Người Kalama

12 Tháng Sáu 201907:45(Xem: 12791)
Kinh Kalama: Lời Phật Dạy Cho Người Kalama

KINH KALAMA: LỜI PHẬT DẠY CHO NGƯỜI KALAMA 
KALAMA SUTTA: The Instruction To The Kalamas 

Translated from the Pali by Soma Thera - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến 
Source-Nguồn: accesstoinsight.org

Kinh Kalama

 

NGƯỜI KALAMA Ở KESAPUTTA ĐẾN NGHE ĐỨC PHẬT GIẢNG DẠY

1. Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama, có tên là Kesaputta. Người (bộ lạc) Kamala là các cư dân của Kesaputta: "Đức Thế Tôn Gotama (Cồ Đàm), là một vị tu sĩ, là con trai của dòng họ Sakyans (Thích Ca), trong chuyến đi hoằng pháp ở nước Kosala, ngài đã đến tỉnh nhỏ Kesaputta. Sự nổi tiếng của Đức Thế Tôn đã được lan rộng ra bằng cách sau đây: Đức Thế Tôn quả thật là một bậc toàn thiện, ngài là bậc hoàn toàn giác ngộ, ngài có đầy đủ kiến thức và sự thực hành, ngài tuyệt luân, ngài thấu hiểu về các thế giới, không ai so sánh với ngài được, ngài chuyển hóa con người hướng thiện, ngài là bậc thầy của trời và người, tự ngài có sự hiểu biết rõ ràng qua các trải nghiệm trực tiếp. Đức Thế Tôn đặt ra Giáo Pháp, tốt đẹp ở đoạn đầu, tốt đẹp ở đoạn giữa, và tốt đẹp ở đoạn cuối, Giáo Pháp nầy có ngôn từthông điệp đầy ý nghĩa, và tất cả đều hoàn hảo; (qua đời sống của ngài,) ngài chứng minh cuộc sống của người xuất gia thì hoàn toàn trong sạch, và cao quý. Chúng ta gặp được những bậc toàn thiện như vậy, quả thật là một điều tốt đẹp

2. Người Kamala là các cư dân ở Kesaputta, sau đó họ đã đi đến nơi cư trú của Đức Thế Tôn. Khi đến nơi, một số người tỏ lòng tôn kính (đảnh lễ) ngài, rồi ngồi qua một bên; một số người trao đổi lời thăm hỏi ngài, và sau khi kết thúc cuộc nói chuyện thân thiện đáng nhớ, họ ngồi qua một bên; một số người chắp tay đảnh lễ ngài, rồi họ ngồi qua một bên; một số người cho ngài biết tên và gia đình của họ, rồi họ ngồi qua một bên; một số người không nói gì cả, rồi họ ngồi qua một bên.

NGƯỜI KALAMA Ở KESAPUTTA XIN ĐỨC PHẬT GIẢNG DẠY

3. Người Kamala là các cư dân ở Kesaputta, ngồi một bên thưa với Đức Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, có một số nhà sưBà La Môn, đến thăm Kesaputta. Họ chỉ giới thiệu, trình bày, và giải thích những giáo lý của họ; còn những giáo lý của người khác thì bị họ khinh thường, chửi rủa, và chỉ trích thậm tệ. Bạch Thế Tôn, cũng có một số nhà sưBà La Môn khác, họ đến thăm Kesaputta. Họ cũng chỉ giới thiệu, trình bày, và giải thích những giáo lý của họ; còn những giáo lý của người khác thì bị họ khinh thường, chửi rủa, và chỉ trích thậm tệ. Bạch Thế Tôn, chúng con có sự nghi ngờ, có sự không chắc chắn liên quan đến những vị nầy. Các nhà sưBà La Môn nầy, ai nói thật và ai nói dối đây?"

TIÊU CHUẨN ĐỂ BÁC BỎ (ĐỂ KHÔNG XỬ DỤNG)        

4. "Nầy các người Kalama, đấy là chuyện đúng đắn khi quý vị có sự nghi ngờ, có sự không chắc chắn; sự không chắc chắn đã nẩy sinh khi tâm quý vị cảm nhận có điều gì đáng nghi ngờ. Hãy đến đây, nầy các người Kalama. Đừng chấp nhận dựa trên những điều sau đây: những gì mình đã được nghe đi nghe lại nhiều lần; hoặc dựa trên truyền thống; hoặc dựa trên tin đồn; hoặc dựa trên kinh sách; hoặc dựa trên sự phỏng đoán; hoặc dựa trên một sự thật đã được chấp nhận; hoặc dựa trên sự xét đoán bề ngoài; hoặc dựa trên một thành kiến (​​về một ý tưởng đã được suy ngẫm); hoặc dựa trên một người xem là có khả năng; hoặc dựa trên 'một nhà sư là thầy của mình'. Nầy các người Kalama, khi chính quý vị hiểu biết điều sau đây: 'Những điều nầy là xấu; những điều nầy thì bị chê trách; những điều nầy bị lên án bởi người khôn ngoan; qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy dẫn đến sự đau khổbệnh hoạn,' thì quý vị nên bác bỏ chúng.

THAM LAM, SÂN HẬNSI MÊ (THAM SÂN SI)

5. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Khi người nào có lòng tham lam, thì điều nầy có lợi hay là có hại cho họ?" - "Bạch Thế Tôn, có hại." - "Nầy các người Kalama, khi người nào có lòng tham lam, tâm họ bị lòng tham lam tràn ngập, tâm họ bị lòng tham lam đánh bại, người nầy sẽ đi giết người, đi trộm cắp, phạm tội tà dâm, và nói dối; người nầy cũng xúi giục người khác làm giống như họ. Các điều nầy sẽ làm cho họ đau khổbệnh hoạn lâu dài, có đúng không? - "Bạch Thế Tôn, dạ đúng."

6. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Khi người nào có lòng sân hận, thì điều nầy có lợi hay là có hại cho họ?" - "Bạch Thế Tôn, có hại." - "Nầy các người Kalama, khi người nào có lòng sân hận, tâm họ bị lòng sân hận tràn ngập, tâm họ bị lòng sân hận đánh bại, người nầy sẽ đi giết người, đi trộm cắp, phạm tội tà dâm, và nói dối; người nầy cũng xúi giục người khác làm giống như họ. Các điều nầy sẽ làm cho họ đau khổbệnh hoạn lâu dài, có đúng không? - "Bạch Thế Tôn, dạ đúng."

7. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Khi người nào có lòng si mê, thì điều nầy có lợi hay là có hại cho họ?" - "Bạch Thế Tôn, có hại." - "Nầy các người Kalama, khi người nào có lòng si mê, tâm họ bị lòng si mê tràn ngập, tâm họ bị lòng si mê đánh bại, người nầy sẽ đi giết người, đi trộm cắp, phạm tội tà dâm, và nói dối; người nầy cũng xúi giục người khác làm giống như họ. Các điều nầy sẽ làm cho họ đau khổbệnh hoạn lâu dài, có đúng không? - "Bạch Thế Tôn, dạ đúng."

8. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Những điều (nói trên) nầy tốt hay xấu?" - "Bạch Thế Tôn, dạ xấu." - "Bị chê trách hay không bị chê trách?" - "Bạch Thế Tôn, bị chê trách." - "Bị lên án hay được khen ngợi bởi người khôn ngoan?" - "Bạch Thế Tôn, bị lên án." - "Qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy có dẫn đến đau khổbệnh hoạn không? Hoặc là những điều nầy đốt cháy tâm quý vị như thế nào?" - "Qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy dẫn đến đau khổbệnh hoạn. Do đó, những điều nầy đốt cháy tâm chúng con tại đây."

9. "Nầy các người Kalama, vì thế, chúng ta đã nói, những gì chúng ta đã nói trước đây, 'Hãy đến đây, nầy các người Kalama. Đừng chấp nhận dựa trên những điều sau đây: những gì mình đã được nghe đi nghe lại nhiều lần; hoặc dựa trên truyền thống; hoặc dựa trên tin đồn; hoặc dựa trên kinh sách; hoặc dựa trên sự phỏng đoán; hoặc dựa trên một sự thật đã được chấp nhận; hoặc dựa trên sự xét đoán bề ngoài; hoặc dựa trên một thành kiến (​​về một ý tưởng đã được suy ngẫm); hoặc dựa trên một người xem là có khả năng; hoặc dựa trên 'một nhà sư là thầy của mình'. Nầy các người Kalama, khi chính quý vị hiểu biết điều sau đây: "Những điều nầy là xấu; những điều nầy thì bị chê trách; những điều nầy bị lên án bởi người khôn ngoan; qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy dẫn đến sự đau khổbệnh hoạn," thì quý vị nên bác bỏ chúng.'

TIÊU CHUẨN ĐỂ CHẤP NHẬN (ĐỂ XỬ DỤNG)

10. "Hãy đến đây, nầy các người Kalama. Đừng chấp nhận dựa trên những điều sau đây: những gì mình đã được nghe đi nghe lại nhiều lần; hoặc dựa trên truyền thống; hoặc dựa trên tin đồn; hoặc dựa trên kinh sách; hoặc dựa trên sự phỏng đoán; hoặc dựa trên một sự thật đã được chấp nhận; hoặc dựa trên sự xét đoán bề ngoài; hoặc dựa trên một thành kiến (​​về một ý tưởng đã được suy ngẫm); hoặc dựa trên một người xem là có khả năng; hoặc dựa trên 'một nhà sư là thầy của mình'. Nầy các người Kalama, khi chính quý vị hiểu biết điều sau đây: 'Những điều nầy là tốt; những điều nầy thì không bị chê trách; những điều nầy được khen ngợi bởi người khôn ngoan; qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy dẫn đến sự hạnh phúclợi lạc,' thì quý vị nên làm và chấp nhận chúng.

KHÔNG THAM LAM, KHÔNG SÂN HẬN VÀ KHÔNG SI MÊ (KHÔNG THAM SÂN SI)

11. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Khi người nào không có lòng tham lam, thì điều nầy có lợi hay là có hại cho họ?" - "Bạch Thế Tôn, có lợi." - "Nầy các người Kalama, khi người nào không có lòng tham lam, tâm họ không bị lòng tham lam tràn ngập, tâm họ không bị lòng tham lam đánh bại, người nầy sẽ không đi giết người, không đi trộm cắp, không phạm tội tà dâm, và không nói dối; người nầy cũng khuyên bảo người khác làm giống như họ. Các điều nầy sẽ làm cho họ hạnh phúclợi lạc lâu dài, có đúng không? - "Bạch Thế Tôn, dạ đúng."

12. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Khi người nào không có lòng sân hận, thì điều nầy có lợi hay là có hại cho họ?" - "Bạch Thế Tôn, có lợi." - "Nầy các người Kalama, khi người nào không có lòng sân hận, tâm họ không bị lòng sân hận tràn ngập, tâm họ không bị lòng sân hận đánh bại, người nầy sẽ không đi giết người, không đi trộm cắp, không phạm tội tà dâm, và không nói dối; người nầy cũng khuyên bảo người khác làm giống như họ. Các điều nầy sẽ làm cho họ hạnh phúclợi lạc lâu dài, có đúng không? - "Bạch Thế Tôn, dạ đúng."

13. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Khi người nào không có lòng si mê, thì điều nầy có lợi hay là có hại cho họ?" - "Bạch Thế Tôn, có lợi." - "Nầy các người Kalama, khi người nào không có lòng si mê, tâm họ không bị lòng si mê tràn ngập, tâm họ không bị lòng si mê đánh bại, người nầy sẽ không đi giết người, không đi trộm cắp, không phạm tội tà dâm, và không nói dối; người nầy cũng khuyên bảo người khác làm giống như họ. Các điều nầy sẽ làm cho họ hạnh phúclợi lạc lâu dài, có đúng không? - "Bạch Thế Tôn, dạ đúng."

14. "Nầy các người Kalama, quý vị nghĩ gì? Những điều (nói trên) nầy tốt hay xấu?" - "Bạch Thế Tôn, dạ tốt." - "Bị chê trách hay không bị chê trách?" - "Bạch Thế Tôn, không bị chê trách." - "Bị lên án hay được khen ngợi bởi người khôn ngoan?" - "Bạch Thế Tôn, được khen ngợi." - "Qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy có dẫn đến hạnh phúclợi lạc không? Hoặc là những điều nầy tưới mát tâm quý vị như thế nào?" - "Qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy dẫn đến hạnh phúclợi lạc. Do đó, những điều nầy tưới mát tâm chúng con tại đây."

15. "Nầy các người Kalama, vì thế, chúng ta đã nói, những gì chúng ta đã nói trước đây, 'Hãy đến đây, nầy các người Kalama. Đừng chấp nhận dựa trên những điều sau đây: những gì mình đã được nghe đi nghe lại nhiều lần; hoặc dựa trên truyền thống; hoặc dựa trên tin đồn; hoặc dựa trên kinh sách; hoặc dựa trên sự phỏng đoán; hoặc dựa trên một sự thật đã được chấp nhận; hoặc dựa trên sự xét đoán bề ngoài; hoặc dựa trên một thành kiến (​​về một ý tưởng đã được suy ngẫm); hoặc dựa trên một người xem là có khả năng; hoặc dựa trên 'một nhà sư là thầy của mình'. Nầy các người Kalama, khi chính quý vị hiểu biết điều sau đây: "Những điều nầy là tốt; những điều nầy thì không bị chê trách; những điều nầy được khen ngợi bởi người khôn ngoan; qua sự thực hiệnquan sát, những điều nầy dẫn đến hạnh phúclợi lạc," thì quý vị nên làm và chấp nhận chúng.'

BỐN CÁCH SỐNG HẠNH PHÚC (SỐNG THEO BỐN CÁCH: TỪ BI HỶ XẢ)

16. "Nầy các người Kalama, đệ tử của những Bậc Cao Quý sống như sau: người nầy không có sự tham lam, không có sự sân hận, không có sự si mê, họ có sự hiểu biết rõ ràng và có sự tỉnh thức, lòng nhân từ, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, ở phương thứ nhất (trong 4 phương); cũng như thế ở phương thứ hai; cũng như thế ở phương thứ ba; cũng như thế ở phương thứ tư; cũng như thế ở (phương) phía trên, (phương) phía dưới, và (phương) bề ngang; (bởi vì kiếp người trong đó có mọi sinh vật, ở khắp mọi nơi, và sống trên toàn thế giới), lòng nhân từ, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, cùng với lòng hân hoan, rộng lớn, không có giới hạn, không có sự thù hận hay ác ý.

"Lòng trắc ẩn và sự cảm thông, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, ở phương thứ nhất; cũng như thế ở phương thứ hai; cũng như thế ở phương thứ ba; cũng như thế ở phương thứ tư; cũng như thế ở phía trên, phía dưới, và bề ngang; (bởi vì kiếp người trong đó có mọi sinh vật, ở khắp mọi nơi, và sống trên toàn thế giới), lòng trắc ẩn và sự cảm thông, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, cùng với lòng hân hoan, rộng lớn, không có giới hạn, không có sự thù hận hay ác ý.

"Lòng hoan hỷ, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, ở phương thứ nhất; cũng như thế ở phương thứ hai; cũng như thế ở phương thứ ba; cũng như thế ở phương thứ tư; cũng như thế ở phía trên, phía dưới, và bề ngang; (bởi vì kiếp người trong đó có mọi sinh vật, ở khắp mọi nơi, và sống trên toàn thế giới), lòng hoan hỷ, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, cùng với lòng hân hoan, rộng lớn, không có giới hạn, không có sự thù hận hay ác ý.

"Lòng thanh thản và sự bình yên, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, ở phương thứ nhất; cũng như thế ở phương thứ hai; cũng như thế ở phương thứ ba; cũng như thế ở phương thứ tư; cũng như thế ở phía trên, phía dưới, và bề ngang; (bởi vì kiếp người trong đó có mọi sinh vật, ở khắp mọi nơi, và sống trên toàn thế giới), lòng thanh thản và sự bình yên, trong tâm người nầy đang lan rộng khắp nơi, cùng với lòng hân hoan, rộng lớn, không có giới hạn, không có sự thù hận hay ác ý.

BỐN NIỀM VUI (NHỜ CÓ NIỀM AN ỦI, VÀ CÓ SỰ HỖ TRỢ)

17. "Nầy các người Kalama, đệ tử của những Bậc Cao Quý sống với tâm không có sự tham lam, tâm họ không có sự sân hận, tâm họ không có sự nhơ nhuốc, và tâm họ trong sạch, họ là người tìm thấy bốn niềm vui, ở đây và bây giờ.

"'Giả sử vào kiếp sau, khi nhân trổ quả, người nầy phải gánh chịu kết quả của những việc làm thiện hoặc ác. Sau khi chết, khi thân thể họ bắt đầu tan rã, người nầy sẽ sinh lên cõi trời, nghĩa là họ sống trong một trạng thái an lạc.' Đây là niềm vui thứ nhất mà họ tìm thấy.

"'Giả sử không có kiếp sau, khi nhân không trổ quả, khi không có kết quả của những việc làm thiện hoặc ác. Tuy nhiên, trong kiếp nầy, ở đây và bây giờ, người nầy sống không có hận thù, sống không có ác ý, người nầy giữ cho mình được an toàn, khỏe mạnh, và hạnh phúc.' Đây là niềm vui thứ nhì mà họ tìm thấy.

"'Giả sử kết quả của việc ác xảy ra cho người làm ác. Tuy nhiên, người nầy đã không làm ác với ai cả. Vì thế, kết quả của việc ác không thể ảnh hưởng đến người nầy được, khi họ không có hành động xấu xa:' Đây là niềm vui thứ ba mà họ tìm thấy.

"'Giả sử kết quả của việc ác không xảy ra cho người làm ác. Người nầy nhận biết họ trong sạch trong bất cứ trường hợp nào.' Đây là niềm vui thứ tư mà họ tìm thấy.

"Nầy các người Kalama, đệ tử của những Bậc Cao Quý sống với tâm không có sự tham lam, tâm họ không có sự sân hận, tâm họ không có sự nhơ nhuốc, và tâm họ trong sạch, họ là người tìm thấy bốn niềm vui, ở đây và bây giờ.

(NGƯỜI KALAMA TRẢ LỜI ĐỨC PHẬT QUA NHỮNG ĐOẠN VĂN DƯỚI ĐÂY)

"Câu chuyện là như thế, Bạch Thế Tôn. Câu chuyện là như thế, Bậc Tuyệt Luân. Bạch Thế Tôn, đệ tử của những Bậc Cao Quý sống với tâm không có sự tham lam, tâm họ không có sự sân hận, tâm họ không có sự nhơ nhuốc, và tâm họ trong sạch, họ là người tìm thấy bốn niềm vui, ở đây và bây giờ.

"'Giả sử vào kiếp sau, khi nhân trổ quả, người nầy phải gánh chịu kết quả của những việc làm thiện hoặc ác. Sau khi chết, khi thân thể họ bắt đầu tan rã, người nầy sẽ sinh lên cõi trời, nghĩa là họ sống trong một trạng thái an lạc.' Đây là niềm vui thứ nhất mà họ tìm thấy.

"'Giả sử không có kiếp sau, khi nhân không trổ quả, khi không có kết quả của những việc làm thiện hoặc ác. Tuy nhiên, trong kiếp nầy, ở đây và bây giờ, người nầy sống không có hận thù, sống không có ác ý, người nầy giữ cho mình được an toàn, khỏe mạnh, và hạnh phúc.' Đây là niềm vui thứ nhì mà họ tìm thấy.

"'Giả sử kết quả của việc ác xảy ra cho người làm ác. Tuy nhiên, người nầy đã không làm ác với ai cả. Vì thế, kết quả của việc ác không thể ảnh hưởng đến người nầy được, khi họ không có hành động xấu xa:' Đây là niềm vui thứ ba mà họ tìm thấy.

"'Giả sử kết quả của việc ác không xảy ra cho người làm ác. Người nầy nhận biết họ trong sạch trong bất cứ trường hợp nào.' Đây là niềm vui thứ tư mà họ tìm thấy.

"Bạch Thế Tôn, đệ tử của những Bậc Cao Quý sống với tâm không có sự tham lam, tâm họ không có sự sân hận, tâm họ không có sự nhơ nhuốc, và tâm họ trong sạch, họ là người tìm thấy bốn niềm vui, ở đây và bây giờ.

"Bạch Thế Tôn, kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn, kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn, như thể một người lật những gì bị nằm úp nay được quay mặt lên, hoặc như thể những gì bị che dấu nay được mở ra, hoặc như thể một người đang đi lạc được chỉ đường, hoặc như thể người đi trong đêm tối nay có ngọn đèn, họ có sự suy nghĩ là, 'Những người nào có mắt (nhờ có ngọn đèn), sẽ nhìn thấy những vật gì có thể trông thấy được', cũng như Giáo Pháp đã được giải thích rõ ràngchi tiết qua nhiều cách khác nhau (để dẫn dắt mọi người) bởi Đức Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, chúng con xin quy y Đức Thế Tôn, quy y Pháp, và quy y Tăng Đoàn. Bạch Thế Tôn, xin ngài xem chúng con như là những Phật Tử quy y suốt đời, kể từ ngày hôm nay."

 

Kalama Sutta: The Instruction to the Kalamas 
Translated from the Pali by Soma Thera 
Source-Nguồn: accesstoinsight.org

THE KALAMAS OF KESAPUTTA GO TO SEE THE BUDDHA

 

1. I heard thus. Once the Blessed One, while wandering in the Kosala country with a large community of bhikkhus, entered a town of the Kalama people called Kesaputta. The Kalamas who were inhabitants of Kesaputta: "Reverend Gotama, the monk, the son of the Sakyans, has, while wandering in the Kosala country, entered Kesaputta. The good repute of the Reverend Gotama has been spread in this way: Indeed, the Blessed One is thus consummate, fully enlightened, endowed with knowledge and practice, sublime, knower of the worlds, peerless, guide of tamable men, teacher of divine and human beings, which he by himself has through direct knowledge understood clearly. He set forth the Dhamma, good in the beginning, good in the middle, good in the end, possessed of meaning and the letter, and complete in everything; and he proclaims the holy life that is perfectly pure. Seeing such consummate ones is good indeed."

 

2. Then the Kalamas who were inhabitants of Kesaputta went to where the Blessed One was. On arriving there some paid homage to him and sat down on one side; some exchanged greetings with him and after the ending of cordial memorable talk, sat down on one side; some saluted him raising their joined palms and sat down on one side; some announced their name and family and sat down on one side; some without speaking, sat down on one side.

 

THE KALAMAS OF KESAPUTTA ASK FOR GUIDANCE FROM THE BUDDHA

 

3. The Kalamas who were inhabitants of Kesaputta sitting on one side said to the Blessed One: "There are some monks and brahmans, venerable sir, who visit Kesaputta. They expound and explain only their own doctrines; the doctrines of others they despise, revile, and pull to pieces. Some other monks and brahmans too, venerable sir, come to Kesaputta. They also expound and explain only their own doctrines; the doctrines of others they despise, revile, and pull to pieces. Venerable sir, there is doubt, there is uncertainty in us concerning them. Which of these reverend monks and brahmans spoke the truth and which falsehood?"

 

THE CRITERION FOR REJECTION

 

4. "It is proper for you, Kalamas, to doubt, to be uncertain; uncertainty has arisen in you about what is doubtful. Come, Kalamas. Do not go upon what has been acquired by repeated hearing; nor upon tradition; nor upon rumor; nor upon what is in a scripture; nor upon surmise; nor upon an axiom; nor upon specious reasoning; nor upon a bias toward a notion that has been pondered over; nor upon another's seeming ability; nor upon the consideration, 'The monk is our teacher.' Kalamas, when you yourselves know: 'These things are bad; these things are blamable; these things are censured by the wise; undertaken and observed, these things lead to harm and ill,' abandon them.

 

GREED, HATE, AND DELUSION

 

5. "What do you think, Kalamas? Does greed appear in a man for his benefit or harm?" — "For his harm, venerable sir." — "Kalamas, being given to greed, and being overwhelmed and vanquished mentally by greed, this man takes life, steals, commits adultery, and tells lies; he prompts another too, to do likewise. Will that be long for his harm and ill?" — "Yes, venerable sir."

 

6. "What do you think, Kalamas? Does hate appear in a man for his benefit or harm?" — "For his harm, venerable sir." — "Kalamas, being given to hate, and being overwhelmed and vanquished mentally by hate, this man takes life, steals, commits adultery, and tells lies; he prompts another too, to do likewise. Will that be long for his harm and ill?" — "Yes, venerable sir."

 

7. "What do you think, Kalamas? Does delusion appear in a man for his benefit or harm?" — "For his harm, venerable sir." — "Kalamas, being given to delusion, and being overwhelmed and vanquished mentally by delusion, this man takes life, steals, commits adultery, and tells lies; he prompts another too, to do likewise. Will that be long for his harm and ill?" — "Yes, venerable sir."

 

8. "What do you think, Kalamas? Are these things good or bad?" — "Bad, venerable sir" — "Blamable or not blamable?" — "Blamable, venerable sir." — "Censured or praised by the wise?" — "Censured, venerable sir." — "Undertaken and observed, do these things lead to harm and ill, or not? Or how does it strike you?" — "Undertaken and observed, these things lead to harm and ill. Thus it strikes us here."

 

9. "Therefore, did we say, Kalamas, what was said thus, 'Come Kalamas. Do not go upon what has been acquired by repeated hearing; nor upon tradition; nor upon rumor; nor upon what is in a scripture; nor upon surmise; nor upon an axiom; nor upon specious reasoning; nor upon a bias toward a notion that has been pondered over; nor upon another's seeming ability; nor upon the consideration, "The monk is our teacher." Kalamas, when you yourselves know: "These things are bad; these things are blamable; these things are censured by the wise; undertaken and observed, these things lead to harm and ill," abandon them.'

 

THE CRITERION FOR ACCEPTANCE

 

10. "Come, Kalamas. Do not go upon what has been acquired by repeated hearing; nor upon tradition; nor upon rumor; nor upon what is in a scripture; nor upon surmise; nor upon an axiom; nor upon specious reasoning; nor upon a bias toward a notion that has been pondered over; nor upon another's seeming ability; nor upon the consideration, 'The monk is our teacher.' Kalamas, when you yourselves know: 'These things are good; these things are not blamable; these things are praised by the wise; undertaken and observed, these things lead to benefit and happiness,' enter on and abide in them.

 

ABSENCE OF GREED, HATE, AND DELUSION

 

11. "What do you think, Kalamas? Does absence of greed appear in a man for his benefit or harm?" — "For his benefit, venerable sir." — "Kalamas, being not given to greed, and being not overwhelmed and not vanquished mentally by greed, this man does not take life, does not steal, does not commit adultery, and does not tell lies; he prompts another too, to do likewise. Will that be long for his benefit and happiness?" — "Yes, venerable sir."

 

12. "What do you think, Kalamas? Does absence of hate appear in a man for his benefit or harm?" — "For his benefit, venerable sir." — "Kalamas, being not given to hate, and being not overwhelmed and not vanquished mentally by hate, this man does not take life, does not steal, does not commit adultery, and does not tell lies; he prompts another too, to do likewise. Will that be long for his benefit and happiness?" — "Yes, venerable sir."

 

13. "What do you think, Kalamas? Does absence of delusion appear in a man for his benefit or harm?" — "For his benefit, venerable sir." — "Kalamas, being not given to delusion, and being not overwhelmed and not vanquished mentally by delusion, this man does not take life, does not steal, does not commit adultery, and does not tell lies; he prompts another too, to do likewise. Will that be long for his benefit and happiness?" — "Yes, venerable sir."

 

14. "What do you think, Kalamas? Are these things good or bad?" — "Good, venerable sir." — "Blamable or not blamable?" — "Not blamable, venerable sir." — "Censured or praised by the wise?" — "Praised, venerable sir." — "Undertaken and observed, do these things lead to benefit and happiness, or not? Or how does it strike you?" — "Undertaken and observed, these things lead to benefit and happiness. Thus it strikes us here."

 

15. "Therefore, did we say, Kalamas, what was said thus, 'Come Kalamas. Do not go upon what has been acquired by repeated hearing; nor upon tradition; nor upon rumor; nor upon what is in a scripture; nor upon surmise; nor upon an axiom; nor upon specious reasoning; nor upon a bias toward a notion that has been pondered over; nor upon another's seeming ability; nor upon the consideration, "The monk is our teacher." Kalamas, when you yourselves know: "These things are good; these things are not blamable; these things are praised by the wise; undertaken and observed, these things lead to benefit and happiness," enter on and abide in them.'

 

THE FOUR EXALTED DWELLINGS

 

16. "The disciple of the Noble Ones, Kalamas, who in this way is devoid of coveting, devoid of ill will, undeluded, clearly comprehending and mindful, dwells, having pervaded, with the thought of amity, one quarter; likewise the second; likewise the third; likewise the fourth; so above, below, and across; he dwells, having pervaded because of the existence in it of all living beings, everywhere, the entire world, with the great, exalted, boundless thought of amity that is free of hate or malice.

 

"He lives, having pervaded, with the thought of compassion, one quarter; likewise the second; likewise the third; likewise the fourth; so above, below, and across; he dwells, having pervaded because of the existence in it of all living beings, everywhere, the entire world, with the great, exalted, boundless thought of compassion that is free of hate or malice.

 

"He lives, having pervaded, with the thought of gladness, one quarter; likewise the second; likewise the third; likewise the fourth; so above, below, and across; he dwells, having pervaded because of the existence in it of all living beings, everywhere, the entire world, with the great, exalted, boundless thought of gladness that is free of hate or malice.

 

"He lives, having pervaded, with the thought of equanimity, one quarter; likewise the second; likewise the third; likewise the fourth; so above, below, and across; he dwells, having pervaded because of the existence in it of all living beings, everywhere, the entire world, with the great, exalted, boundless thought of equanimity that is free of hate or malice.

 

THE FOUR SOLACES

 

17. "The disciple of the Noble Ones, Kalamas, who has such a hate-free mind, such a malice-free mind, such an undefiled mind, and such a purified mind, is one by whom four solaces are found here and now.

 

"'Suppose there is a hereafter and there is a fruit, result, of deeds done well or ill. Then it is possible that at the dissolution of the body after death, I shall arise in the heavenly world, which is possessed of the state of bliss.' This is the first solace found by him.

 

"'Suppose there is no hereafter and there is no fruit, no result, of deeds done well or ill. Yet in this world, here and now, free from hatred, free from malice, safe and sound, and happy, I keep myself.' This is the second solace found by him.

 

"'Suppose evil (results) befall an evil-doer. I, however, think of doing evil to no one. Then, how can ill (results) affect me who do no evil deed?' This is the third solace found by him.

 

"'Suppose evil (results) do not befall an evil-doer. Then I see myself purified in any case.' This is the fourth solace found by him.

 

"The disciple of the Noble Ones, Kalamas, who has such a hate-free mind, such a malice-free mind, such an undefiled mind, and such a purified mind, is one by whom, here and now, these four solaces are found."

 

(BELOW ARE THE PARAGRAPHS IN WHICH THE KALAMAS ANSWER THE BUDDHA)

 

"So it is, Blessed One. So it is, Sublime one. The disciple of the Noble Ones, venerable sir, who has such a hate-free mind, such a malice-free mind, such an undefiled mind, and such a purified mind, is one by whom, here and now, four solaces are found.

 

"'Suppose there is a hereafter and there is a fruit, result, of deeds done well or ill. Then it is possible that at the dissolution of the body after death, I shall arise in the heavenly world, which is possessed of the state of bliss.' This is the first solace found by him.

 

"'Suppose there is no hereafter and there is no fruit, no result, of deeds done well or ill. Yet in this world, here and now, free from hatred, free from malice, safe and sound, and happy, I keep myself.' This is the second solace found by him.

 

"'Suppose evil (results) befall an evil-doer. I, however, think of doing evil to no one. Then, how can ill (results) affect me who do no evil deed?' This is the third solace found by him.

 

"'Suppose evil (results) do not befall an evil-doer. Then I see myself purified in any case.' This is the fourth solace found by him.

 

"The disciple of the Noble Ones, venerable sir, who has such a hate-free mind, such a malice-free mind, such an undefiled mind, and such a purified mind, is one by whom, here and now, these four solaces are found.

 

"Marvelous, venerable sir! Marvelous, venerable sir! As if, venerable sir, a person were to turn face upward what is upside down, or to uncover the concealed, or to point the way to one who is lost or to carry a lamp in the darkness, thinking, 'Those who have eyes will see visible objects,' so has the Dhamma been set forth in many ways by the Blessed One. We, venerable sir, go to the Blessed One for refuge, to the Dhamma for refuge, and to the Community of Bhikkhus for refuge. Venerable sir, may the Blessed One regard us as lay followers who have gone for refuge for life, from today."
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11057)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53623)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12966)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16520)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15391)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19152)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19921)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15548)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15340)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15140)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20325)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23938)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15485)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13022)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20092)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13268)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29015)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11694)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18274)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16640)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13229)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12797)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13244)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12966)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12859)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13000)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13536)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11705)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14225)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17720)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22576)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13439)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105735)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14598)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38414)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15515)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16048)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11323)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15642)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14019)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12824)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13698)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12490)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19369)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27002)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13107)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13461)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21584)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17964)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21870)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14204)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16069)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16128)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19095)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 13662)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant