Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Giới Thiệu Của Người Biên Tập

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9370)
Lời Giới Thiệu Của Người Biên Tập

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

LỜI GIỚI THIỆU 

CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP

SỰ TỊNH HÓA – BỐN SỨC MẠNH ĐỐI TRỊ 
VÀ SỰ THỰC HÀNH VAJRASATTVA

Trước khi Lama Yeshe bắt đầu giảng dạy và làm lễ truyền pháp Tantra như đã nói ở trên, Ngài chắc chắn những đệ tử Tây phương của Ngài đã đã rành rẽ ba phương diện chính của con đường kinh điểntừ bỏ, Bồ đề tâmchánh kiến về tánh Không với đệ tử chính của Ngài, Lama Thubten Zopa Rinpoche, ẩn tu một tháng hai lần trong năm về lam-rim (con đường thứ bậc đến giác ngộ). Sau sáu “khóa học Kopan” này Lama quyết định những đệ tử của Ngài đã sẵn sàng cho tantra yoga tối thượng (maha anuttara) và đồng ý làm lễ nhập môn cho họ vào sự thực hành tịnh hóa của Heruka Vajrasattva.

Trong Giới thiệu về Tantra và Lạc của Nội Hỏa của Ngài, Lama Yeshe đã diễn giải sự liên quan giữa Kinh (Sutra) và Mật (Tantra) là hai phần chính yếu của Phật giáo Đại thừa. Những hướng dẫn xa hơn có thể tìm thấy ở những trang sách này và những tựa sách đề nghị tham khảo thêm. Tuy nhiên, để đặt sự tịnh hóa vào mạch văn, chúng tôi chỉ cần nhắc lại lời khuyên của Đức Văn Thù (Manjushri) cho Lama Je Tsong Khapa : Để đạt được những chứng ngộ tâm linh người ta phải phối hợp thiền định về con đường giác ngộ với sự tịnh hóa, tích tập công đứccầu nguyện với vị Đạo sư như một Đức Phật. Như Lama giải thích phương pháp yoga của Heruka Vajrasattva bao gồm tất cả những điều đó, với sự nhấn mạnh đặc biệt vào khía cạnh tịnh hóa.

Không có sự tịnh hóa tâm thức bạn để chuẩn bị cho những chứng ngộ tâm linh, bạn sẽ có rất ít tiến bộ trên con đường giác ngộ. Những phương pháp tịnh hóa được diễn bày trong quyển sách này là loại mạnh mẽ nhất đã từng được dạy. Trong thực hành Đạo Phật, sự tịnh hóa là khoa học đặt căn bản trên một sự thấu hiểu về cơ chế tâm lý của nghiệp hay hành động, luật nhân quả và kèm theo sự áp dụng bốn sức mạnh đối trị.(1) Đôi khi được gọi là “Sự sám hối,” sự tịnh hóa rất khác cách hiểu thuật ngữ này của người cơ đốc mặc dù có thể tìm thấy vài điểm tương đồng.

Những hành động của thân, khẩu, ý để lại dấu vết trên thức giống như những hạt giống gieo trên một cánh đồng. Khi những điều kiện hội đủ, những dấu in chín mùi và trở thành kinh nghiệm. Những dấu in tích cực hay thiện nghiệp đem lại kết quả hạnh phúc, những dấu in tiêu cực hay bất thiện đem lại đau khổ. Sự khác nhau giữa hai điều trên được giải thích rất rõ trong quyển “Cánh Cửa đến sự Mãn Nguyện” của Lama Zopa Rinpoche.

Mỗi một hành động đều có bốn khía cạnh xác định cho dù nó được hoàn tất hay chưa hoàn tất : động lực, đối tượng, sự thực hành và sự hoàn tất. Chẳng hạn, để hoàn tất một hành động sát hại đòi hỏi động cơ hay ý muốn giết, một chúng sanh là đối tượng để giết, sự thực hiện là hành động cho dù trực tiếp hay gián tiếp là tự mình làm ra hay ra lệnh cho người khác làm, và sự hoàn tất của hành động là cái chết của chúng sanh trước người giết.

Nếu một hành động hoàn tất trong tất cả bốn phương diệntrở thành cái được gọi là nghiệp đã gieo. Một hành vi có thể xác định tình trạng đầu thai của bạn bằng việc đẩy bạn vào một trong sáu cõi của sanh tử. Nếu một hay hơn nữa trong bốn khía cạnh chưa thực hiện, hành động trở thành nghiệp đang hoàn tất, xác định tính chất kinh nghiệm bạn sẽ chịu trong tương lai. Một nghiệp đang hoàn tất đem lại ba loại kết quả : kết quả tương tự với nguyên nhân trong kinh nghiệm, kết quả tương tự với nguyên nhân trong thói quen, và những kết quả thuộc môi trường. Do đó, một nghiệp bất thiện được hoàn tất phải chịu bốn quả đau khổ. Chẳng hạn bốn kết quả của sự giết có thể tuần tự : đầu thaiđịa ngục, cuộc sống ngắn ngủi vì bệnh tật, có chiều hướng muốn giết chúng sanh khác và đầu thai vào những chỗ nguy hiểm.

Dù mọi điều này áp dụng đồng đều với hành động thiện hay bất thiện, chúng ta tập trung ở đây vào việc tịnh hóa. Bốn sức mạnh đối trị tác động – và tất cả đều cần thiết – vì mỗi cái sẽ chống lại một trong bốn kết quả của nghiệp bất thiện. Sức mạnh thứ nhất là quy yphát Bồ đề tâm, được gọi là sức mạnh của đối tượng, hay sức mạnh của sự nương dựa và tịnh hóa nghiệp đã gieo gây ra sự tái sanh của bạn vào ba cõi thấp. Nó được gọi là sức mạnh của sự nương dựa vì sự hồi phục của chúng ta tùy thuộc vào đối tượng làm chúng ta bị tổn thương. Chẳng hạn, để đứng dậy sau khi đã ngã té và tự làm tổn thương, bạn nương dựa vào chính nền đất đã làm bạn bị thương. Tương tự, hầu hết nghiệp bất thiện chúng ta tạo ra đều là với đối tượng thiêng liêng hay chúng sanh. Để tịnh hóa chúng ta phải quy y những đối tượng thiêng liêngphát Bồ đề tâmlợi lạc của tất cả chúng sanh.

Sức mạnh thứ hai là sức mạnh buông bỏ, nó chống lại kết quả tương tự với nguyên nhân trong kinh nghiệm. Sức mạnh thứ ba là sức mạnh của sự chữa trị, nó đối trị với kết quả về môi trường, cuối cùng sức mạnh thứ tư là sự quyết tâm không có gì hủy hoại được nhờ đó chúng ta vượt qua được khuynh hướng có thói quen nhiều đời tạo nghiệp bất thiện lập đi lập lại. Như thế trong việc hóa giải bốn kết quả của nghiệp xấu, bốn sức mạnh đối trị tịnh hóa chúng một cách hoàn toàn, ngăn ngừa chúng ta chịu những kết quả của chúng. Loại lý luận minh bạch và đầy đủ này nằm sau tất cả những giải thíchthực hành của đạo Phật, góp phần khiến đạo Phật hấp dẫn những người trí thức và có học tìm kiếm tâm linh ngày nay.

Sức mạnh thứ ba gồm nhiều loại chữa trị, từ việc lễ lạy, xây dựng bảo tháp đến việc tụng niệm chân ngôn một trăm âm Vajrasattva, tới việc thiền định về tánh Không. Lý tưởng thay một số điều này được thực hành cùng lúc. Trong bình giảng, Lama Yeshe nhấn mạnh sự chứng ngộ tánh Không và sự tịnh hóa tuyệt đốichỉ dẫn chúng ta làm thế nào thực hành đúng đắn sadhana, bao gồm bốn sức mạnh đối trị, dẫn dắt chúng ta một cách hệ thống đến sự chữa trị thực tiễn trong sự thực hành, hay trì tụng chân ngôn. Sự giải thích tỉ mỉ của ngài về kỹ thuật Đại thừa của quy y bên trong như một phần sức mạnh của đối tượng là hiếm có và độc nhất.

Lama Yeshe đã làm cho cách thực hành tịnh hóa Vajra-sattva trở nên rõ ràng và rất hiệu nghiệm để dành cho việc ẩn tu. Bởi thế, Ngài đã đưa những giáo huấn chi tiết về mọi khía cạnh của nhóm và cá nhân nhập thất, thật ra những giáo huấn này hữu ích cho bất kỳ loại nhập thất nào.

Sáu bài thuyết pháp trong phần 3 rất tuyệt vời, những bài thuyết pháp chia thành từng cụm nhỏ giúp người nhập thất Vajrasattva sẽ tìm thấy lợi lạc khi đọc giữa những thời công phu. Tuy nhiên không một ai trong chúng tôi khi đọc những cuộc nói chuyện tuyệt hảo này mà không cảm hứng bởi năng lực kích động có một không hai của Lama.

Cuối cùng, tất cả hành giả của Tantra mẹ yêu cầu được cúng lễ Tsok vào ngày thứ mười và hai mươi lăm của lịch Tây Tạng, và phần lớn lễ thực hành Guru Puja cũng làm như vậy. Tuy nhiên, Heruka Vajrasattva Tsok mà Lama biên soạn cũng là một phương tiện tuyệt diệu đáp ứng cam kết này, đặc biệt trong khi nhập thất Vajrasattva, và hy vọng của chính Lama rằng các đệ tử của Ngài và những người khác thêm lễ Puja Tsok này như một phần trong việc thực hành đều đặn của họ.

Người ta thường nói rằng những giáo lý lam-rim giống như một bữa ăn sẵn sàng để ăn – là con đường có tính luận lý trong đó sự sắp xếp làm cho dễ thấy toàn bộ giáo pháp và dễ biết theo thứ tự một loạt bao la những thiền định Phật giáo cần thực hiện để hành giả đạt tới giác ngộ. Trong Con đường Kim Cương thừa về sự Tịnh Hóa Lama Yeshe đã chuẩn bị một bữa tiệc Tantra cho tất cả được thưởng thức.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14765)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11830)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12764)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10348)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11087)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10540)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12476)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14314)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11790)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14809)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12031)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11589)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12738)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11347)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12061)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52132)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15470)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13969)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11443)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13185)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12789)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17916)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12656)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54212)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14430)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57978)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14505)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20144)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13792)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15405)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17496)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11935)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13490)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14672)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12493)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12157)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13291)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12543)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13660)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25601)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12180)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11864)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28348)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38809)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14724)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12699)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16241)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant