Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Dẫn Nhập

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9990)
Dẫn Nhập

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

DẪN NHẬP

NHỮNG VỊ TRÍ THỨC HÃY CẨN THẬN !

Trong một lễ truyền pháp quán đảnh vị Guru cầu gọi đến năng lực thiêng liêng của vũ trụ, biểu hiện như trí huệ đại lạc thiêng liêng trong hình dáng của vị hóa thần riêng biệt – trong trường hợp này là Đức Heruka Vajrasattva. Năng lực này kích hoạt một sức mạnh ngủ vùi trong hệ thần kinh các đệ tử mà bây giờ được đánh thức và bắt đầu rung động. Nếu bạn phát sanh trạng thái tâm thức vị tha đúng đắn và một hiểu biết về tánh Không, tụng niệm chân ngôn Vajrasattva, bạn sẽ lưu giữ và làm gia tăng sự rung động đã được Đạo Sư kích hoạt. Bấy giờ qua một giai đoạn thiền chỉ (thiền định tĩnh lặng) bạn khởi đầu một tâm thức tĩnh lặng, tham thiền, giải thoát khỏi dòng những tư tưởng không kiểm soát, mê mờ thông thường của bạn, thì trí huệ nội tại nơi bạn sẽ tự động tự hiển lộ.

Nhưng, có một lời cảnh báo với người trí thức. Tự mình đọc những giáo lý Tantric không có sức mạnh của lễ truyền pháp thích hợp, chỉ là một tiêu khiển tri thức – chỉ bằng cách thực hành đứng đắn dưới sự dẫn dắt của một vị thầy đầy đủ phẩm tánh và kinh nghiệm mới có thể giúp bạn tiến bộ vượt khỏi tri thức, vượt khỏi những khái niệm của tư tưởng, dẫn đến trí huệ chân thật, thanh tịnhtự nhiên. Không phải tôi cố ý tạo sự huyền bí, hay chuyên dành riêng ở đây, mà chỉ nói rằng nếu bạn nghĩ bạn có thể hiểu, kinh nghiệm một mình về những phương pháp của Yoga Tantra chỉ bằng cách đọc sách tức là bạn đang đánh lừa chính bạn – giống như một người bệnh hấp hối tự làm bác sĩ cho mình với cùng những phương pháp đã làm cho người đó bệnh…

Phương pháp yoga Heruka Vajrasattva nên được thực hành chỉ cho những ai đã nhận lễ quán đảnhkhẩu truyền từ một vị Kim Cươngchứng ngộ. Mặc dù bình giảng được xuất bản ở đây vốn có giá trị vô hạn và phải được nghiên cứu đầy đủ trước khi thực hành những phương phápmô tả, bạn phải nhận được lễ truyền pháp nhập môn và một số hướng dẫn từ vị đạo sư của bạn. Nếu làm khác đi, thì thay vì cho bạn cái kinh nghiệm trực tiếp bạn tìm kiếm, nó sẽ trở thành sự luyện tập tri thức khô khan và chỉ có ít lợi ích, tương đối.

Thiền giả vĩ đại Tây Tạng Dharmavajra giải thích lễ quán đảnh Tantra yoga tối thượng Heruka Vajrasattva là một nét đặc biệt của truyền thống Gelug của Phật giáo Tây Tạng. Tantra yoga tối thượng bao gồm những phương pháp nhờ đó bạn có thể đạt đến giác ngộ chỉ trong một đời hay thậm chí như trường hợp của Lama Tsong Khapa chỉ có ba năm. Lẽ dĩ nhiên những lời dạy thâm sâu ấy không hề được xuất bản, nhưng những phương pháp vẫn còn hiện hữu, không thoái hóa trong tâm trí của một số hành giả. Những giáo lý mật truyền này của Đức Phật có thể được trao truyền chỉ qua sự tương thông nội tại không chướng ngại giữa vị Kim Cương Sư (Vajra Guru) và đệ tử. Một ít người nhận thức rằng những phương pháp đầy sức mạnh như vậy vẫn có thể tìm thấy trong những lời dạy của phái Geluk.

Toàn bộ truyền thống của những yogi Tây Tạng đã làm cho phương pháp Yoga Heruka Vajrasattva thành một kinh nghiệm sống. Trước khi bạn có thể hiện thực hóa giai đoạn phát sanh (kye-rim) và giai đoạn thành tựu (dzok-rim) của tantra yoga tối thượng, bạn phải tự tịnh hóa. Thực hành Vajrasattva là một trong những cách có sức mạnh nhất để làm điều đó. Sau khi nhận lễ truyền pháp, bạn nhập thất, trong đó bạn tụng một trăm ngàn biến chân ngôn Vajrasattva một trăm âm. Điều này giúp bạn thực hành hai giai đoạn của Tantra được nhiều hiệu quả hơn. Nếu bạn không tịnh hóa những thói quen lâu đời của thân, ngữ, ý, thì ngay cả nếu bạn có những nỗ lực to lớn về thiền định trên con đường giác ngộ, bạn sẽ không đạt được giác ngộ vì có quá nhiều chướng ngại trên con đường của bạn.

Bởi thế, bạn nên xen kẽ tịnh hóa với thiền định về lam-rim. Ngay cả việc cố gắng hoàn thành tập trung nhất tâm (vipasyana) mà không có sự tịnh hóa là nguyên nhân khiến bạn trở nên chán nản, cảm thấyhy vọngthối chí vì thấy mình thiếu tiến bộ. Điều này bởi vì không nhận biết hay không đối phó được với những chướng ngại do những quan niệm sai lầm của tâm thức và những hậu quả của nó – thân và ngữ bị ô nhiễm.

Một số hành giả không được hướng dẫn, cố gắng kinh nghiệm tánh Không đơn giản bằng việc bác bỏ sự hiện hữu của tất cả hiện tượng, bị ám ảnh bởi ý niệm rằng tánh Không là một loại hư vô mơ hồ nào đó. Nếu bạn muốn hiện thực hóa tri kiến chân chánh về tánh Không chẳng hạn như của trường phái Trung Quán (Madhayamaka) hay những phái Thiền tông Phật giáo, bạn phải thực hành cả hai thứ phương tiệntrí huệ. Một số người quan tâm lớn lao đến trí huệ nhưng chẳng có ai để ý gì đến phương tiện – Họ giống như con chim cố gắng bay với chiếc cánh gãy.

Bất cứ khi nào bạn gặp chướng ngại hay bị gián đoạn trong thực hành của mình, đừng nên nản lòng hay thất vọng. Hãy nhận thức rằng bạn cần tịnh hóa, và lúc đó tập trung vào phương tiện hơn là trí huệ, đúng thời gian bạn sẽ đạt được sự tỉnh thức mà bạn tìm kiếm.

 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12517)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14111)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10852)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10524)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11196)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12005)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13149)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13640)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33670)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11341)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12937)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13061)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11632)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17899)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11448)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11854)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11506)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18979)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12545)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11336)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13144)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15769)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11811)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11699)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12779)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12637)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13971)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12998)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12952)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13301)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12774)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12702)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11749)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11737)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12328)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12388)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19825)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11961)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11991)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16888)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12669)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15063)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16120)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12883)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12233)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11918)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11929)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13152)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16509)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12498)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11820)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19861)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11157)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11262)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11098)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10970)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10037)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11756)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant