Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Quy y

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10316)
2. Quy y

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

PHẦN 1

BÌNH GIẢNG CHÍNH
 

2
QUY Y

Từ trước đến nay, tôi đã nói đến lý do tại sao chúng ta cần tịnh hóa và xúc tiến việc đó như thế nào. Tôi cũng đã nhấn mạnh rằng chúng ta không có khả năng chấm dứt một cách liên tục việc tạo ra những hành vi bất thiện thuộc thân, khẩu, ý bởi vì chúng ta chưa hiểu được nguyên nhân nội tại, đó là luật của nghiệp.

Có một sự khác biệt lớn lao sự nhận thức về nghiệp giữa một bên là sự hiểu biết thuần lý trí và bên kia là dựa trên kinh nghiệm sống mà họ trải qua. Một vài người lắng nghe giáo lý, có thể hiểu rất hoàn chỉnh ngôn từ của những lời giảng về nghiệp quảbề ngoài, có thể tin rằng “Điều ấy chăc chắn có thật bởi vì vị Lama của tôi đã nói như vậy.” Nhưng vì họ không nhận biết bằng chính kinh nghiệm của mình nên họ thất bại khi sự hiểu biết được thử thách, trắc nghiệm. Họ không có được cách giải quyết khi đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng. Họ thỏa mãn với khả năng có thể nói chuyện bàn luận về nghiệp quả, như thể khả năng trao đổi bằng lời với cha mẹ, bạn bè về nghiệp như vậy là đủ cho họ, nhưng họ lại không thể làm được những gì họ đã nói bởi vì họ chưa hề thực hành.

Nhưng một số người khác không thỏa mãn chỉ với sự hiểu biết bằng lý trí, họ mong hiểu biết hơn nữa thông qua việc thực hành những gì họ được dạy. Họ không thể có khả năng trình bày những bài thuyết giảng sâu rộng về nghiệp, nhưng bởi vì họ lúc nào cũng quan tâm, biết ý thức đến tất cả các hành vi của họ, nên họ nếm được đích thị mùi vị của Pháp. Một kinh nghiệm rất thật y như vị ngọt của mật ong trên đầu lưỡi của bạn. Và khi nào có những vấn đề, những trở ngại phát sanh thì những người tu tập như trên sẽ biết cách ứng dụng kinh nghiệm để tìm ra giải pháp cho những trở ngại đó. Bạn phải thấy rõ ràng về điều đó. Rất là nguy hiểm một khi bạn chỉ thỏa mãn với sự hiểu biết Pháp chỉ bằng lý trí và bạn không chịu thực hành. Nếu như vậy thì không giúp gì được cho bạn.

Rất nhiều giáo sư, học giả Đông phương, Tây phương công nhận là họ không tu tập. Họ có thể phát biểu rất nhiều về tất cả mọi lãnh vực triết lý Phật giáo. Nếu bạn hỏi họ một vấn đề, họ có thể trả lời được. Nhưng lời giải thích của họ cũng giống như lời giải thích của hướng dẫn viên du lịch, rất là phiến diện. Khi một hành giả nhiều kinh nghiệm nói chuyện với bạn, lời giải thích của ông ta có một năng lực ban phước. Ông ta có thể nói y như câu chuyện mà các học giả trình bày, nhưng cái cách ông ta diễn đạt làm xúc động tâm can của bạn. Lời nói của những người chưa có kinh qua y như ngọn gió thoảng rì rào bên tai bạn.

Nếu bạn thấu hiểu về nhân quả thông qua kinh nghiệm riêng của bạn thì bạn không còn cách nào dám cẩu thả trong hành vi của bạn. Có những người mặc dù với sự thấu hiểu thuần lý trí, có thể phát biểu trước một diễn đàn rất đông khán giả, nhưng chính họ thực sự không tin tưởng vào những gì họ đang nói bởi vì họ chưa nếm được vị mật ngọt của những gì họ biết. Họ không sống theo phạm trù tâm linh đạo đức mà họ phát biểu thảo luận. Cá nhân tôi thấy điều ấy rất đau lòng. Khi được hỏi một câu hỏi thực tế rằng nghiệp quả tiến triển như thế nào, các học giả chỉ có thể trả lời bằng cách trích dẫn từ một quyển sách, một đoạn kinh mà họ đã đọc. Bởi vì họ không trải qua kinh nghiệm, nên họ không thể giải thích rõ ràng xúc tích về những vấn đề như : làm sao quán sát tuân thủ nghiệp, cái gì cần làm trong thực hành, và bằng cách nào để việc quán sát tuân thủ nghiệp có thể dẫn dắt tâm bạn vào trong hướng tích cực, hướng thiện. Một số câu hỏi có tính cách thực hành sẽ vượt quá khuôn khổ triết học về nghiệp quả của các học giả đó, và do vậy họ không thể liên hệ được với những câu hỏi như vậy. Và tất cả những gì họ có thể nói là rằng : “Ô ! Bạn không thể hỏi câu hỏi như vậy. Đạo Phật không giải quyết việc đó.” Đó không phải là cách trả lời.

Tôi chắc chắn rằng đa số các bạn thấu hiểu rất rõ ràng bằng cách nào mà các hành vi bất thiện của thân, khẩu, ý cứ tái đi tái lại trong đời sống và mang đến những hậu quả khổ đau, vô minh, và càng thêm bất thiện hơn nữa. Trong tâm thức các bạn cũng chưa nổi lên câu hỏi về bản chất sự thật của vấn đề này. Hẳn các bạn có thể giải thích điều này rõ hơn tôi nhiều. Khi bạn nghe tôi nói tiếng Anh không trôi chảy, bạn có thể tự nghĩ rằng : “Ông ấy nói kiểu tiếng Anh gì vậy ? Nếu phải chi ông ta để tôi nói, tôi có thể diễn đạt tốt hơn.” Điều này hoàn toàn đúng. Nhưng tại sao bạn không thể ngưng ngay các thói quen tiêu cực bất thiện ? Sự hiểu biết chỉ bằng lý thuyết không thôi thì không đủ.

Có rất nhiều Phật tử tuy ít học hành nhưng nhờ vào sự tu tập nghiêm mật trong phạm vi thực hành mà đã có được chứng ngộ tâm linh rất cao. Nhưng có những học giả có thể giảng thuyết tràng giang đại hải nhưng chẳng đạt tới chứng ngộ nào cả. Bởi thế, tôi khuyên các bạn hãy thận trọng. Khi bạn nói về giáo lý, điều quan trọng không phải là cái bạn nói tới – tức là giáo lý – nhưng chính sự quan trọng là bằng cách nào bạn đã có được sự hiểu biết của bạn. Lời nói của bạn phải chứa đựng sự rung động truyền cảm đặc biệt từ kinh nghiệm riêng của mình, nó cũng chuyển tải được năng lực rung động đó đến người nghe.

Tây Tạng, với các vị lama đã chứng ngộ và có thiện xảo, khi họ thuyết giáo về con đường có thứ bậc đưa tới giác ngộ, họ thường không nhấn mạnh nhiều về học thuyết giáo lý, nhưng họ thường hay nhấn mạnh đến các khía cạnh thực hành của giáo lý, thậm chí có khi họ yêu cầu môn sinh hãy thiền định trong khi họ giảng dạy. Do kết quả đó, một số môn sinh đã có chứng ngộ ngay trong khóa học. Vào cuối khóa học hai mươi ngày họ hiểu thấu trọn vẹn con đường (giải thoát) từ đầu đến cuối, lòng tràn ngập năng lực họ muốn rời ngay tu viện đến các hang động trong núi để nhập thất thiền định miên mật. Ngược lại, các học giả có thể dạy cho bạn cùng đề tài như vậy trong hai mươi năm mà chẳng hề rung động được tâm can bạn.

Tôi cũng đã chứng kiến những người Tây phương được kích thích mạnh bởi những bài thuyết giảng lam-rim đến nỗi họ quá muốn đi vội vào trong núi (nhập thất). Tuy nhiên nếu tiếp tục thực hành tu tập thêm nhiều năm nữa sẽ là cách tịnh hóa mạnh mẽ các hành vi bất thiện tốt hơn nhiều cho các bạn, hơn là việc nhập thất để có những cơn bộc phát thiền định mang tính chất cảm tính, ở nơi ẩn cư đơn độc.

Do vậy khi bạn quy y, phát Bồ đề tâm thì không nên có kẻ hở nhiều giữa sự quy y, phát Bồ đề tâm với bản tâm của bạn. Nếu quy yphát Bồ đề tâm không nhập một với tâm bạn thì các việc đó không thể tịnh hóa được các hành vi bất thiệnchúng ta đã thảo luận ở trước. Khi bạn quy y, tâm bạn phải nhập một với quy y, khi bạn phát Bồ đề tâm, tâm bạn phải trở thành Bồ đề tâm. Nhất định không phải cái kiểu cách rằng bạn ngồi xuống “đây” trên bồ đoàn, mà lại đang làm một việc nào đó ở ngoài “kia” đằng trước mặt bạn, theo kiểu nhị nguyên. Tâm của bạn phải trở thành Pháp mà bạn tu tập. Việc này có thể làm được tuy khó, và cốt yếu là bạn tu tập để làm lợi cho tâm bạn. Người Tây phương không chỉ lắng nghe mà còn ưa hành động nên nhiều môn sinh trong khóa học về con đường đạo có thứ bậc đưa tới giác ngộ (lam-rim) diễn ra ở vùng Kopan của chúng tôi đã thu được những kinh nghiệm rất tích cực. Những môn sinh này rất chân thành, nhạy cảm và cởi mở với Thầy Zopa và tôi. Những gì họ nghe được từ lời giảng đã ảnh hưởng tốt đến tâm của họ. Nếu như có một tình huống giảng dạy mà người thầy y như một máy phát thanh (radio) và thính giả giống như các bức tường thì làm sao có lợi lạc gì được ? Thêm nữa người Tây phương vốn dĩ có tính hoài nghi, họ chỉ công nhận những gì họ nghe và hiểu được ; chính nhờ bản tính này làm cho họ hội đủ phẩm chất tốt đẹp để lắng nghe giáo lý Đại thừa. Tôi rất ưng ý khi họ nói : “Thầy nói như vậy. Tôi không chấp nhận cách nói đó.” Ví dụ như, chúng tôi cảm thấy rằng những ai phát sanh lòng ngưỡng mộ vị thầy chỉ vì dựa trên một lòng tin mang tính chất cảm tính thay vì dựa trên trí huệ thấu biết, thì những người đó không hội đủ phẩm chất thỏa đáng để nghe giáo lý.

Quy yphát Bồ đề tâm

Mãi mãi con xin quy y Phật, Pháp, Tăng và Tăng đoàn của ba thừa, các daka và dakini của yoga mật chú, các thánh anh hùng, chư thiên, các vị Bồ tátđặc biệt là vị Thầy của tôi.

“Thừa” là cách chúng ta dịch tiếng Sanskrit “yana.” Nghĩa tổng quát của nó chỉ ra rằng một số hành vi nhất định sẽ chắc chắn nâng tâm thức của bạn lên một tầng lớp cao hơn. Chẳng hạn, nếu bạn làm tăng trưởng Bồ đề tâmtu tập sáu Ba la mật bạn chắc chắn đạt tới giác ngộ. Đại thừa sẽ đưa bạn từ lúc bắt đầu – tức là phát Bồ đề tâm – thông qua sáu Ba la mậtthập địa Bồ tát để tới đích tức là giác ngộ. Nếu bạn bắt đầu một cách vẹn toàn và hành động đúng đắn thì “Thừa” của bạn chắc chắn đưa bạn đến đích mong ước. “Thừa – Yana” cũng bao hàm nghĩa “con đường” : con đường đúng sẽ dẫn dắt bạn tới được nơi đúng. Nếu, vì vô minh, bạn đi theo con đường lầm lạc thì bạn sẽ chẳng được gì cả. Ba thừa Phật giáo là gồm hai Tiểu thừa (Hinayana) và một Đại thừa (Mahayana) và chúng ta phải quy y cả Tăng đoàn của ba thừa. Ngay cả khi chúng ta đang theo Đại thừa, và đặc biệt là đang theo yoga mật thừa, thì chúng ta cũng đừng nên tự mãn cho rằng : “Tôi là người của Đại thừa, tôi không cần quy y Tăng đoàn Tiểu thừa.” Mặc dù các vị A la hán Tiểu thừa vẫn còn một ít chấp trước vào sự giải thoát của bản thân các ngài, nhưng các ngài đã thoát khỏi cái ngã với sự chứng nhập trọn vẹn tánh Không và có thể dẫn dắt chúng ta thoát khỏi luân hồi sanh tử. Bởi thế, chúng ta phải quy y tất cả Tăng đoàn mà không có sự phân biệt. Các lama Tây Tạng không phát khởi ra Tiểu thừa hay Đại thừa. Chính Đức Thế Tôn tìm ra hai trường phái Phật Pháp này, và hai trường phái này đã có mặt rất lâu trước khi giáo pháp được truyền bá đến Tây Tạng. Một số người cho rằng Đức Phật đã giảng Pháp bằng tiếng Pali nên các kinh ghi chép lại bằng ngôn ngữ khác là sai lệch. Một số người khác cũng cho rằng Đức Phật đã giảng tiếng Sanskrit, và các kinh bằng tiếng Pali là sai. Cả hai ý kiến này đều nhầm lẫn. Khi Pháp được truyền tới các quốc gia khác, các hành giả đã chứng ngộ vẫn giữ nguyên cốt lõi của giáo Pháp khi họ dịch các lời giảng sao cho thích nghi với tâm của con người trong nước họ, việc làm này chỉ nhằm mục đích giúp cho sự truyền đạt được rõ ràng mà thôi. Sau rốt, có sự khác biệt lớn lao giữa người Tây Tạng ở vùng núi tuyết và người Ấn Độ ở vùng đòng bằng nóng ẩm, cho nên bạn cần dự kiến về một số thay đổi trong phương pháp diễn đạt giáo Pháp khi được truyền từ nơi này đến nơi khác.

một lần, một vị vua và là đệ tử của đức Phật đã có một giấc mơ. Trong giấc mơ đó có mười tám người tranh nhau một cây vải, ai cũng tranh dành riêng cho mình. Cuối cùng mỗi người lấy được cây vải nguyên vẹn riêng. Thức dậy nhà vua đến kể cho đức Phật nghe và hỏi Phật ý nghĩa của giấc mơ. Đức Phật bảo nhà vua rằng cây vải tượng trưng cho giáo Pháp của Ngài và sau khi Đức Phật nhập diệt, mười tám trường phái với sự thể hiện khác nhau đôi chút từ giáo pháp, sẽ phát triển đi các nơi. Việc mỗi người nhận được trọn vẹn cây vải cho riêng mình có nghĩa rằng mỗi trường phái đó sẽ chứa đựng một con đường trọn vẹn đúng đắn để đưa đến giải thoát. Như vậy Đức Phật đã tiên đoán việc thành lập mười tám trường phái Tiểu thừa.

Theravada là một trong mười tám trường phái đó. Một số tín đồ Tiểu thừa cảm thấy bị lăng nhục khi gọi họ là “Tiểu thừa,” họ cương quyết đòi được gọi là “người theo phái Thera-vada” (điều này không có ý nghĩa bởi vì chỉ là một trường phái, Theravada không chứa đựng được toàn bộ triết học của Tiểu thừa, như vậy hai từ Theravada và Tiểu thừa không được tương đương với nhau). Và rồi thì có một số người khác mà cái “Ta” của họ trương lớn lên khi họ tự cho mình là người “Đại thừa.” Chính những phản ứng rất nhị nguyên này bắt nguồn từ vô minhhoàn toàn đi ngược lại với sự an lạc nội tại của trí huệ của Pháp.

Sự khác biệt chủ yếu giữa “người Tiểu thừa” và “người Đại thừa” chính là ở tâm trạng của họ. Sự quan tâm chính của đệ tử Tiểu thừasự giải thoát của riêng họ ; và sự quan tâm của đệ tử Đại thừasự giải thoát của tất cả chúng sanh hữu tình. Một số người cảm thấy rằng những người mặc áo tăng vàng là Tiểu thừa, và áo tăng màu đỏ là Đại thừa, sự phân biệt phiến diện như vậy thật sự sai lầm. Bất cứ người nào bất kể họ mặc áo màu gì, nhưng nếu luôn luôn nhiệt tình với lòng cương quyết dẫn dắt tất cả chúng sanh hữu tình đến bờ giác ngộ tối thượng bằng chính bản thân mình, và không hề nghĩ đến việc giải thoát cho riêng mình mà thôi, thì người đó là “người Đại thừa.” Còn nếu một người nào dù mặc áo tăng đỏ, nhưng lúc nào cũng chìm đắm vào sự quán chiếu khổ đau, mê lầm của vòng luân hồi sanh tử đang hiện hữu, họ chỉ có một động cơ duy nhất là ước ao giải thoát riêng mình và không nghĩ tới những khó khăn của chúng sanh hữu tình, thì người đó là “người Tiểu thừa.”

Chúng ta quy y các Tăng đoàn Tiểu thừaĐại thừa, các daka và dakini, các anh hùng, các chư thiên, các vị Bồ tát – tất cả các vị đã trong giai đoạn thành tựu của tantra yoga tối thượng. Trong số đó có vị có một dáng vẻ an bình, số khác có vẻ hung nộ. Các vị Bồ tát cũng hiển lộ nét hung dữ. Bạn đừng nghĩ rằng Bồ tát luôn luôn phải có nét dáng an lành. Ngay cả ở vị sơ địa trong thập địa Bồ tát – thường được gọi là “Địa Hoan Hỷ – Joyous One,” các vị Bồ tát cùng lúc biểu lộ trong một trăm thân khác nhau. Với các thân này, các Vị có thể giảng dạy Pháp trực tiếp từ các báo thân của một trăm vị Phật, hay chuyển thành một trăm hóa thân khác nhau cho lợi lạc của chúng sanh hữu tình. Trong quá trình từ sơ địa đến thập địa Bồ tát, oai lực của các ngài ở mỗi địa tăng lên mười lần, cho nên các hạnh của các ngài ngoài sức hiểu biết của chúng ta. Do vậy các vị Bồ tát hiển lộ trong hình ảnh các thiện thần, hung thần, và vân vân… và chúng ta quy y với các Ngài.

Thật vậy, các vị Bồ tát có thể xuất hiện như người Tây phương, người Đông phương, người da màu, người da trắng, như người Thiên Chúa giáo, người đạo Hồi, hay Do Thái giáo – trong bất kỳ hình dáng nào cũng được. Ngày nay rất nhiều người tự coi là có tín ngưỡng nhưng có tâm chật hẹp. Họ không thể chịu sự hướng dẫn tâm linh đối với một vị Thầy có dòng giống, màu da, chủng tộc hay quốc tịch khác với họ. Khi họ tự đặt mình đứng về phía với một vị Thầy riêng biệt của họ, thì họ trở nên cục bộ, họ tin rằng các vị Thầy khác cùng với các đệ tử của các ngài là xấu. Tôi gọi cái này là “Chủ nghĩa bổn sư.” Điều này rất lệch lạc. Đó là kiểu quy y theo lối “nhị nguyên.” Điều này không phải là cách quy y của người Phật tử.

Một số người tự cho là thầy (guru), họ tuyên bố rằng họ là người Thầy số một, người thầy duy nhất và đương nhiên các đệ tử tin vào điều đó. Theo đà này, tôn giáo mà họ đang thuyết giảng lẽ ra là con đường đưa đến giải thoát thì lại đang làm “ngạt thở” các đệ tử của họ, và các đệ tử đó càng lúc càng thiển cận, dẫn tới sự cuồng tín. Tốt hơn là không có tín ngưỡng còn hơn là thành ra như vậy. Ít nhất người không có tín ngưỡng sẽ không có quan điểm cực đoan như thế, đối với họ chỉ đơn giản làm người cũng đủ rồi.

Chúng ta quy y với chư Phật chư Bồ tát mười phương, với bất kỳ ai đã chứng ngộ tánh Không mà không cần biết màu da, quốc tịch dòng giống của họ. Hãy nhớ rằng, một vị sơ địa Bồ tát có thể là một người nam, người nữ Phi châu, một người chăn lạc đà ở Á-rập Xê Út, thậm chí có thể là một người khủng bố, họ đóng vai trò này để phục vụ cho những người khác tốt hơn.

Cuối cùng, và đặc biệt trong lời kinh cầu nguyện, chúng ta cũng quy y với vị Thầy của chúng ta, nhất là với vị thầy gốc, người đã chỉ cho ta con đường an lạc đưa tới sự thực chứng giác ngộ vĩnh cửu. Hãy luôn luôn nhớ rằng vị thầy của bạn với Heruka Vajrasattva là một. Lob-pošn có nghĩa là người đã chỉ cho chúng ta thấy con đường đúng và dẫn dắt chúng ta trên con đường đó, uốn nắn cho đúng những hành vi thân, khẩu, ý của chúng ta, đưa chúng ta tránh xa được những việc làm vô minh, mê muội. Người có thể đưa chúng ta đến giác ngộ ngay trong đời này, và thậm chí có thể trong ba năm. Hãy gợi nhớ đến sự tử tế không ngờ được của người, và chúng ta hãy quy y với người mãi mãi.

Cách quán tưởng chúng ta áp dụng khi quy y như sau đây : người cha ở bên phải của bạn, người mẹ ở bên trái, kẻ hận thù nhất thì ở trước mặt. Người bạn ưu ái nhất, người mà bạn thân cận nhất thì ở phía sau. Tất cả chúng sanh hữu tình ở mọi hướng xung quanh bạn.

Cách quán tưởng này là một ví dụ tốt của quan điểm tâm lý học Đại thừa. Nếu có ai chợt hỏi bạn muốn đặt để người bạn tốt nhất ở đâu, bạn sẽ tự nhiên nói rằng : “Ồ ! ở đằng trước mặt tôi” ; và dĩ nhiên bạn sẽ thích đặt để kẻ thù ở sau lưng, ngoài tầm mắt. Ngược lại, khi quy y chúng ta đặt kẻ thùtrước mặt chúng ta. Hãy nhìn vào kẻ thù đó, và bằng sự chân thành, chánh trực bạn hãy xét nét cuộc đời của họ. Hãy nghĩ đến những vấn đề mà cái tâm lăng xăng của bạn đã gây ra và rồi bạn nhận thức được rằng kẻ thù cũng ở trong một tình huống đúng y như vậy. Hãy phân tích cái cách mà bạn cảm thụ đối với người kẻ thù đó. “Tôi cho rằng ông ta – kẻ thù – là kẻ tồi tệ nhất trên thế gian này nhưng những vấn đề của ông ấy cũng giống như của tôi. Tại sao tôi phải nổi sân mỗi khi thấy gương mặt ông ta ? Cái điều sai lầm cốt lõi của ông ấy là tâm ông ấy đã mê muội ôm chặt cái ngã. Nếu tôi giận cái gì thì đó phải là cái mà tôi đáng giận. Đằng này đối với những tri giác giác quan của tôi thì tâm mê lầm của ông ấy là một cái gì vô hình, không thấy được, vậy tại sao tôi lại phản ứng (nổi sân) với hình tướng vật chất của ông ấy. Cái thân, cái mặt của ông ấy, không gì khác hơn, chỉ là “tay sai” của tâm bất thiện của ông ấy. Chính cái tâm bất thiện này là nguồn gốc của mọi thứ mà khiến tôi không thích ông ấy. Cầu cho ông ta nhận ra được điều này, tịnh hóa sự mê muội của ông ta một cách trọn vẹn và có được những chứng ngộ hoàn hảo.”

Như thế, bạn hãy nên phát tâm thương yêu kẻ thù vô cùng và với cái tâm như vậy, bạn hãy quy y. Đây là cách quy y tốt nhất.

Việc quy y như kiểu này chính là một cách giải quyết được các vấn đề vô minh, tham luyến, sân hận. Nếu không thì rất bất lợi cho bạn vì bạn sẽ quá lo lắng về các vấn đề đó, và việc bạn quy y sẽ đơn thuần là một phương pháp mới để tự mình tăng thêm sự tham luyến dính mắc cũng như sự quan tâm cho việc chứng ngộ của riêng mình. Bạn sẽ có thể nói bạn đang tu tập Pháp, nhưng Pháp mà bạn đang tu tập chẳng phải là gì cả ngoài việc làm tăng thêm sự tham luyến của bạn. Phật pháp lẽ ra phải là cách giải quyết các vấn đề của mình, nhưng bởi vì thái độ nói trên của bạn, trí huệ Pháp lại trở thành một cái gì sở hữu mang tính cách vật chất. Bây giờ nếu có ai nói “Pháp của ông là phân” thì cái ngã của bạn sẽ nổi cơn thịnh nộ.

Trí huệtrí huệ. Tại sao bạn lại chịu khó bực mình khi người đang mê muội bảo bạn rằng Pháp là phân hay gọi vị thầy của bạn là quỷ sứ ? Không thể nào chỉ đơn giản bằng lời nói mà có thể làm cho Pháp hay vị thầy thành ra phân hay quỷ sứ được. Do vậy bạn hãy cẩn trọng. Nếu bạn bực mình nổi giận khi ai đó phê phán việc tu hành của bạn, thì như vậy bạn đã biến trí huệ Pháp của bạn thành ra một cái gì mang tính vật chất. Nhận định này không chỉ áp dụng riêng cho đạo Phật mà kể cả các tôn giáo khác nữa. Nếu các đồ đệ của một tín ngưỡng nào nổi giận vì có người bảo tôn giáo của họ không tốt, và họ muốn đóng cọc hành hình kẻ phê bình đó, như vậy những quan niệm của họ hoàn toàn lầm lạc. Ngay giờ đây bạn hãy coi xét lại cái cách bạn phản ứng khi có người lăng nhục bạn – bởi vì một khi bạn nổi cơn thịnh nộ thì có coi xét phản ứng cũng đã quá trễ rồi.

Việc quán tưởng những chúng sanh chung quanh ta là mẹ khi bạn phát tâm quy y, là một phương tiện mạnh mẽ để vượt qua được sự chú tâm quá đáng đối với những khổ đau riêng của mình. Nhiều người trong chúng ta bị ám ảnh quá nhiều đối với những khổ đau riêng. Chúng ta đã không thể quên chúng được và chúng ta không bao giờ nghĩ tới những gì mà các người khác đang kinh qua. Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng những người khác cũng có những khổ đau y như chúng ta có, lúc đó chúng ta mới bắt đầu suy nghĩ rằng : “Rốt lại tôi đâu phải là người xấu số nhất trên đời. Tôi cũng không phải một mình trong khổ đau. Có nhiều người giống như tôi vậy. Nên tôi phải phát sanh lòng đại bi yêu thương họ y như tôi yêu thương tôi.”

Bằng cách nào mà Phật, Pháp và Tăng già của ba thừa cứu được chúng ta khỏi mê lầm của vòng luân hồi sinh diệt ? Điều này tùy thuộc vào thái độ tâm linh của chúng ta. Chúng ta phải hiểu thấu đáo bản chất sự hiện diện của vòng luân hồi sanh tử của chúng ta, đồng thời chúng ta cũng phải biết đến năng lực và khả năng lớn lao mà các chư Phật, Thánh Tăng đã có để dắt dẫn chúng ta ra khỏi vòng sanh tử. “Tôi thật là vô tích sự. Mặc dù tôi có đủ thông minh để làm cho cuộc sống của tôi tiện nghi, hưởng thụ xứng đáng, những tôi không có đủ hiểu biết, trí huệ để vượt qua được sức lôi kéo hấp dẫn của tâm tham ái của tôi đối với những cảm xúc vui sướng mà nó đã cột chặt tôi lại với vòng luân hồi sanh tử. Tôi không có cách nào để tự giải phóng khỏi sự ràng buộc đó. Nhưng các chư Phật, Thánh Tăng thực sự có thể dẫn dắt tôi. Các Ngài có phương tiện, giải pháp, ánh sáng trí huệ để khiến tôi xua tan mê lầm, đó là chìa khóa mở rộng tâm tôi sao cho trí huệ thấu biết từ đó phát sanh. Tôi đã quá mệt mỏi vì luôn bị cuốn hút trong vòng sanh diệt bất tận mà không kiềm chế được. Chư Phật đã chỉ cho thấy phương pháp toàn vẹn đưa tôi và các người khác nữa ra khỏi mê lầm. Và Pháp trí huệ là con đường Đạo đúng đắn, thực tế, một sự chấm dứt khổ đau đúng đắn.”

Tôi biết chắc chắn, có nhiều mức độ của ý nghĩa trong từ “Pháp” mà bạn đã học hỏi khi nghiên cứu kinh điển. Khi bạn quy y Pháp, đối tượng quy y thực sự của bạn là trí huệ thấu hiểu đầy đủ bản tánh tuyệt đối (sự thật rốt ráo) và là một với tánh Không một cách trọn vẹn, hoàn toàn thoát khỏi quan điểm nhị nguyên. Chúng ta hiện nói về Pháp, nhưng Pháp là gì ? Pháp là trí huệTrí huệ Pháp. Tuy nhiên, cần có nhiều thời giantích lũy nhiều chứng ngộ để có được trí huệ vô thượng. Chúng ta phải làm điều này. Để chạy cho tốt, một cái xe hơi phải tùy thuộc vào nhiều bộ phận và không có một bộ phận nào tự riêng một mình nó là một cái xe hoàn chỉnh. Tương tự như vậy, trí huệ toàn bích kết hợp bởi rất nhiều loại khác nhau của sự thấu biết, và mỗi sự thấu biết đó là một bộ phận hợp nhất của con đường Trí Huệ.

Cho nên bạn có thể hiểu rằng có sự khác biệt giữa Pháp quy ychúng ta đang nói tới ở đây – Chính là Trí huệ toàn bích, nó thấu biết đầy đủ sự thật rốt ráotánh Không, và Pháp thường dùng mà chúng ta từng thảo luận – tức là giải pháp mang tính trí huệ để giải quyết các vấn đề tâm linh. Trí huệ toàn bích là đối tượng quy y rốt ráo. Nhiều đệ tử của tôi than phiền rằng họ đã uổng công chờ đợi để được nghe tôi dạy về tánh Không. Nhưng bạn thấy đấy – đây này, tôi đã và đang dạy nó không lúc nào ngừng. Chỉ có điều… tôi đã không gọi nó là tánh Không như : “Các bạn nghe đây, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy tánh Không ! Ngày mai các bạn sẽ đạt tới giác ngộ !” Tôi đã và đang ngụy trang nó dưới dạng những từ đơn giản hơn.

Chư Phật đã chỉ cho bạn thấy được Pháp và bằng cách nào bạn thâm nhập Pháp để đạt tới thực sự chấm dứt khổ đau. Thông qua việc tu tập Pháp bạn trở thành vị Phật. Tăng đoàn giúp bạn tạo ra những điều kiện đúng đắn cho việc tu tập, tạo sự đảm bảo để bạn tịnh hóa các điều bất thiện và thật sự chấm dứt khổ đau. Như tôi đã nói trước đây, các vị Bồ tát biểu lộ dưới vô số cách khác nhau để nhắm tới một mục đích duy nhất là trợ giúp bạn trong tu tập. Khi các vị phô bày hình ảnh hung dữ, chúng ta đừng nên bực mình khó chịu hay nghĩ rằng các vị không còn từ bi với chúng ta nữa. Thay vì vậy chúng ta nên cho rằng : “Vị Bồ tát này đang chỉ cho tôi thấy được rằng khi tôi giận dữ, trông gương mặt tôi kỳ cục xấu xa như thế nào. Nếu trước đây tôi chưa biết giận dữ, thì tôi không bao giờ biết có gương mặt như vậy. Tôi nên biết ơn sự tử tế của ngài.” Bất cứ khi nào có ai đó giận chúng ta, chúng ta nên nghĩ rằng ông ấy hay bà ấy là biểu lộ của một vị Bồ tát dạy chúng ta đừng nên giận dữ. Tương tự như vậy, bất cứ khi nào có ai đó xung quanh ta trông rất an lạc, chúng ta nên nghĩ, với niềm vui, rằng người này cũng là một vị Bồ tát đang chỉ cho chúng ta thấy rằng những người khác sẽ vui sướng biết bao khi chúng ta cư xử tốt với họ.

Chắc chắn bạn đã có nhận xét rằng bất chợt vào một thời điểm nào đấy bạn cảm thấy vui sướng gặp một người này nhưng cảm thấy khó chịu ngay tức thì khi thấy người kia. Đấy chính là cái nghiệp lực của bạn nó đang “làm việc.” Ở trong bạn, có một năng lực mà nó xui khiến cho điều này xảy ra. Gần như bạn không thể làm được gì về việc này. Một cách tự phát, những người đẹp trai hay xinh gái được người khác đối xử tốt ở mọi nơi, nhưng những người xấu xí thì bị cư xử tệ. Đây là nghiệp của họ, rất khó thay đổi cho dù họ rất muốn thay đổi. Người Tây phương sẽ cho chúng ta sự giải thích bằng khoa học như thế nào cho hiện tượng này ? Chính nghiệp đã làm cho cuộc đời của các bạn khó khăn, và cũng bởi nghiệp làm cho cuộc đời thoải mái dễ chịu.

Tuy nhiên, không phải vì vậy mà nghiệp cố định bất biến. Nghiệp là một hiện tượng thay đổi. Tất cả đều như nhau thôi cho đến khi năng lực của một nghiệp nào đó đã hết, và mỗi người phải chịu đựng tình huống riêng của mình.

Hãy lấy ví dụ con chó “Gomchen” của tu viện. Tất cả chúng ta đều yêu thương nó. Đức Phật yêu thương nó. Đức Chúa cũng yêu thương nó. Nhưng cho dù tất cả đều yêu thương nhưng không ai có thể giao thiệp, “nói chuyện” được với con chó đó để chỉ cho nó thấy được bản tánh tuyệt đối, tức là tánh Không. Con chó không thể nào có khả năng giao tiếp được với chúng ta, cho đến khi nào thân của nó được biến đổi thành một cái thân khác thích hợp. Đó là nghiệp. Tất cả chúng sanh trong luân hồi sanh tử phải chấp nhận những gì họ đang kinh qua cho đến khi năng lực của tập nghiệp ở phía sau sự kiện đang kinh qua đó được tiêu trừ. Mọi sự trong cuộc sống của bạn tùy thuộc loại năng lực này. Khi một năng lực tác nhân của một hành vi nhất định được tiêu trừ hết thì nó không còn đưa đến hậu quả nữa. Bạn hãy nghiên cứu cuộc đời của bạn và bạn sẽ hiểu được nghiệp. Mỗi một chúng sanh hữu tình đều sống theo cái cách họ suy nghĩ, theo trình độ năng lực nhận thức, thái độ sống, và hoàn cảnh chung quanh. Đó, tất cả, là nghiệp. Tôi dùng rất nhiều lần từ “nghiệp” ở đây. Tôi hy vọng các bạn hiểu tôi muốn nói cái gì.

Kết luận lại, chư Phật chỉ cho bạn thấy con đường chân chánh và sự chấm dứt thật sự, đó tức là Pháp giải thoát bạn khỏi luân hồi sanh tử. Và chư Phật đã cố gắng làm cho bạn nhận ra được rằng các hành vi đúng đắn của bạn phù hợp với đạo là những gì thực sự dẫn dắt cho bạn. Điều này có nghĩa chính bạn chứ không phải chư Phật, có trách nhiệm tối hậu cho việc giải thoát của bạn. Bạn hãy thấu hiểu rõ ràng điều này.

Tăng đoàn ở cả ba thừa, bao gồm các vị hộ pháp như Mahakala và Kalarupa là những người bạn của bạn, các chư vị sẽ giúp bạn bất cứ khi nào có thể được. Do vậy, bạn nên hiểu tăng đoàn có nghĩa như thế nào. Đa số người ta nghĩ rằng Tăng đoàn là từ dành riêng cho những ai mặc áo cà-sa, nhưng không có kinh điển nào nói như vậy. Tuy nhiên, chúng ta “có thể” nói rằng những ai đã hiến dâng đời mình cho Phật pháp bằng cách xuất gia, được gọi là Tăng sĩ “tương đối.” Nghĩa “tột bực, rốt ráo” của Tăng doàn là người trong tâm linh đã chứng ngộ trọn vẹn bản tánh tuyệt đối, tức tánh Không, bất chấp họ thuộc dân tộc nào, màu da gì, mặc áo gì, hay là những gì khác nữa ; họ là Tăng sĩ thực sự, những người bạn tốt nhất của bạn.

Bạn thường cảm thấy cô đơn, nhưng bạn đừng nên như vậy. Những người bạn Tăngvĩnh cửuchân thật của bạn lúc nào cũng ở bên bạn, đó là các daka và dakini, chư Bồ tát có gương mặt hiền lành hay hung dữ và các Tăng đoàn trong ba thừa. Họ có thể dẫn dắt bạn ra khỏi mê lầm, sân hận của thế gian. Khi bạn nhận ra điều này, bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn hay nhớ tiếc bạn bè. Hãy thiền định, hãy đi vào trong : đó là nơi mà các người bạn đích thực đang hiện diện.

Quán tưởng đối tượng quy y

Phương phápchúng ta quy y trong pháp tu tập Heruka Vajrasattva có khác với phương pháp quy y trong lời dạy về con đường có thứ bậc đưa tới giác ngộ bởi vì theo cách thứ bậc này đối tượng quy y chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Phép quy y đang nói đây, đối tượng Phật quy y là hoặc Heruka hoặc Vajradhara, tùy vị nào mà bạn quán tưởng dễ dàng hơn.

Hãy quán tưởng ngài Heruka màu xanh đang đứng, đang ôm người phối ngẫu là Vajra Varahi màu đỏ. Xung quanh họ có rất nhiều daka và dakini, sáu mươi hai vị thần của mạn đà la Heruka và hằng hà sa số chư Phật, chư Bồ tát, A la hán, những người đã chứng ngộ niềm an lạc vĩnh cửu.

Nếu bạn thích quán tưởng Vajradhara hơn, thì ngài Vajradhara ngồi trong tư thế hoa sen (kiết già), đang ôm người phối ngẫu là Vajradhatu Ishvari (tiếng Tây Tạng : Ying-chug-ma). Cũng như trên, ngài có màu xanh còn người phối ngẫu màu đỏ, và họ được bao quanh bởi các hóa thân như trên của Trí huệ Thiêng liêng, chỉ trừ sáu mươi hai vị thần của mạn đà la Heruka. Tuy nhiên, dù bạn quán tưởng Heruka hay Vajradhara, hãy ghi nhớ rằng, thực tế vị Thầy của bạn đang xuất hiện trong hình ảnh đó, và vị Thần mà bạn quán tưởng là đối tượng quy y chính, là hoàn toàn nhập một với vị Thầy của bạn. Do đó, Heruka (hay Vajradhara) là Phật, các daka và dakini và các Tăng trong ba thừaTăng đoàn, và Trí huệ của họ là Pháp.

Một lợi ích của phép quán tưởng Heruka trong tư thế đứng là phép này sẽ gia hộ cho hệ thần kinh của bạn, làm hoạt động năng lực kundalini trong đó. Điều này giúp cho sự thực hành “maha-anuttara yoga tantra.”

Những quán tưởng không phải là đối tượng của nhãn thức. Bạn không thể thấy chúng, bằng cách nhìn chăm chăm đằng trước. Thân thiêng liêng của Heruka là một sự biểu lộ của Trí huệ siêu việt thiêng liêng của Ngài, Trí huệ này chuyển hóa thành thân thiêng liêngxuất hiện ngay tức thời ở không gian trước mắt bạn. Bởi vì phép quán tưởng này là một phép quán tưởng của và là một với tâm toàn trí phúc lạc, đó là bản tánh của thức. Chúng ta không thể thấy Trí huệ siêu phàm thiêng liêng này nhờ vào mắt hay các giác quan của thân thể. Do vậy, để tiếp thông được với chúng ta nên năng lực của Trí huệ vô thượng đã ứng hiện trong một hình thể thiêng liêng thanh tịnh trong bản chất ánh sáng. Hình thể đó cũng không xuất hiện một cách từ từ, nhưng như một sự bất ngờ của một phim ngay lập tức chiếu trên màn hình, hay như một người bất chợt xuất hiện ở trước cửa. Thông qua những phép quán tưởng như thế này chúng ta có thể dễ dàng bắt liên lạc, thông tin được với Pháp thân.

Sau khi bạn đã quy y, chư Phật và chư Tăng trong ba thừa – các vị Thánh tăng, chư Bồ tát với gương mặt hiền hay dữ, các hộ pháp như Mahakala và Kalarupa và vân vân... tất cả tan biến thành ánh sáng và nhập một vào trong vị thần chính (principal deity) của bạn là ngài Heruka. Vajra Varahi cũng trở thành ánh sáng và nhập vào Heruka. Cuối cùng, Heruka tự biến thành ánh sáng rồi biến vào trong tim của Ngài. Quả cầu ánh sáng này đi đến đỉnh đầu của bạn, nhập vào bạn xuyên qua đường kinh mạch trung ương, đi qua luân xa cổ họng để tan vào trong luân xa tim của bạn. Bạn hoàn toàn nhập làm một với ánh sáng này, ánh sáng đó về bản chất chính là Heruka và vị thầy của bạn. Hãy giữ trạng thái tập trung trên ánh sáng đó càng lâu càng tốt, không cho phép những ý nghĩ “nhị nguyên” như “cái này” và “cái kia” nó quấy nhiễu bạn.

Với sự thực hành, bạn có thể có khả năng an trụ trong sự “nhập một không phân biệt” (non-dual oneness) trong nửa giờ đồng hồ. Khi một số vọng tưởng nổi lên, bạn hãy thôi thiền địnhphát Bồ đề tâm : “Tôi phải trở thành Heruka để dẫn dắt chúng sanh hữu tình đến trạng thái vô thượng của bản tánh Heruka.”

Ba phương pháp quy y

Có ba phương pháp quy y : bên ngoài, bên trong, và bí mật. Đa số người ta cho rằng thừa kinh điển tức là “Parami-tayana,” thì phương pháp quy yphương pháp duy nhất. Đó là cái chúng tôi gọi là quy y bên ngoài và thường là phương pháp được đưa ra khi giáo pháp được giảng dạy. Trong cách quy y bên ngoài, đức Phậtchúng ta quy y là một người khác với chúng ta : đó là một người đã đạt được Phật tánh, một đấng giác ngộ như Đức Thích Ca Mâu Ni. Theo hệ thống này thì Pháp mà chúng ta quy ygiáo pháp đấng Giác ngộ đã dạy. Tăng đoàn bên ngoài bao gồm các môn đệ đã thọ giới hay đã chứng ngộ giáo pháp, như tôi đã giải thích trước đây. Với sự nhận thức rằng chư Phật, Pháp, Tăng đã hiện diện rồi, có oai lực dẫn dắt chúng ta, và với những nỗi lo sợ về những khổ đau của kiếp luân hồi sanh tử, nên chúng ta quy y vào Tam Bảo.

Hai phương pháp quy y khác thuộc về yoga Kim Cương thừa. Quy y bên trong là quy y với vị Phật mà tự bản thân bạn sẽ trở thành vị Phật đó. Trí huệ của vị Phật tương lai của chính bạn là đối tượng của quy y Pháp bên trong. Và khi bạn đạt được trạng thái này, tự bạn trở thành Tăng đoàn, đó là đối tượng để quy y Tăng bên trong. Ở giai đoạn này bạn không chỉ trở thành Tăng đoàn mà bạn còn đạt được sự hợp nhất với tất cả Tam Bảo quy y và không cần phải quy y nữa với một cái gì khác lìa ngoài chính bạn.

Khi bạn quy y bên trong, tâm bạn trở thành Trí Huệ toàn trí siêu việt, tâm Trí Huệ này biến hóa thành thể thiêng liêng của ngài Heruka (hay Vajradhara) đang ở cùng với các daka và dakini, các Bồ tát có gương mặt an lạc hay hung dữ, và vân vân, và bạn quy y với thể đó. Để làm được điều này, tối thiểu bạn cần phải có được một sự hiểu biết sâu sắc bằng trí huệ những ý niệm và phóng chiếu hư vọng về cái “tôi” (ngã) của bạn để sao cho bạn có thể bằng cách nào đó mà tịnh hóa những thứ đó vào thời điểm quy y. Bạn sẽ thấy điều này rất đỗi khó khăn.

Quy y bí mậtphương pháp thứ ba. Phương pháp này là khó nhất. Bạn phải nhận thấy được rằng năng lực của các vị daka – dakini phúc lạc lan tỏa khắp hệ thần kinh của bạn thay vì như thường lệ là cái năng lực tầm thường nó làm bạn mê mẫn dính mắc vào lạc thú giác quan, và bạn quy y với năng lực đó. Ở đây, bạn đang sử dụng nguồn năng lực của hệ thần kinh của bạn để phát sinh ra đại lạc bẩm sinh đồng thời, bạn hợp nhất nó với trí huệ bất nhị, dùng nó như con đường phúc lạc đưa tới giải thoát. Kinh nghiệm này thực sự là cái giải thoát cho bạn khỏi những bất toại nguyệný tưởng nhị nguyên. Đa số người ta không nhận biết được năng lực phúc lạc này, vốn có sẵn trong họ. Nhưng với những cách thực hành như phương pháp yoga này hay cách thiền định “tum-mo” chẳng hạn khi họ tạo ra được tình huống đúng họ sẽ có thể thể nghiệm được sự xuất hiện ồ ạt cái năng lực phúc lạc đó mà trước đó họ không bao giờ nghĩ là có thể được như vậy.(2) Mới đây, tôi có nghe rằng một số người đã thực nghiệm được năng lực phúc lạc “không thể tin được” đó, trong hệ thần kinh trong thời gian ẩn cư cấp tốc với những viên chu len của tôi.(3)

Ba phương pháp quy y này hoàn toàn không đối lập với nhau, và cả ba được đưa ra giảng dạy để các hành giả có thể tùy ý chọn lựa cách nào thích hợp nhất với mức độ phát triển tâm linh của mình. Cách quy y bên ngoài dành cho người có mức tâm linh ít phát triển nhất, còn cách quy y bí mật dành cho một số ít người phước đức và mức tâm linh cao.

Nếu bạn hiểu được ý nghĩa thực sự của việc quy y, bạn sẽ biết được việc quy y có một hiệu quả tích cực như thế nào trong tâm bạn, và bạn sẽ hưởng được lợi ích lớn lao. Bạn sẽ thực sự thích thú việc quy y, và mỗi khi quy y, một năng lực rất tinh khiết ở trong sâu thẳm của tâm bạn đang phát sanh. Nếu bạn không biết cách quy y cho thích hợp thì bất kể cách thiền định nào mà bạn tu tập cũng sẽ giống như tuyết trên đường, khi từ trời rơi xuống trông rất có ấn tượng, nhưng nó sẽ nhanh chóng tan ra ngay mất. Cũng giống như thế, thiền định của bạn sẽ không có hiệu quả sau đó. Với một sự thấu biết sâu sắc về việc quy y bạn sẽ bắt đầu thưởng thức vị mật ngọt của trí huệ Phật.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32574)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12030)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12570)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34441)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12518)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11402)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14381)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13100)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13851)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant