Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Sự tịnh hóa

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9760)
5. Sự tịnh hóa

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

PHẦN 1

BÌNH GIẢNG CHÍNH 

5
SỰ TỊNH HÓA 

“(Con cầu xin) Thế Tôn Vajrasattva tịnh hóa tất cả các điều bất thiện và các thệ nguyện không thực hiện được của con và của các chúng hữu tình”

Vì lời thỉnh cầu này, ánh sáng rực rỡ tỏa ra từ chuỗi thần chú và từ chữ HUM ở trái tim thiêng liêng. Nó tịnh hóa tất cả các điều bất thiện và những điều che ám của tất cả chúng hữu tình và ánh sáng đó trở thành vật cúng dường cho chư Phật và chư Bồ tát. Tinh túy của những phẩm chất toàn mỹ của thân, khẩu, ý thánh thiện của chư Phật chư Bồ tát trở lại trong dạng ánh sáng, tan vào trong chữ HUM và chuỗi thần chú.

(Từ chữ HUM và chuỗi thần chú) một dòng năng lực cam lồ lạc phúc màu trắng bắt đầu tuôn tràn xuống các luân xa của hai người phối ngẫu thiêng liêng. Tuôn qua luân xa hợp nhất (chakra of union) nó chảy vào trong luân xa đỉnh đầu của tôi. Dòng cam lồ này của trí huệ siêu việt đầy tràn trong toàn thể thân tôi, phá tan các điều bất thiệnu ám của thân khẩu ý của tôi. Những thứ này hoàn toàn được tịnh hóa.

Trước tiên bạn khẩn cầu Heruka Vajrasattva – người phá tan mọi nhiễm ô, người sở hữu tất cả sự chứng ngộ, người siêu việt khỏi thế giới này – để tịnh hóa bạn và tất cả chúng hữu tình khỏi những điều bất thiện của thân, khẩu, ý và tất cả những thệ nguyện, cam kết thuộc Kim Cương thừa đã bị biến chất hay không thực hiện.

Rất nhiều ánh sáng tỏa ra từ chữ HUM và chuỗi mật chú ở tim thiêng liêng của Heruka Vajrasattva và người phối ngẫu của ngài, ánh sáng tràn đầy trong không gian khắp mười phương, tịnh hóa tất cả bất thiện của chúng hữu tình và làm thành các vật cúng dường cho tất cả chư Phật, các con Phật tức các vị Bồ tát hưởng thụ. Tinh chất của trí huệ siêu việt của thân, khẩu, ý của chư thánh, sẽ trở lại trong dạng ánh sáng, tan vào trong chữ HUM và chuỗi mật chú ở tim của Heruka Vajrasattva và tim của người phối ngẫu. Từ đây, một khối lượng rất lớn của năng lực kundalini màu trắng (amrita), phúc lạc đổ vào kinh mạch trung ương của ngài. Tinh túy của năng lực kundalini này là trí huệ siêu việt phúc lạc của ngài. Năng lực của trí huệ này không hề vơi cạn – hoàn toàn ngược lại với năng lực bị giới hạn của chúng ta luôn bị kiệt quệ nhanh chóng và đòi hỏi chúng ta phải ăn uống để bổ sung. Khi bạn đang quán tưởng việc này, bạn cũng nên quán tưởng năng lực kundalini trắng phúc lạc đổ xuống kinh mạch trung ương của Dorje Nyem-ma, người phối ngẫu của Heruka Vajrasattva.

Năng lực kundalini trắng phúc lạc chảy xuống kinh mạch trung ương của họ, đi qua luân xa rốn và luân xa giới tính và rời khỏi cơ thể tinh khiết của họ ở nơi mà họ liên kết với nhau làm một. Năng lực đó tiếp tục xuống xuyên qua mặt trăng và chỗ ngồi bằng bông sen mà vì bản chấttrí huệ siêu việt, nên không hề cản ngại. Năng lực đó vào người bạn xuyên qua luân xa đỉnh đầu, đổ ào xuống, thông qua kinh mạch trung ương, với sức mạnh như thác nước. Điều rất quan trọng là bạn quán tưởng dòng thác cam lồ màu trắng này như là tràn ngập mãnh liệt. Nó tràn vào cơ thể bạn và lan ra khắp cả thân. Năng lực trắng này không phải là vật chất, nhưng bằng cách nào đó, nó được cảm thấy như rất thật. Ánh sáng rực rỡ cũng tràn đầy trong bạn và bạn hoàn toàn bị cái lạc thu phục. Tất cả những điều bất tịnh của thân, khẩu, ý của bạn biến mất không để lại vết tích gì.

Trì Chú (5) 

OM VAJRA HERUKA SAMAYAM ANUPALAYA. HERUKA TENOPATISHTHA. DRIDHO ME BHAVA, SUTOSHYO ME BHAVA, SUPOSHYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVA SIDDHIM ME PRAYACCHA, SARVA KARMA SUCHA ME CHITTAM SHREYAH KURU, HUM ! HA HA HA HA HOH ! BHAGAVAN VAJRA HERUKA MA ME MUNCHA, HERUKA BHAVA MAHA SAMAYA SATTVA AH HUM PHAT !

Bây giờ hãy trì tụng thần chú một trăm âm của Heruka Vajrasattva. Có ba kỹ thuật thiền định khác nhau để bạn sử dụng khi bạn trì tụng mật chú đó. Cách thứ nhất gọi là yašn-de. Năng lực kundalini trắng phúc lạc chạy ùa vào kinh mạch trung ương của bạn. Nó lan tỏa khắp hệ thần kinh của bạn, rửa sạch tất cả những điều bất thiện thông qua các khiếu (các lỗ) và lỗ chân lông ở phần dưới của cơ thể. Có nhiều cách quán tưởng về điều bất thiện khi chúng rời cơ thể bạn, bạn có thể chọn cách nào hiệu quả nhất cho tâm thức bạn. Bạn có thể quán tưởng ba tâm độc là ngu si, tham lam, giận ghét đi ra ngoài ở dạng con heo, con gà, con rắn. Hay bạn có thể quán tưởng một cách đơn giản tất cả điều bất thiện ở dạng bạn cho là loại hữu tình tồi tệ nhất như bò cạp, cua, rắn, côn trùng hay đen như hắc ín và dơ như nước hố rác.

Có người cho là lạ lùng nếu từ trong người tuôn ra những côn trùng, loài bò sát, loài có vẩy nhưng trên thực tế có rất nhiều chúng sanh hữu tình đang sống trong người chúng ta. Chúng ta có mối quan hệ cộng sinh với một số hữu tìnhchúng ta không thể tồn tại được nếu không có chúng.

Cơ thể chúng ta cũng là nơi trú ngụ của các loài trùng (giun) trùng ngắn, dài và nhiều thứ nữa. Không phải vì cơ may nhưng chính vì nghiệp mà chúng nó (giun) có mặt ở đó. Chúng ta đang trả món nợ nghiệp cho chúng. Trong quá khứ chúng ta lấy của chúng, bây giờ chúng lấy lại từ ta. Chúng ta đã lấy thực phẩm từ chúng mà không để lại gì cả bởi vậy chúng đã vào bao tử chúng ta và ăn thực phẩm của chúng ta. Ngay cả những người tham lam nhất thế gian, những người vì quá bủn xỉn không chia xẻ cho ai cái gì cả, những người đó cũng bị bắt buộc chia xẻ thức ăn cho các con trùng ở trong ruột. Nghiệp lực rất mạnh, không có cách nào thoát khỏi. Ngay khi bạn cố tránh khỏi những con trùng đó thì chúng cũng cứ trở lại với bạn. Chúng lấy sức khỏe của bạn và đôi khi lấy cả cuộc sống của bạn nữa. Có nhiều cách mà bạn bị chết, đừng nghĩ là cần phải có người dùng dao tấn công thì mới bị chết.

Hãy cảm thấy rằng bạn đã được tịnh hóa hoàn toàn nhất là đối với các điều bất thiện ở dạng thô, dễ biết. Chúng ta thường nói rằng thói quen cũ của ta rất khó sửa, nhưng không phải vậy, ít nhất thì những lý do đó không có cơ sở – chính bởi tâm ta làm cho mọi thứ trở nên khó khăn. Chúng ta luôn cảm thấy niềm hỷ lạc theo tính cách vật chất, như vậy chúng ta bị định hướng vật chất. Chúng ta tin các việc là khó khăn về mặt vật chất vì mọi loại lý do bên ngoài. Khi công việc không suông sẻ chúng ta đổ lỗi cho cha mẹ : “Mẹ tôi đã làm thế, cha tôi đã làm thế. Mẹ tôi thích vậy…” Nhưng không phải cái thân chúng ta mà chính là tâm của chúng ta làm cho cuộc sống khó khăn.

Nếu đích thực vì một mình cái thân bạn gây ra những trục trặc rắc rối thì làm sao bạn có thể ngồi kiết già thật lâu như bạn đã làm được ? Không ai khiến bạn phải ngồi như vậy. Chính tâm bạn cho phép bạn làm như vậy. Khi bạn ngồi kiết già thiền định, bạn cảm thấy thoải mái, tâm bạn càng dễ điều khiển hơn và kinh nghiệm nhỏ này đem đến cho bạn sự thích thú đủ để tiếp tục nữa. Khi bạn làm được như vậy, bạn cảm thấy thoải mái càng lúc càng tăng. Điều này xảy ra không phải vì lý do thuộc vật chất và vì do từ tâm của bạn. Do đó, tiến trình của phương pháp yoga này là để cho năng lực siêu việt phúc lạc rửa sạch cái ngã của bạn và sự tham luyến quá đỗi với thú vui dục lạc, để cho bạn được tịnh hóa hoàn toàn.

Kỹ thuật kế tiếp để sử dụng khi trì chú được gọi là mašn-de. Ở đây năng lực kundalini phúc lạc tràn đầy toàn bộ hệ thần kinh theo chiều bắt đầu từ dưới đi lên đỉnh đầu. Khi năng lực khởi lên, tất cả điều bất thiện trôi nổi trên mặt của năng lực phúc lạccuối cùng thoát ra ngoài thông qua các lỗ ở phần trên của thân. Nó tương tự như cách thức rác rưởi nằm dưới đáy thùng được nổi lên khi bạn đổ nước vào. Khi cam lồ tràn đầy thân bạn, bạn kinh nghiệm đại lạc. Hãy cảm giác rằng bạn đã được tịnh hóa hoàn toàn, nhất là các điều bất thiện vi tế.

Kỹ thuật quán tưởng thứ ba được gọi là phung-de. Ở đây, sự nhấn mạnh nhằm vào ánh sáng chứ không vào năng lực kundalini màu trắng. Ánh sáng rực rỡ phúc lạc vô biên như là một tia sáng rất mạnh phát xuất từ tim của Heruka Vajrasattva, nó bùng lên xuyên qua luân xa giới tính của Heruka và luân xa đỉnh đầu của bạn và đi vào trong kinh mạch trung ương của bạn. Nó có màu trắng nhưng có phẩm chất giống như cầu vồng với các màu đỏ, vàng, xanh lá cây, và xanh dương trong nó nữa. Khoảnh khắc mà ánh sáng rực rỡ này vào trong thân bạn, nó hoàn toàn xua tan bóng tối của tâm bất định đầy nghi ngờ của bạn cũng như si, tham, sân của bạn ; mọi thứ này tan biến vĩnh viễn. Giống như việc mở đèn trong một phòng tối, bóng tối tan biến tức thì và không còn hiện diện nơi nào nữa cả. Bóng tối đâu có chạy ra ngoài cửa sổ phải không ? Đơn giản là nó tan biến mất. Do đó, chẳng còn chỗ trú ngụ cho bóng tối hay điều bất thiện ở bất cứ đâu trong đầu óc bạn, ở cổ, hay các nơi khác trong hệ thần kinh của bạn. Bạn được trong sáng như pha lê. Hãy cảm thấy rằng bạn được tịnh hóa hoàn toàn, nhất là đối với những điều bất thiện vi tế nhất.

Khi bạn đang ẩn cư bạn có thể thực hiện mỗi một kỹ thuật tịnh hóa trong mỗi đoạn thời gian bằng cách chia thời gian trì chú ra làm ba khoảng thời gian ngắn ; hay thực hiện một kỹ thuật cho toàn bộ thời gian, dùng kỹ thuật kế tiếp cho thời gian sắp tới.

Khi bạn không ẩn tu thì việc tu tập cách thiền định này mỗi ngày rất tiện lợi cho bạn ; ở mỗi kỹ thuật tịnh hóa bạn trì chú Heruka Vajrasattva này hai mươi lần. Thời điểm tốt nhất là vào ban đêm ngay trước khi bạn đi ngủ. Trong ngày bạn quá bận rộn đến nỗi bạn rất có thể bị xao lãng khi thiền định. Do đó, coi việc trì chú như là việc làm cuối cùng trong ngày trước khi đi ngủ, bạn sẽ tịnh hóa hoàn toàn tất cả những gì thiếu đạo đức mà bạn đã làm trong ngày, và rồi bạn đi ngủ với cảm giác tự do, giải thoát, thay vì sự buồn bực, bực mình bởi những điều bất thiện của ban ngày. Bởi vì chúng ta không ngừng dính líu đến quá nhiều việc, chúng ta rất cần một phương pháp yoga mạnh mẽ như phương pháp này. Chỉ cần rất ít thời giờ cho việc tịnh hóa.

Sức nặng của dấu ấn nghiệp bất thiện không được tịnh hóa sẽ gia tăng theo cấp số nhân, nhưng nếu chúng ta trì chú Vajrasattva chỉ hai mươi mốt lần vào lúc trước khi đi ngủ mỗi đêm, thì ngay cả nghiệp bất thiện của những lời thệ nguyện Kim Cương thừa đã bị hư hoại trong ngày đó, cũng sẽ không gia tăng. Nếu phương pháp này đủ oai lực, để ngăn không cho gia tăng nghiệp bất thiện do những thệ nguyện căn bản của Kim Cương thừa đã bị hư hoại – chẳng hạn những thệ nguyện cao nhất và những sự vi phạm nghiêm trọng nhất – thì phương pháp này đương nhiên có khả năng ngăn chận sự gia tăng những điều bất thiện của những hành động tự bản chất là không đạo đức như giết người…, cũng như các thệ nguyện bị hư hoại khác nữa. Hơn nữa, nếu chúng ta trì chú này một cách thích hợp và được một trăm nghìn lần, thì bất kể điều bất thiện nào cũng được tịnh hóa hoàn toàn.

Trong khi bạn trì chú, điều rất quan trọng là bạn phải ở trong tập trung nhất tâm không được để cho vọng niệm sanh tử nào xen vào ngăn trở sự thiền định của bạn. Nếu bạn có thể thực hiện sự trì chú với sự tập trung tốt và sự quán chiếu, soi thấu vững chắc thì nó sẽ có hiệu quả vô cùng to tát trong việc nhổ sạch các niệm bất tịnh và sự đen tối của những chướng ngại phiền não. Sự tịnh hóa đó đến từ oai lực của sự thiền định được tập trung của bạn, nhưng mật chú cũng có oai lực riêng của nó. Đôi khi nó cho bạn khả năng thấy biết bằng thần giao cách cảm về những gì xảy ra ở nửa địa cầu bên kia. Khi bạn tịnh hóa được những vướng mắc chướng ngại của các ý niệm cảm tính rất chật hẹp, bạn sẽ khám phá một thế giới mới trọn vẹn.

Mật chú cũng có thể làm cho bạn vui hoặc buồn, nó tùy thuộc những gì mà người kia đang suy nghĩ ! Nhiều sự việc nữa cũng xảy ra – điều đó tùy thuộc hoàn toàn vào từng mỗi người ; khi người ta đi ẩn cư, họ có những kinh nghiệm khác nhau và nhận được những chứng ngộ khác nhau. Thật khó để nói cho biết là ai đã chứng ngộ được gì. Một số trở nên Vajrasattva người Mỹ, một số là Vajrasattva người châu Á, châu Âu, châu Úc…, ai mà biết được !

 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33290)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11303)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30416)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30445)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7993)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12217)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12269)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11616)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12847)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34809)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9857)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52282)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10761)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10535)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10726)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16302)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21861)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9634)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7136)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12779)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12803)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16246)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16546)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13876)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16612)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13847)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14338)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9224)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11766)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11287)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16351)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14365)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16210)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12095)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11805)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15681)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11526)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14029)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15005)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11971)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13140)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14565)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20739)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13246)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10975)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20725)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14379)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17674)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31869)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12028)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant