Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán

05 Tháng Mười 202019:08(Xem: 6436)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán

佛陀十大第子讚

宣 化 老 和 尚 講 述

PHẬT-ĐÀ THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ TÁN

Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, 
Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem bản PDF)

舍利弗尊者

助佛揚化度群倫

常觀自在般若深

五蘊皆空無人我

三毒息滅有佛僧

降心離相破法執

迴小向大悟圓通

現比丘相影響眾

功成身退不居功

Xá-lợi-phất Tôn giả 

Trợ Phật dương hoá độ quần luân 

Thường quán tự tại bát-nhã thâm 

Ngũ uẩn giai không vô nhân ngã 

Tam độc tức diệt hữu Phật tăng 

Hàng tâm ly tướng phá pháp chấp 

Hồi tiểu hướng đại ngộ viên thông 

Hiện tỳ-kheo tướng ảnh hưởng chúng 

Công thành thân thối bất cư công.

Việt dịch

Giúp Phật hoằng pháp độ quần sanh,

Quán sâu Bát-nhã trí tuệ thành.

Năm uẩn đều không, trừ nhân ngã,

Ba độc dứt rồi hiện Phật, Tăng.

Điều tâm, lìa tướng, phá chấp pháp,

Bỏ Tiểu theo Đại, đạo viên thành.

Hiện tướng tỳ-kheo dạy bảo chúng,

Lập thành công lớn chẳng kể công.

 

摩 訶 目 犍 連 尊 者 

至孝救母目連僧

眾生離苦願始伸

盛會解除倒懸業

法筵供養聖賢尊

一切有情皆得度

恆沙餓鬼出獄門

神通第一阿羅漢

緬甸靈跡留古今

Ma-ha Mục-kiền-liên Tôn giả 

Chí hiếu cứu mẫu Mục-liên tăng 

Chúng sinh ly khổ nguyện thủy thân 

Thịnh hội giải trừ đảo huyền nghiệp 

Pháp diên cúng dường thánh hiền tôn 

Nhất thiết hữu tình giai đắc độ 

Hằng sa ngạ quỷ xuất ngục môn 

Thần thông đệ nhất A-la-hán 

Miến điền linh tích lưu cổ kim.

Việt dịch

Mục-liên đại hiếu, thân cứu mẹ,

Độ tận chúng sinh nguyện mới thành.

Pháp hội giải trừ khổ treo ngược,

Trải thân cúng dường hiền thánh tăng.

Hết thảy hữu tình đều cứu độ,

Ngạ quỷ hằng sa thoát ngục hình.

A-la-hán thần thông đệ nhất,

Miến Điện ngàn đời lưu dấu linh.

須 菩 提 尊 者 

解 空 第 一 大 菩 提

即 相 離 相 斷 諸 疑 

倉 庫虚 無 歎 希 有

寶 篋 重 現 更 出 奇 

行 深 般 若 波 羅 蜜

打 破 葫 蘆 泯 東 西 

言 語 道 斷 證 三 昧

行 住 坐 臥 露 天 機

Tu-bồ-đề Tôn giả 

Giải không đệ nhất đại bồ-đề 

Tức tướng ly tướng đoạn chư nghi 

Thương khố hư vô thán hy hữu 

Bảo khiếp trùng hiện cánh xuất kỳ 

Hành thâm Bát-nhã ba-la-mật 

Đả phá hồ lô mẫn đông tây 

Ngôn ngữ đạo đoạn chứng tam-muội 

Hành trụ tọa ngọa lộ thiên cơ.

Việt dịch

Nghĩa không thấu suốt chẳng ai bằng,

Tướng lìa nghi dứt sạch băng băng.

Kho chứa hư vô khen ít có,

Rương báu lại thành mầu nhiệm thay.

Vào sâu Bát-nhã ba-la-mật,

Đập vỡ hồ lô sạch đông tây.

Dứt hết ngữ ngôn chứng tam-muội,

Đi đứng nằm ngồi tự tại thay.

阿那律尊者

始 惰 終 勤 不 睡 眠

七 日 七 夜 血 淚 穿 

積 極 精 進 傷 雙 目

憐 愍 教 授 得 照 天 

九 十 一 劫 無 貧 困

百 千 萬 世 有 福 緣 

四 事 請 問 彿 遺 囑

功 德 無 盡永 流 傳

A-na-luật Tôn giả 

Thủy nọa chung cần bất thụy miên 

Thất nhật thất dạ huyết lệ xuyên 

Tích cực tinh tấn thương song mục 

Lân mẫn giáo thụ đắc chiếu thiên 

Cửu thập nhất kiếp vô bần khốn 

Bá thiên vạn thế hữu phúc duyên 

Tứ sự thỉnh vấn Phật di chúc 

Công đức vô tận vĩnh lưu truyền.

Việt dịch

Tinh tấn chuyển tâm không ngủ nghỉ,

Mắt tươm máu lệ bảy ngày đêm.

Nỗ lực chuyên cầnmắt thịt,

Y theo pháp Phật được nhãn thông.

Chín mươi mốt kiếp không nghèo khổ,

Trăm nghìn muôn kiếp đủ phước duyên.

Bốn việc thưa thỉnh Phật di chúc,

Công đức vô tận mãi lưu truyền.

迦旃延尊者

惡 者 入 獄 故 難 還

善 士 離 垢 不 復 霑 

論 議 第 一 超 俗 類

雄 辯 蓋 世 勝 邪 言 

善 巧 方 便 說 諸 法

威 德 感 召 化 三 千 

度 人 無 量 功 勛 普

圓 滿 菩 提 道 德 全

Ca-chiên-diên Tôn giả 

Ác giả nhập ngục cố nan hoàn 

Thiện sĩ ly cấu bất phục triêm 

Luận nghị đệ nhất siêu tục loại 

Hùng biện cái thế thắng tà ngôn 

Thiện xảo phương tiện thuyết chư pháp  

Uy đức cảm triệu hóa tam thiên 

Độ nhân vô lượng công huân phổ 

Viên mãn bồ-đề đạo đức toàn.

Việt dịch

Kẻ ác sa đọa khó quay đầu,

Bậc hiền dứt lỗi, dứt dài lâu.

Đệ nhất luận nghị siêu thế tục,

Hùng biện hay, tà thuyết quay đầu.

Phương tiện khéo bày, giảng các pháp,

Oai đức cảm hóa khắp tinh cầu.

Công lớn độ người vô số kể,

Đạo cao đức cả chứng pháp mầu.

羅 睺 羅 尊 者 

時 刻 匪 懈 習 禪 那

晝 夜 精 進 無 言 說 

廁所 入 定 成 三 昧 

夢 中 出坡 集 功 德 

清 潔 心 地 菩 提 養

耕 耘 性 田 智 慧 多 

為 彿 親 子 尚 實 踐

模 範 萬 世 度 娑 婆

La-hầu-la Tôn giả 

Thời khắc phỉ giải tập thiền na 

Trú dạ tinh tấn vô ngôn thuyết 

Xí sở nhập định thành tam muội 

Mộng trung xuất pha tập công đức 

Thanh khiết tâm địa bồ đề dưỡng 

Canh vân tính điền trí tuệ đa 

Vi Phật thân tử thượng thật tiễn 

Mô phạm vạn thế độ Sa-bà.

Việt dịch

Thời thời tu tập giữ đạo thiền,

Ngày đêm tinh tấn khó nói hết.

Tùy chỗ nhập định, chứng tam-muội,

Giữa đời mộng ảo tích công đức.

Tâm thanh tịnh nuôi lớn Bồ-đề,

Cày ruộng tâm tánh thêm trí tuệ.

Tự thân vốn đã là con Phật,

Còn nêu khuôn mẫu độ ngàn sau.

摩 訶 迦 葉 尊 者 

靈 山 拈 花 傳 心 印 

破 顏 微 笑 直 承 當 

祖 祖 法 燈 照 沙 界

僧 僧 慧 命 滿 大 千

金 色 頭 陀 袈 裟 幢

彌 勒 尊 彿 續聖 田

摩 訶 迦 葉 功 勛 大

盡 未 來 際 恩 無 邊

Ma-ha Ca-diệp Tôn giả 

Linh sơn niêm hoa truyền tâm ấn

Phá nhan vi tiếu trực thừa đương 

Tổ tổ pháp đăng chiếu sa giới 

Tăng tăng tuệ mệnh mãn đại thiên 

Kim sắc đầu đà ca-sa tràng 

Di-lặc tôn Phật tục thánh điền 

Ma-ha Ca-diệp công huân đại 

Tận vị lai tế ân vô biên.

Việt dịch

Đỉnh Linh Sơn tâm ấn mật truyền,

Như Lai ấn chứng khơi nguồn thiền.

Đèn pháp tổ truyền soi pháp giới,

Đuốc tuệ tăng sai chiếu đại thiên.

Cà-sa khổ hạnh trang nghiêm pháp,

Di-lặc hạ sanh nối thánh điền.

Công cao đức cả Đại Ca-diếp,

Ơn sâu hóa độ mãi lưu truyền.

優 波 離 尊 者 

波 羅 木 叉 是 大 師

依 教 奉 行 修  總 持 

金 剛 寶 珠 常 在 握

美 玉 無 瑕 時 護 之 

諸 彿 本 源 精 進 力

菩 薩 母 體 篤 行 思 

西 土 南 山 規 範 普 

緇 門 楷 式 眾 基 石

Ưu-ba-li Tôn giả 

Ba-la-mộc-xoa thị đại sư  

Y giáo phụng hành tu tổng trì 

Kim cương bảo châu thường tại ác 

Mỹ ngọc vô hà thời hộ chi 

Chư Phật bản nguyên tinh tấn lực 

Bồ Tát mẫu thể đốc hành tư 

Tây độ nam sơn quy phạm phổ 

Truy môn giai thức chúng cơ thi (thạch).

Việt dịch

Thờ giới làm thầy nêu tôn chỉ,

Y giáo phụng hành, muôn pháp quy.

Kim cương châu báu tay nắm giữ,

Ngọc đẹp không tì vết thường khi.

Sức tinh tấn suối nguồn chư Phật,

Hành Bồ Tát hạnh quyết tư duy.

Khuôn mẫu núi Nam cùng Tây độ,

Tăng-già mô phạm vững thanh quy

阿難尊者

如 是 我 聞 印 心 田

結 集 三 藏 照 地 天 

光 明 破 除 一 切 闇,

多 聞 記 憶 萬 德 篇 

彿 法 流 傳 三千 界 

僧 倫 受 化 百 億 川 

後 賢 普 霑醍 醐 味

慶 喜 功 勳 廣 無 邊

A-nan Tôn giả 

Như thị ngã văn ấn tâm điền 

Kết tập tam tạng chiếu địa thiên 

Quang minh phá trừ nhất thiết ám 

Đa văn kí ức vạn đức thiên 

Phật pháp lưu truyền tam thiên giới 

Tăng luân thụ hóa bá ức xuyên 

Hậu hiền phổ triêm đề hồ vị 

Khánh Hỷ công huân quảng vô biên.

Việt dịch

Ruộng tâm gieo hạt “nghe như vậy”,

Ba tạng gồm thâu sáng đất trời.

Quang minh chiếu phá trừ u ám,

Nghe nhiều nhớ kỹ đức truyền đời.

Phật pháp lưu thông ngoài ba cõi,

Tăng đoàn hoằng hóa khắp muôn nơi.

Hậu học hưởng nhờ dòng sữa pháp,

Công ơn Khánh Hỷ thật cao vời.

富 樓 那 尊 者

橫 說 豎 說 塵 剎 說 

法 化 廣 披 度 娑 婆

方 便 權 巧 接 群眾 

感 應 機 宜 潤 枯 凋

逆 來 順 受 行 忍 辱 

毀 至 欣 納 作 知 識

觀 機 逗 教 解 眾 縛 

夢 幻 泡 影 如 是 詳

Phú-lâu-na Tôn giả 

Hoành thuyết thụ thuyết trần sa thuyết  

Pháp hoá quảng phi độ Sa-bà 

Phương tiện quyền xảo tiếp quần chúng  

Cảm ưng cơ nghi nhuận khô điêu 

Nghịch lai thuận thụ hành nhẫn nhục  

Hủy chí hân nạp tác tri thức 

Quan cơ đậu giáo giải chúng phược

Mộng ảo bào ảnh như thị tường.

Việt dịch

Tùy cơ giảng thuyết cứu hữu tình,

Hoằng hóa Ta-bà độ chúng sinh.

Phương tiện khéo léo vì đại chúng,

Mưa pháp đượm nhuần muôn sinh linh.

Dù thuận dù nghịch luôn nhẫn nhục,

Trải qua nghịch cảnh trí tuệ sinh.

Tùy lúc giúp người mở trói buộc,

Thấu triệt vô thường giữa tử sinh.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10669)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10105)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12269)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12002)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16417)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13024)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11726)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9765)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10216)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16514)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10590)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant