Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Không có điều bất thiện nào không thể tịnh hóa hoàn toàn

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9161)
10. Không có điều bất thiện nào không thể tịnh hóa hoàn toàn

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN 3 
NHỮNG BÀI THUYẾT PHÁP

10 
KHÔNG CÓ ĐIỀU BẤT THIỆN NÀO 

KHÔNG THỂ TỊNH HÓA HOÀN TOÀN

Ngay giây phút mặt trời mọc lên, bóng đêm tự động biến mất, tương tự như vậy, khi ánh sáng trí huệ xuất hiện trong tâm bạn thì tự nhiên bóng tối vô minh sẽ biến mất.

Bất cứ khi nào bạn thất vọng, lo lắng, sợ sệt thì cái nhìn của bạn với thế giới sẽ trở nên méo mó hơn bao giờ và các ý niệm sai lệch của bạn tăng trưởng nhanh lên. Khi cái tâm hoang mang, bất mãn của bạn nổi lên, bạn trở nên mơ hồ như đám sương mù. Lúc đó tâm bạn thật đen tối cho dù bạn đang ở ngoài nắng hay trong ánh sáng đèn pha.

Cho nên việc thực hành một pháp yoga Kim Cương thừa có sức mãnh liệt như pháp yoga Heruka Vajrasattva là rất ư lợi lạc vì nó tạo thuận lợi làm nảy nở trí huệ trong tâm bạn.

Đa số các hành giả tâm linh đã phát những lời thệ nguyện, và các lời cam kết đó coi như một phần của việc thực hành tín ngưỡng của họ. Những người thiếu trí huệ, cảm thấy rằng khi họ không còn giữ được sự cam kết thọ giới, họ tưởng như mình đã làm một việc bất thiện không thể thay đổi được nữa và cảm thấy như bị phạm tội vĩnh viễn : “Ồ ! Tôi đã hứa không làm việc đó và bây giờ tôi đã phạm, đã thất hứa. Tôi sẽ không bao giờ được cứu vãn.” Đó là một vọng tưởng lớn lao. Tất cả các hiện tượng tương đối trong thế giới giác quan này đều vô thường, thay đổi luôn. Và bởi bản chất vô thường đó, các hiện tượng sẽ tự chúng kết thúc.
Một vọng tưởng khác nữa là bạn có ý nghĩ thất vọng rằng bạn sẽ không còn hy vọng nữa. “Tôi đã cố gắng như thế, nhưng tôi luôn luôn phạm lỗi lầm.” Điều này không đúng. Không có ai hoàn toàn sai trái. Tất cả chúng ta đều có mặt tích cực và mặt tiêu cực.

Trong giáo lý Kim Cương thừa, Đức Phật dạy rằng những thất bại căn bản trong Kim Cương thừa là từ những thệ nguyện cao nhất, nhưng các giới nguyện đó vẫn lập lại được khi bị phá bỏ. Những sự phạm tội như thế rất là bất thiện, tệ hại nhưng vì nó là các hiện tượng tâm lý nên nó có thể được tịnh hóa.

Trong giới luật tăng ni (Vinaya), một phần của kinh giáo, Đức Phật dạy rằng những hành vi rõ ràngxấu xa như giết người chẳng hạn, không thể nào được tịnh hóa trong một kiếp được. Do đó, nếu bạn đã không giữ được một trong năm giới, bạn có thể cảm thấy rằng bạn trở nên thường xuyên bị bất tịnh và rất lo lắng. Nhưng bạn phải nhớ rằng Đức Bổn sư đã dạy nhiều giáo lý khác nhau tùy theo những nhu cầu tâm lý khác biệt của rất nhiều đệ tử. Kinh giáo đã được giảng dạy cho các đệ tử đã có được mức độ hiểu biết nhất định.

Trong Kim Cương thừa Đức Phật dạy rằng không có những hành vi bất thiện nào không thể được tịnh hóa trọn vẹn bởi các pháp yoga Kim Cương thừa rất mãnh liệt. Do đó bạn đừng bao giờ cảm thấy rằng vì bạn đã bỏ phá giới luật, hay chẳng hạn, đã dính líu vào một trong năm tội lỗi được coi là không thể chuộc lại được, nên bạn sẽ trở thành kẻ phạm tộihy vọng được chuộc lại lỗi lầm.(16)

Ngược lại, bạn không thể suy diễn thuần lý luận rằng vì các hành vi bất thiện đều có thể được tịnh hóa nên bạn tha hồ muốn làm cái gì bạn thích. Một cái ly bị vỡ có thể hàn gắn lại được nhưng sẽ không bao giờ giống y như cái mới. Do đó, mặc dầu các giới nguyện, cam kết của bạn có thể chuộc lại khi bị phạm, nhưng bạn cố giữ trong sạch thì vẫn tốt hơn.

Cách tốt nhất để tu tập sự tịnh hóa theo Heruka Vajra-sattva là tham dự ba tháng ẩn tu, trong thời gian đó bạn sẽ trì chú một trăm ngàn lần. Tôi thường yêu cầu các người tu tập tham dự một kỳ ẩn tu ba tháng khi họ muốn được nhận sự quán đảnh theo Heruka Vajrasattva. Và họ nhập thất ẩn tu ở phương Đông dễ hơn ở phương Tây, nơi khó tìm được thời giờ.

Việc ẩn tu phải được xúc tiến trong những điều kiện đúng đắn, như đã giải thích trong chương ẩn tu của sách này. Rất ít người tu hành đã có khả năng tuân theo những sự hướng dẫn này sát theo từng chữ. Việc theo sát chặt chẽ các kỷ luật ẩn tu lý tưởng thì thật là rất khó được. Tuy nhiên rất nhiều hành giả Tây phương rất tận tâmchân thành, đã cố làm được như vậy và mặc dù sự tập trung tâm linh của họ chưa thể mãnh liệt thế, nhưng đợt ẩn tu ba tháng của họ nhất định đã làm thay đổi tâm thức họ được tốt hơn.

Do đó, việc thực hành việc ẩn tu này rất có lợi lạc, nhưng bạn phải đảm bảo rằng bạn đã tạo được những điều kiện dẫn tới thành công. Nếu tôi đang ngồi đây, rồi có người lấy kim đâm vào da tôi và nói : “Thầy ơi ! hãy thiền định đi !” Thì như vậy không thể nào thiền được. Cũng y như vậy, thật là rất khó để ẩn tu giữa một thành phố đang có những rung động của các năng lực gây hấnham muốn. Đó là lý do tại sao các lama Tây Tạng luôn cố tìm chỗ cô độc hoang vắng yên tĩnh để tu ẩn. Những rung động tốt tự nhiên sẽ giúp bạn tu tập.

Nếu bạn có thể thực hành phương pháp yoga Vajrasattva tương ưng với bài giảng này thì không nghi ngờ gì bạn sẽ nhận được sự tịnh hóa mạnh nhất. Tại sao bạn thiếu trí huệ-hiểu biết và các chứng ngộ ? Bởi vì tâm bạn bị che lấp dày đặc bởi các rung động hư dối bất thiện. Chướng ngại nặng nề của những ý niệm của cái ngã của bạn và một sự bất lực mang nhiều xúc cảm khi đương đầu với các khó khăn đã che lấp tâm thức bạn. Trí huệ không thể nảy sanh trong bầu không khí mù mịt đó.

Truyền thống Đại thừa đặt trọng tâm vào sự phối hợp giữa sự tịnh hóa và thiền định phát sanh trí huệ, hơn là đặt nặng một bên này mà nhẹ bên kia. Khi bạn tịnh hóa được các chướng ngại che ám, trí huệ vỗn sẵn có đó sẽ có cơ hội khai triển. Như vậy, đã không phải đối kháng nhau, mà việc thiền định về con đường có thứ bậc (lam-rim) và sự tịnh hóa theo Vajrasattva còn có tính tương đồng hỗ trợ nhau, và nếu bạn thực hành hai việc này chung với nhau bạn sẽ nhanh chóng đạt những chứng ngộ.

Tôi cũng biết dĩ nhiên không phải ai ai cũng có khả năng tìm ra được hoàn cảnh thích hợp để thực hành ẩn tu ba tháng vào lúc này. Mỗi một chúng ta đều có những trách nhiệm, những ràng buộc quan trọng hơn tùy theo nghiệp lực riêng của mình. Nếu bạn không thể thu xếp để tham dự ẩn tu được thì cũng đừng nên nhận sự quán đảnh rồi sau đó cảm thấy như thể – bằng cách nào đó – bạn là một tù nhân của Pháp. Giáo Pháp của Đức Thế Tôn là để cho sự giải thoát, sự tự do chứ không phải sự nô lệ ! Và những ai trong số các bạn hiện giờ không thể dành thời giờ cho việc tu tập miên mật thì cũng đừng cảm thấy thua sút so với những người có thể tham dự. Bạn phải chấp nhận hoàn cảnh hiện tại của bạn. Sẽ đến một lúc nào đó, bạn có khả năng thu xếp được thời giờ cho điều kiện ẩn tu lý tưởng. Và vào lúc đó bạn sẽ nhận sự quán đảnh nhập môn Vajrasattva kết hợp với việc tham dự ba tháng ẩn tu. Đừng cảm thấy là bạn kém may mắn hay tồi tệ. Điều này không đúng, không có thật. Bạn vẫn rất may mắn. Hàng ngày, bạn có thể tu tập theo “con đường có thứ bậc đưa tới giải thoát” (lam-rim) và thực hiện các đợt ẩn tu ngắn hơn, khi thời gian cho phép.

Để phát triển lòng từ bi của bạn, bạn có thể tham dự đợt ẩn tu theo Avalokiteshvara (Quán Thế Âm). Để có trí huệ, bạn có thể ẩn tu theo Manjushri (Văn Thù Sư Lợi). Để vượt qua sự yếu kémcảm giác thiếu sót, bạn có thể ẩn tu theo Vajrapani. Có nhiều cách ẩn tu khác nhau để phù hợp với sự cần thiết của bạn. Ẩn tu cũng giống như phép chữa bệnh. Ở Tây phương khi bạn ốm bạn cần một cách chữa bệnh để giúp chữa lành bệnh của bạn. Việc ẩn tu cũng vậy : bạn tự đặt bản thân mình vào trong một tình huống, hoàn cảnh nhất định nào đó tùy theo điều trở ngại đặc biệt của bạn là điều gì. Đó là lý do tại sao tôi nói sự ẩn tu cũng giống như dược phẩm, thuốc giải độc cho cả hai : bệnh và triệu chứng.

Tại sao việc tịnh hóa rất mạnh ? Bởi vì trí huệphương tiện đều rất mạnh. Không có một lực siêu nhiên nào trên trời rửa sạch được tội lỗi của bạn. Lực này phải đến từ sự tiếp cận tâm linh của bạn, đó là chiều khóa tâm lý của pháp yoga.

Như tôi đã nói, phương pháp yoga Kim cương Heruka Vajrasattva có thể tịnh hóa những bất thiện tồi tệ nhất bạn có thể tưởng tượng được, bao gồm việc phá hư các giới Kim Cương thừa, Bồ tátbiệt giải thoát. Nó cũng tịnh hóa các triệu chứng của sự bất toại nguyện như tâm thần quá lo lắng, những mặc cảm tự ti, những sự tự kiêu tự đại. Do đó, khi nào bạn thấy bạn đã bỏ lời nguyện, bạn đừng quá xúc động bối rối lo ngại rồi cảm thấy suy sụp tuyệt vọng. Như vậy không khôn ngoan. Thay vì vậy, bạn hãy nhận biết cái gì đã xảy ra, bạn nên hiểu được sự phụ thuộc lẫn nhau (duyên sanh) giữa tâm bất thiện và không kiềm chế của bạn với các điều kiện (duyên) đã khiến bạn bỏ lời nguyện và rồi bạn hãy khéo léo áp dụng các phương pháp tịnh hóa.

Bạn có thể học rất nhiều từ các kinh nghiệm như vậy. Hãy phân tích tâm của bạn ! Về phương diện lý trí, bạn đâu có muốn phạm vào những tội lỗi mà bạn đã hứa không phạm, nhưng tâm không kiềm chế của bạn đã tương tác với các điều kiện và đã ép buộc bạn phạm vào. Do đó, bạn sẽ hiểu được nghiệp lực của bạn và biết xem nó mạnh như thế nào. Từ sự nghiên cứu giáo lý của “con đường có thứ bậc” (lam-rim), bạn biết rằng việc tái sanh làm người rất quý báu này sẽ cho bạn một tiềm năng để làm bất cứ điều gì. Vậy thì làm sao bạn lại cảm thấy tuyệt vọng suy sụp ?

Đừng hạ thấp giá trị các giáo huấn của “con đường có thứ bậc,” nghĩ rằng các giáo huấn đó quá đơn giản đối với bạn, một hành giả vĩ đại của Kim Cương thừa. Các giáo huấn đó không đơn giản tí nào cả mà trái lại, thực sự sâu sắc nhất. Đây không phải là sự phóng đại của một tín đồ chân chính mà là một sự kiện rất khoa học mà bạn có thể tự mình chứng minh bằng cách thấu hiểu và thực hành “con đường thứ bậc” (lam-rim). Bằng cách này bạn có thể rút ra được cái cốt lõi từ đời người quý báu của bạn và thay vì lui sụt, bạn có thể có được sự tinh tấn. Việc này hoàn toàn trong tầm tay bạn.

Một khi bạn hiểu “con đường thứ bậc” một cách thấu đáo, rõ ràng, bạn có thể thấy được những lợi lạc của việc ẩn tu tịnh hóa. Đến lúc đó bạn coi như đã sẵn sàng, thỏa mãn các tiêu chuẩn cho một đợt ẩn tu tịnh hóa. Nếu bạn không biết bạn là ai, là gì, thậm chí bạn không thể tu tập “con đường có thứ bậc” một cách thỏa đáng thì hãy bỏ mặc các phương pháp thâm mật của yoga Kim Cương thừa.

Một khi bạn hiểu được bản chất của cuộc đời bạn và những khả năng mà sự tu tập Pháp đưa đến cho bạn, với trí huệ bạn có thể chọn lựa phương hướng của bạn thay vì bạn mù quáng đi theo những vọng niệm mê muội của bạn như trong vô số kiếp trước đây. Bạn có thể chọn tương lai cho bạn bởi vì bạn biết cách tạo nhân cho tương lai đó. Quá khứ đã chấm dứt, mọi chuyện cũng đã làm rồi. Tại sao lại phải cứ xúc động hoảng hốt với những sự phá giới đã làm, và những hành vi phi đạo đức khác ? Bạn không chỉ làm lãng phí thời gian mà còn chồng chất điều bất thiện này lên trên điều bất thiện khác mà thôi. Nếu, thay vì dùng thuốc giải độc khi bạn nhận thức một điều phi đạo đức, bạn lại xúc động hoảng hốt, như vậy bạn nhân đôi nghiệp ác xấu của bạn. Bạn phải nên tịnh hóa các điều bất thiện đó, chứ đừng trở nên bệnh hoạn hơn nữa.

Mới đây tôi đọc được một tin chủ nhà băng đã tự tử vì ông ta bị bắt tội đã biển thủ tiền quỹ. Đó có phải là lối thoát không ? Ông ta ăn cắp tiền, cảm thấy có tội, xúc động đến mức rối trí hoảng hốt, rồi tự sát. Đó là một ví dụ cho điều tôi đang nói ở đây : ông ta đã tạo nghiệp xấu là ăn cắp, nhưng họ sắp sửa làm gì với ông ta ? Có lẽ họ bỏ tù ông ta. Cũng có lẽ họ tịch thu tài sản ông ta. Nhưng họ không định giết ông ta, phải không ? Tuy nhiên, ông ta không thể chịu đựng nổi việc ông ta mất uy tín nên ông ta tự sát. Chúng ta cũng thế. Chúng ta tạo nên điều bất thiện rồi thì gần như tự giết mình bằng tội lỗiphiền muộn. Như vậy có đáng để làm không ? Chỉ là hoàn toàn tự hủy hoại mình.

Giờ đây những kinh nghiệm mới đang chờ ở tương lai, và bạn có thể thay đổi hướng đi để gặp hay để tránh những kinh nghiệm đó theo như ý bạn. Tôi không muốn nói bạn có được một sức mạnh tâm linh để thấy theo kiểu thần giao cách cảm các chi tiết của tương lai bạn, nhưng tôi ngụ ý rằng bằng việc phân tích các kinh nghiệm quá khứ và dựa theo sự hiểu biết luật nhân quả (nghiệp) bạn có thể rút ra kết luận về những gì bạn nên làm và không nên làm. Bằng cách này thì việc kiểm điểm phân tích sẽ rất có lợi, còn việc lo âu bối rối thì vô ích, kỳ cục.

Nếu cảm thấy buồn rầu và muốn tịnh hóa các việc ghê tởm đã làm thì cũng chưa đủ. Bạn cũng nên nghĩ rằng nếu bạn tiếp tục làm những việc như vậy nữa bạn nhất định sẽ kinh qua những khổ đau to tát hơn trong tương lai. Do đó ngoài việc tịnh hóa nghiệp bất thiện trong quá khứ, bạn còn phải tránh tạo ra các hành vi được phát sanh từ sự ngu si, tham lam, sân hận. Nếu bạn tịnh hóa các hành vi không đạo đức đã tạo ra trong quá khứ và kìm hãm, không tạo thêm nữa trong tương lai thì bạn có thể tránh được quả khổ đau. Yếu tố chính để xác định loại nghiệp đã tạo ra bởi hành động của bạn chính là động cơ của bạn. Nó tùy thuộc vào việc bạn có động cơ thiện hay bất thiện. Mặc dầu tôi đã đề cập ở trước về sự tồi tệ của việc phá giới, bạn chớ nên cảm thấy rằng bằng cách giữ giới bạn đã tự bỏ tù mình. Điều này hoàn toàn ngược lại. Giới luật làm cho bạn tự do. Vài người có cảm giác mất mát sau khi họ thọ giới. Họ cảm thấy như một gánh nặng đè trên vai họ. Nếu bạn hiểu giới luật một cách đúng đắn thì bạn sẽ cảm thấy vui sướng khi bạn thọ giới vì bạn biết rằng bạn sẽ rất khoan khoái, khỏe mạnh trên con đường đi tới bến bờ phúc lạc.

Nếu tâm bạn bị trói buộc giới hạn, bạn rất có thể sẽ cảm thấy tội lỗi tuyệt vọng khi bạn phạm giới. Chẳng hạn trong một ngày bạn hứa thọ tám giới Đại thừa. Trong lễ buổi sáng bạn phát Bồ đề tâm và tha thiết kiên định giữ lời thề giới luậtlợi ích chúng sanh hữu tình. Nhưng chiều tối hôm đó, có người đến cho bạn miếng chô-cô-la. Bạn ăn miếng chô-cô-la theo thói quen, hoàn toàn vô ý thức. Rồi bạn trực nhớ, hoảng sợ nói : “Ôi trời ơi ! Sáng nay tôi đã hứa sau bữa cơm trưa sẽ không ăn gì nữa mà bây giờ tôi bỏ lời hứa. Nhưng nó đã đi qua mất rồi.” Nhiều người phản ứng như vậy. Nhưng cái gì mất rồi ? Không có một cái gì “hoàn toàn mất rồi” như vậy. Bạn đã giữ giới trọn vẹn từ lúc bạn phát lời hứa cho đến khi bạn đã bỏ lời hứa nhưng không chủ định làm vậy. Bạn đã không cố ý bỏ lời hứa. Và, không có một năng lực thiện nào bị mất.

Thay vì tự dằn vặt mình một khi bạn phá giới, thì bạn nên thoải mái tự nói : “Không thể tin được ! Tôi thực sự không có ý định ăn, nhưng thói quen cũ của tôi đã lẻn vào và đánh lừa tôi khi tôi không canh chừng đó.” Hãy cảm thấy vui về thời gian bạn đã giữ giới trọn vẹn trong sạch, và cũng cảm thấy vui khi biết được cách thức tâm bất thiện của bạn nảy sanh và hoạt động. Bằng cách này kinh nghiệm của bạn trở nên trí huệ. Việc giữ giới tăng cường sự tỉnh giác của bạn : nó giúp bạn hiểu được nghiệp ở mức độ sâu nhất bằng cách đem lại cho bạn sự ghi nhận đường lối tinh vi nó tự thể hiện. Nếu bạn không giữ giới bạn sẽ không tỉnh biết những hành vi bất thiện của bạn, cũng như bạn không bao giờ biết rằng chúng nằm sâu trong tiềm thức của bạn.

Không có sự hiểu biết này bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc thực sự. Bạn có thể đã hứa giữ giới rồi sau đó lại hối tiếc. “Ồ ! Tôi đã làm một điều sai. Khi về nhà ở Tây phương, tôi mới nhận ra điều sai lầm đó. Chắc chắn ông lama ở Kopan đã thôi miên tôi.” Tôi đã nói đùa. Nhưng chắc vài người có những ý nghĩ tương đồng như vậy. Thực sự, việc hứa giữ giới đáng cần phải làm cho dù bạn có thể thỉnh thoảng bị phạm. Nếu bạn khôn ngoan kiểm điểm, bạn sẽ nhận ra rằng bạn thực sự may mắn đã phát thệ giữ giới. Bạn không chủ đích phạm giới và bạn sẽ thấy cách thức mà thói quen cũ đẩy bạn đến chỗ phạm giới một cách bất ngờ, không cố ý. Đó là một phát hiện rất có ích. Đó là cách thức bạn triển khai trí huệ của bạn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11534)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11882)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10507)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19478)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13020)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11725)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12778)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8992)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19530)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant