Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

15. Hành động là tất cả

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9742)
15. Hành động là tất cả

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN 3 
NHỮNG BÀI THUYẾT PHÁP

15 
HÀNH ĐỘNG LÀ TẤT CẢ

Chúng ta phải hành chứ không triết lý suông. Các quan niệm triết lý có thể điều chỉnh lại các ý tưởng sai lầm, các cách suy nghĩ lệch lạc, và các sự tin tưởng lầm lạc, nhưng sự sửa sai bằng lý trí thì không đủ. Cùng với sự điều chỉnh đó chúng ta cần một sức mạnh để hướng dẫn tâm chúng ta vào cùng một dòng với triết lý thiêng liêng, đúng đắn của trung đạo.

Chẳng hạn, đức Bổn Sư đã dạy rằng chúng ta phải tránh những điểm cực đoanđi theo trung đạo, vì sự đi theo các thái cực và xa lánh mọi sự sẽ làm cho chúng ta bệnh hoạn. Ngài đã dạy rằng chúng ta phải điều chỉnh cuộc sống chúng ta trên cả hai mặt tương đốituyệt đối. Nhưng những lời khẳng định này vẫn chỉ là quan điểm, ý tưởng phải không ? Cuộc sống chúng ta phải linh hoạt năng động hơn thế. Khi các bạn có đôi bàn tay dơ, các bạn chạm tay vào đất, gieo hạt, tưới nước thì các cây màu xanh sẽ xuất hiện một cách hữu cơ. Sự thực hành Vajrasattva là một công việc giống như vậy.

Việc thiền định Vajrasattva không phức tạp, nó rất đơn giảndễ hiểu. Nó không phải một điều gì cần rất nhiều sự suy nghĩ bằng lý trí. Bạn chỉ việc “làm,” chỉ có mỗi một việc là hành động. Đó là cái chúng ta cần. Nếu không “hành” thì sự chuyển hóa không bao giờ xảy ra. Bất kể chúng ta nghiên cứu học hành bao nhiêu, bất kể bạn thâu gom được bao nhiêu thông tin, nhưng chỉ có bằng cách “hành” mới thực sự giúp bạn hội nhập cuộc sống của bạn. Truyền thống Phật giáo Tây tạng chứa đựng rất nhiều cách thực hành cơ bản (ngošn-dro). Vajrasattva là một trong số đó. Mặc dầu nó rất đơn giản và có tính cách thực hành, nhưng nó là một trong những phương pháp tịnh hóa mãnh liệt nhất mà chúng ta có.

Ban đầu tôi rất nghi ngờ không biết một phương pháptác dụng với người Đông phương thì có tác dụng với người Tây phương hay không, nhưng giờ đây tôi đã thấy hàng trăm người Tây phương ẩn tu theo pháp Vajrasattva đã thành công lớn lao, có sự cải thiện vĩ đại trong tâm họ. Kinh nghiệm này đã làm tôi ngạc nhiênhài lòng, và giờ đây rõ ràng là nó có tính phổ cập rộng rãi.

Đạo Phật luôn nhấn mạnh đến sự thiền định, chánh niệm, tỉnh giác, phương tiện, trí huệ. Mỗi một chữ trong giáo lý đều chỉ dẫn bạn đi vào hướng thấy biết sâu sắc về sự thật. Phương pháp yoga Vajrasattva là một phương tiện rất đơn giản để chỉ cho bạn thấy được bạn là ai. Nó bày ra cho bạn thấy mặt yếu mặt mạnh của bạn và đặc biệt là nó rất có ích, giúp bạn xé toạc tấm màn nặng trĩu của những quan niệm sai lầm đã ngăn không cho bạn thấy thực tại của chính mình. Mặc dù bạn thấy việc thiền định khó khăn hay bạn không tập trung được tốt, nhưng sự tu tập này có thể cho bạn sự thỏa mãn nội tâmmùi vị thật sự của Phật pháp. Do đó, nó rất hữu dụng.

Lúc bình thường động cơ thúc đẩy chúng ta ở mức độ rất thấp, và chúng ta hành động hoàn toàntrần tục. Đôi khi tôi cảm thấy như thể chúng ta đang quản lý một thế giới địa ngục trong các quan hệ con người của chúng ta. Ồ ! Điều nhận xét này có hơi phóng đại, nhưng điều tôi ám chỉchúng ta không sử dụng đủ sự thông minh của con người. Sự thiền định Vajrasattva mang bạn lên, từ mức tâm linh dưới thấp lên tới một tầng lớp tâm thức cao hơn, nhân bản hơn. Bạn đích thực phải làm điều đó. Thế thôi.

Ngoài ra, pháp tu này được kết cấu sao cho trong khi bạn đang thực hành và đang thiền định theo sadhana ở mức độ tỉnh táoý thức thì năng lực thiện hạnh từ trong tiềm thức của bạn sẽ được kích thích hoạt động và được sử dụng để tăng thêm sức mạnh cho việc thực hành của bạn. Đây là một trong những nét đặc trưng tâm lý của Kim Cương thừa và một trong những lý do tại sao việc tu tập này rất mãnh liệt. Kim Cương thừa đưa bạn đến giải thoát bằng cách tác động vào cả hai mức : ý thứctiềm thức, nó dẫn dắt tâm bạn vào con đường có thứ bậc tới giác ngộ.

Hầu hết chúng ta bị hạn chế khi phải nhận biết cho được cả hai khía cạnh nam tính và nữ tính của con người chúng ta. Sự thiền định Vajrasattva hiển bày năng lực hợp nhất phúc lạc nổi bật này bên trong chúng ta. Chúng ta cần cái này. Chúng ta cảm thấy cô đơn bởi vì chúng ta không thấy biết được tổng thể quang cảnh con người nội tâm. Ngày nào chúng ta còn đi theo “tâm nhảy nhót như con khỉ” của chúng ta thì ngày đó chúng ta vẫn không thấy biết được tổng thể đó, và vẫn tiếp tục cô đơn. Vajrasattva chỉ cho bạn thấy cái như là một con người toàn vẹn, cái lưu xuất của tổng thể. Điều này rất ích lợi.

Mật chú Vajrasattva có oai lực mạnh đặc biệt. Tôi gọi đó là “máy truyền hình kỳ diệu.” Bạn thấy những điều lạ ngoạn mục trên máy truyền hình thường ngày của bạn phải không ? Tất cả mọi sự việc sanh tử luân hồi có thể xuất hiện trên màn hình của bạn. Tương tự như vậy, một chú giống như cái máy truyền hình thiêng liêng. Bằng cách chỉ đơn giản là trì tụng mật chú, bạn mang ba phương diện chủ chốt của con đường đạo – buông bỏ, phát Bồ đề tâm và sự thấy biết đúng – vào trong dòng tâm thức của bạn. Sự tự hào thiêng liêng và sự sáng tỏ thiêng liêng cùng đến với bạn. Mật chú rất mãnh liệt bởi vì nó cho phép bạn tiếp cận tới những tầng lớp tâm thức vượt lên trên những tầng lớp thấp trần tục thường ngày mà bạn thường hoạt động.

Những người có xu hướng sử dụng lý trí sẽ thấy khó chuyển hóa được bản thân mình bởi vì họ nghĩ rằng phương cách hoàn thiện phải thông qua tri thức của họ. “Đây là tri thức ; đây là người giải phóng, tri thức là tất cả.” Lý trí không phải là tất cả – hành động mới là tất cả. Chẳng hạn, một người bình thường không có sự học hỏi tri thức lớn lao, khi đi lên một chiếc máy bay phản lực họ vẫn đến được chỗ ngồi họ cần đến. Tương tự như vậy, nếu có một người không nghiên cứu Pháp sâu rộng, khi họ leo lên chiếc may bay phản lực của pháp yoga Vajrasattva thì họ cũng có thể thực hiện được việc chuyển hóa mà không cần lo lắng đến việc phải thu thập sự hiểu biết tri thức.

Trở ngại của chúng ta ở chỗ tri thức, quá tri thức. Chúng ta nói : “Cái này không tốt, tôi không cần cái này, tôi cần cái kia.” Đó là cách chúng ta chọn lựa và đó chính là trở ngại của chúng ta. Tri thức chúng ta gây ra hầu hết sự không thỏa mãn của chúng ta. Chúng ta đã thực hiện rất nhiều chuyến du hành tri thức trong cuộc đời chúng ta, tuy nhiên chúng ta vẫn không thỏa mãn. Bạn có thể thấy điều này rõ ràngTây phương.

Cái cốt lõi hạt nhân của Kim Cương thừa là rằng con người là vị Hóa Thần thiêng liêng. Con người đích thị là đấng tối cao, con người là hóa thần. Tôi phải nhấn mạnh điều này. Chúng ta có các phẩm tính của vị Phật hóa thần ở trong chúng ta. Bạn luôn cho rằng vị Phật, Thánh là một đấng hết sức vi tế thánh thiện và không thể thâm nhập được, nhưng thông qua Kim Cương thừa bạn có thể chạm đến Phật, Thánh, bạn có thể nhận ra được bạn như là vị Phật Hóa thần. Đó là lý do tại sao Kim Cương thừa rất thần lực.

Đạo Phật dạy rằng chướng ngại cơ bản của con người chính là ở tư tưởng kỳ cục cho rằng chúng ta rất vô hy vọng, không có khả năng. Cái lối tự khẳng định như vậy đã gây nguy hại đến phẩm tính con người. Bởi thế chúng ta cần khám phá cái thiêng liêng ở trong chúng ta, các phẩm tính thiêng liêng đã vốn sẵn ở đó rồi. Đạo Phật thật sự rất thực dụng, rất khoa học, rất thực tế ngay ở thế giới này, và rất rốt ráo rõ ràng, trong sáng : con người chắc chắn có một bản tánh trong sạch và các phẩm tính thiêng liêng ở bên trong, cho nên con người phải nhận ra các phẩm tính đó và hợp nhất với chúng. Và, theo đức Phật, cách nhận ra phẩm tính thiêng liêng của chúng ta không phải là đơn giản biết rằng chúng ở đó, mà phải hành động, hành động. Phương pháp hành động là tu tập Kim Cương thừa. Kim Cương thừa không phải thuộc về lời, chữ ; cốt lõi Kim Cương thừa là hành động.

Dĩ nhiên tôi không phải là một đại thiền giả, cũng không phải là tôi đã có nhiều kinh nghiệm. Tôi có phần nào thiển cận, chật hẹp và không chạm tới được thực tại. Tuy nhiên tôi đã thực hiện các đợt ẩn tu mật chú, và kỳ diệu thay, tôi đã kinh nghiệm được một số sự việc trong chừng mực nhất định mà trước đây khi chưa ẩn tu tôi không hề có được. Tôi đã khám phá các phạm vi mới của cuộc sống, một sự thật mới. Mật chúsức mạnh đưa bạn đến một chiều kích mới, một khoảng không gian mới. Đó là điều mà tantra và mantra có thể làm.

Đôi khi các kinh nghiệm mới mẻ này gây ngạc nhiên bất ngờ cho bạn bởi vì chúng khác với cái sự thật thông thường hàng ngày của bạn. Ngược lại, bạn có thể kinh nghiệm được những sự thấy biết rõ ràng trong sáng mà rất ư thật đối với bạn. Dù gì tôi cũng không có ý giải thích tất cả về điều này cho bạn. Tôi chỉ muốn nói rằng sẽ hết sứcgiá trị, rất đáng giá để bạn hành động. Hành động thì đơn giản và trực tiếp. Tôi phải nói như vậy cho bạn biết bởi vì rất nhiều người muốn trở thành hành giả thường bị lẫn lộn bởi nhiều giáo lý và nhiều cách thực hành trong đạo Phật. Họ không biết cái nào để họ làm, cách thực hành nào là thích hợp cho họ. Cuối cùng họ không làm điều gì một cách thỏa đáng được. Nếu bạn có thể tập trung vào các cách thực hành thiền định nhất định và bạn rất chú tâm vào đó khi thực hành, thì tôi bảo đảm bạn sẽ thay đổi tốt hơn.

Do đó, khi tôi ban lễ quán đảnh Vajrasattva, tôi không yêu cầu các bạn cam kết thực hành tu tập hay trì tụng mật chú mỗi ngày suốt đời, nhưng tôi yêu cầu các bạn tham dự ba tháng ẩn tu theo nhóm. Mục đích duy nhất của việc tham dự ẩn tu là để bảo đảm rằng bạn sẽ có được kinh nghiệm, rằng bạn không chỉ thấu hiểu một cách tâm linh mà còn làm cái gì để tự nâng mình lên. Người nào đã ẩn tu thì đã có kinh nghiệm rồi và không cần phải ẩn tu lại.

Tôi hiểu rằng cuộc sống ở Tây phương luôn không cho phép bạn đi khỏi thành phố để ẩn tu trong ba tháng cho nên thỉnh thoảng tôi cũng làm một ngoại lệ. Nếu bạn không có thời gian để thực hiện cuộc ẩn tu nghiêm túc thì bạn có thể tu ở nhà mỗi ngày một giờ đồng hồ cho đến khi bạn trì tụng đủ số lượng mật chú được yêu cầu. Bạn nên cố thực hiện cho xong trong vòng hai hay ba năm.

Điều kiện chính ở đây là bạn phải ngồi trên cùng một tấm lót ngồi. Tâm của chúng ta thường hay thay đổi, chúng ta không thể tập trung cao độ, thường hoàn toàn phân tán, không ngừng tìm kiếm cái gì mới, khác lạ. Đây là một thái độ không lành mạnh. Bạn mất đi sự quán thấy theo chiều sâu, sự tỉnh giác sâu sắc. Đấy không phải vì điều kiện sống luôn thay đổi làm cho bạn mất sáng suốt nhưng vì cuộc sống như vậy làm hỏng việc thiền định. Một hoàn cảnh ổn định sẽ kích thích sự đơn giản hóa, sự trong sáng, khả năng quán thấy, sự tỉnh giác sâu sắc. Nếu chúng ta không bị lệ thuộc vào điều kiện chung quanh thì đó là điều tốt, nhưng bởi vì tâm ta đang còn ở mức thấp, và trong mức này thì môi trường ảnh hưởng đến chúng ta. Mọi thứ đều ảnh hưởng chúng ta : các ngôi sao, các cây có chất độc, rắn, con người, màu sắc. Chúng ta bị ảnh hưởng về phương diện ý thứctiềm thức. Để vượt qua xu hướng bị ảnh hưởng này, chúng ta nên thiền định trên cùng một chỗ ngồi.

Tuy nhiên tôi nghĩ rằng tôi phải tạo ra một sự dung hòa ở đây để thích ứng được với một kiểu sống như ở Mỹ, nơi mà dân chúng di chuyển rất nhiều. Hãy làm một cái thùng thiền định nhỏ vừa hợp được với xe hơi của bạn. Rồi khi bạn di dời nhà có thể mang cái chỗ ngồi này đi theo. Sự thực hành liên tục ngày nào cũng có là rất quan trọng, nên đừng để gián đoạn – bất cứ bạn đi đâu cũng mang cái thùng thiền định này đi theo.

Sự liên-tục-không-ngừng thật sự rất quan trọng. Tất cả chúng ta đã có những giây phút tỉnh giác sâu sắc, bén nhạy, ở lúc đó hầu hết chúng ta có thể nghe được hoa thở ; những giây phút kinh qua được phúc lạc thỏa mãn trọn vẹn khi đó chúng ta đã không hề muốn nhìn thấy bất cứ cái gì khác nữa. Nhưng điều chúng ta thiếu là trạng thái thỏa mãn bởi vì sự tỉnh giác sâu sắc của chúng ta đã bị gián đoạn. Chúng ta lúc nào cũng đến, đi, đến, đi, lên xuống v.v… đó là vấn đề. Thật vậy, tantra trong tiếng Tây tạng là gyušd có nghĩa là sự liên tục và sự liên tục này rất quan trọng nếu chúng ta muốn ở trong hạnh phúc. Nếu bạn đạt được một trạng thái hạnh phúc thỏa mãn nhất định nào đó rồi thì bạn muốn duy trì nó, phải không ? Bạn không muốn chất đầy những bất hạnh ở trong tâm thức. Điều này rất đơn giản, rất hợp lý. Chúng ta có thể nhất định có khả năng để được luôn luôn hợp lý. Vấn đề là khi chúng ta tách lìa trạng thái đó, chúng ta không còn hợp lýtrạng thái đó chỉ có khi chúng ta luôn luôn hiện hành trong hợp lý. Cho nên điều quan trọng là chúng ta duy trì sự liên tục ở trong trạng thái hạnh phúc đó mà không cho phép điều bất hạnh xen vào làm gián đoạn. Do đó sự thực hành liên tục là rất quan trọng.

Ẩn tu thì rất đặc biệt. Nghĩa đen của tiếng Tây tạng tsam (ẩn tu) là sự cô lập. Nhưng cô lập khỏi cái gì – thực tại phải không ? Chúng ta đã bị cô lập khỏi thực tại đó rồi ! Tâm thức chúng ta cần cô lập khỏi những hoàn cảnh mê lầm bên ngoài, những hoàn cảnh mà chúng có xu hướng khiến cho chúng ta mê muội. Nếu bạn có thể tránh khỏi tất cả những thứ đó trong suốt thời gian nhập thất thì sự chuyển hóa tự đến và bạn thậm chí chẳng cần lo lắng gì về nó cả. Và như tôi đã nói ở trên, nếu bạn không thể tự cô lập mình trong một đợt nhập thất nghiêm túc thì điều quan trọng là bạn phải thực hành liên tục mỗi ngày. Nếu có một ngày bạn quá bận không thể dành thì giờ cho một thời thực hành như thường lệ thì bạn thực hành trong nửa giờ. Nếu cũng quá bận thì thực hiện trong hai mươi phút hay mười phút hay năm phút. Phải có sự liên tục. Dòng tâm thức của bạn như một xa lộ cho nên hãy giữ cho năng lực chảy theo xa lộ đó.

Phật thể hiện trong sắc tướng Vajrasattva trắng, rực rỡ. Tại sao Phật thể hiện trong nhiều cách khác nhau ? Bởi vì các chúng hữu tình có những nhu cầu khác biệt và chính Phật đã nói Ngài sẽ thể hiện ở nhiều sắc thân khác nhau để đáp ứng các mong cầu khác biệt đó. Nên chúng ta tin rằng Ngài có thể xuất hiện như là Krishna, hay Jesus, hay một người đàn bà, hay ở dạng cây trà, hay một tội phạm – ở bất kỳ hình tướng nào có thể làm lợi lạc cho mỗi chúng hữu tình để đáp ứng các lời thỉnh cầu của chúng ta.

Để xua tan bóng tối vô minh, Đức Phật biểu lộ tổng thể năng lực thanh tịnh của Ngài trong sắc thân trắng rực rỡ. Bạn tự mình có thể thấy được rằng khi bạn mê lầmbất thiện thì tâm bạn rất đen tối. Sự xuất hiện sắc thân Vajrasattva màu trắng rực rỡ sẽ tịnh hóa tâm đen tối đó.

Khi bạn thực hành thiền định Vajrasattva bạn không nên cảm thấy thối chí “Ồ ! Tôi không thể thực hành trọn vẹn được.” Trọn vẹn là gì ? Bạn phải thiết lập sự trọn vẹn ở mức độ của bạn. Bạn dựng lên một ngôi nhà trong mơ trên một miếng đất trống không ; ở đây bạn dựng lên năng lực trọn vẹn toàn thiện từ sự rỗng rang của tánh Không. Cho nên bạn chỉ có việc là hãy nỗ lực hết mình theo mức khả năng riêng của bạn và đừng mong đợi quá nhiều. Đức Phật không mong đợi tất cả chúng sanh đều có một mức độ như nhau. Tất cả chúng sanh đều thực hành thiền định Vajrasattva, tụng cùng lời kinh, chú, sử dụng cùng một phương tiện nhưng mọi người chúng ta có sự hiểu biết riêng, thế giới tâm thức riêng. Đạo Phật thấu hiểu điều đó. Cho nên, đừng lo âu cố sức để mong được y như người bên cạnh. Hãy thoải mái, hãy giữ mình trong sạch sáng suốt và làm cái bạn có thể làm. Như vậy là tốt lắm rồi.

Khi bạn nhận sự truyền pháp Vajrasattva bạn phải nên có một động lực thúc đẩy mãnh liệt và không chút nghi ngờ. Động cơ thúc đẩy là cái cốt lõi hạt nhân của sự giải thoát. Thái độ đúng đắn đó sẽ giải phóng bạn. Khi bạn tham dự lễ quán đảnh bạn đừng nên tìm kiếm những sự thích thú ngắn ngủi như kiểu đi đến bờ biển hay ăn kem. Nhưng thay vì vậy, bạn nên có một ý định mãnh liệt là làm cho cuộc đời mình có lợi ích cho người khác càng nhiều càng tốt. Đây là một yếu tố quan trọng nhất trong việc thọ lãnh quán đảnh. Và tôi cho rằng các bạn đã có động cơ đó rồi. Đừng có nghĩ rằng : “Ồ ! Tôi đâu có như vậy.” Chắc chắn là bạn có thể tịnh hóa tất cả những điều bất thiện của thân, khẩu, ý thường ngày của bạn và nhờ đó mà khám phá ra thân khẩu ý kim cương.

[Ngài Lama Yeshe ban lễ quán đảnh.]

Giờ đây lễ quán đảnh gần như xong. Theo truyền thống Tây Tạng, vào lúc này, vị Lama sẽ chạm chiếc bánh (torma) vào đỉnh đầu các đệ tử, chiếc bánh này tượng trưng cho vị Thần thiêng liêng như tôi đã giải thích trước đây. Tôi cho rằng truyền thống này là một cải tiến của Tây Tạng chứ không phải có từ thời xa xưa. Các vị Lama rất tử tế, từ tâm và không bận bịu lắm nên họ mới cố gắng đặt tất cả năng lực của họ vào con đường Pháp. Họ làm bánh (torma), chuyển hóa các bánh đó thành ra vị hóa thần thông qua sự thiền định, và rồi chạm vào chiếc bánh đã chuyển hóa lên đỉnh đầu các đệ tử để bảo đảm được rằng các đệ tử sẽ kinh nghiệm được việc Ngài Vajra-sattva đi xuống trong tim họ. Tôi không có ý định thực hiện điều đó hôm nay. Tôi không phản đối việc làm này, nhưng chúng ta đang ở Tây phương và tôi nghĩ rằng Vajrasattva đã ở sẵn trong tim các bạn cho nên không cần thiết để thực hiện nghi lễ đó.

Bạn có thể thấy việc thực hành theo pháp Vajrasattva rất đơn giản nhưng nếu bạn thấy rất khó khăn cho bạn khi quán tưởng vị Thần thiêng ở trên đỉnh đầu bạn, thì bạn quán tưởng ngài Vajrasattva ở luân xa giữa hai lông mày bạn. Nhưng nếu như vậy mà vẫn thấy rất khó, thì thay vì quán tưởng ngài trong sắc tướng như thường lệ bạn có thể quán tưởng nơi luân xa giữa hai lông mày bạn, một chữ OM trắng ở trên một mặt trăngmật chú viền quanh mặt trăng, ngược chiều kim đồng hồ. Khi bạn tập trung vào chữ OM và mật chú, năng lực phúc lạc tỏa ra từ chúng và tràn đầy toàn bộ hệ thống thần kinh của bạn, đẩy tống ra ngoài tất cả rác rưới của các điều bất tịnh, đặc biệt những điều thuộc thân của bạn.

Bạn phải có khả năng cảm thấy được các điều bất tịnh của bạn. Nếu bạn không cảm thấy thì cũng có thể có nghĩa rằng bạn đã đạt tới được một mức độ thanh tịnh nhất định. “Sự thanh tịnh” và “bất tịnh” không phải chỉ đơn thuần tùy thuộc vào tín ngưỡng cũng không nhất thiết là những khái niệm tôn giáo. Trong tâm bạn có một loại chất thể tâm lýtùy thuộc vào cung cách suy nghĩ từ trước đến giờ của bạn. Đó là cái xác định “sự thanh tịnh” hay “bất tịnh” và bạn nên có khả năng theo dõi dò la nó.

Tương tự như vậy, ở nơi luân xa cổ họng có một chữ AH màu đỏ trên mặt trăng, bao quanh bởi mật chú và ở tim một chữ HUM màu xanh trên mặt trăng bao quanh bởi mật chú. Khi bạn trì chú, năng lực phúc lạc xuất phát ra như đã nói ở trước và tịnh hóa các điều bất tịnh thuộc khẩu, tâm của bạn (cổ họng tương ứng với khẩu, tim ứng với tâm). Cho nên thay vì chỉ ngồi rồi cảm thấy cô đơn, bất hạnh hay thấy mình không có khả năng thiền địnhquán tưởng trọn vẹn, thì, bằng hành động bạn có thể thực hành cách thức đơn giản này. Nó rất có tác dụng, nó thực sự khai mở bạn.

Bài giảng chính nói cho bạn biết đa số những việc bạn cần biết để thực hiện đợt ẩn tu Vajrasattva. Nếu bạn nghiên cứu bài giảng đó, bạn sẽ thấy việc ẩn tu tâm thức thật sự có giá trịhiệu quả như thế nào. Ẩn tu không phải là trò đùa. Tất cả chúng ta cần thiết lập một không gianthời gian để nâng tâm của chúng ta lên. Nếu chúng ta không làm thế cho bản thân mình thì làm sao chúng ta triển khai sức mạnh tiềm tàng của con người chúng ta. Các người học đạo nào đã hoàn tất việc ẩn tu có thể giúp giải thích bài giảng chính cho bạn nghe.

Sau đợt ẩn tu, điều tốt cho bạn là thực hiện lễ puja lửa Dorje Khadro mặc dù đó không phải là điều nguyện hứa thực hiện. Một số người đã cảm thấy khó chịu bất an vì họ đã không thực hiện đợt ẩn tu được trọn vẹn như họ lẽ ra có thể được, vì họ đã không trì tụng mật chú đúng cách, hay vì một việc gì đại loại như thế. Lễ puja lửa đốt cháy tất cả nghi ngờ đó, làm cho bạn được trong sạch sáng suốthài lòng với những gì bạn đã làm.

Tôi muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa về sự lợi lạc của những thời thiền ngắn. Hãy thực hành một cách mãnh liệt và tốt đẹp ; và rồi bạn sẽ thích thưởng thức các đợt thiền ngắn đó. Và khi bạn rời khỏi chỗ ngồi thiền bạn luôn có ý muốn quay trở lại chỗ ngồi đó. Như thể cái chỗ ngồi giữ lại được năng lực của những rung động tâm linh tích cực của bạn. Và điều này giúp cho bạn thấy đợt ẩn tu thành ra thoải mái.

Tôi cho rằng thật là tuyệt vời vì bạn là người muốn tu tập pháp tịnh hóa. Ngày nay có rất nhiều năng lực bất tịnh trên khắp hành tinh này, có rất nhiều và đủ loại ô nhiễm. Có ít người biết tới tịnh hóa nói chi đến việc có ý định tu tập tịnh hóa. Bạn rất can đảm. Tôi rất mừng là bạn thật sự cần tịnh hóa năng lực bất hạnh của bạn và muốn có một cuộc sống hạnh phúc. Tịnh hóa bản thân mình một cách đúng đắn sẽ làm lợi lạc cho nhân loại. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm. Tôi cảm thấy rất hoan hỷ vì bạn rất nghiêm túc trong ý muốn tịnh hóa bản thân mình, vì bạn không đạo đức giảchúng ta không lãng phí thời giờ. Tôi còn muốn đi xa hơn nữa khi nói rằng cho dù bạn không sắp sửa hành động, thì chỉ mỗi ý muốn tịnh hóa chính bản thân các bạn như vậy cũng đủ cho tôi rồi. Bạn làm tôi xúc động. Cám ơn rất nhiều.

 









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32606)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12587)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52117)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12527)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16117)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13735)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11962)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11189)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12515)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14863)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11908)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant