Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phương pháp Yoga về Heruka Vajrasattva vinh quang tối thượng

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11625)
1. Phương pháp Yoga về Heruka Vajrasattva vinh quang tối thượng

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

PHƯƠNG PHÁP YOGA 

VỀ HERUKA VAJRASATTVA VINH QUANG TỐI THƯỢNG (23)

Quy y
(Đọc tụng ba lần :)

Vĩnh viễn, con quy y vào Phật, Pháp, Tăng và vào Tăng đoàn của ba thừa, những daka và dakini của yoga mật chú, những anh hùng nam và nữ, chư thiên nam nữ, chư bồ tátđặc biệt vào guru của con.

Phát Bồ đề tâm
(Đọc tụng ba lần :)

Tôi phải trở thành Heruka để dẫn dắt tất cả chúng sanh đến trạng thái Heruka-tánh cao cả.
(Thiền định cái bình : Tập thở chín vòng)

Quán tưởng Heruka Vajrasattva

Từ cái không, khoảng một tấc rưỡi trên đỉnh đầu tôi, xuất hiện chủng tự PAM, nó chuyển hóa thành một hoa sen ngàn cánh. Trên đỉnh hoa sen xuất hiện chủng tự AH, nó chuyển hóa thành một dĩa mặt trăng. Trong trung tâm dĩa mặt trăngchủng tự HUM. Đột nhiên, chữ HUM chuyển hóa thành một chày kim cương năm chỉa với một chữ HUM ở trung tâm. Những ánh sáng rực rỡ phóng ra từ chữ HUM và chày kim cương, đến khắp mười phươnghoàn thành hai mục đích. Toàn vũ trụ tan thành ánh sáng. Rồi ánh sáng này trở lại và thu vào trong chữ HUM trong chày kim cương. Chữ HUM và chày kim cương cũng tan vào ánh sáng và chuyển hóa thành Heruka Vajrasattva.

Vajrasattva màu trắng. Ngài có một mặt và hai cánh tay. Ngài cầm một chày kim cương trong tay phải và một cái chuông trong tay trái. Ngài ngồi trong tư thế hoa sen toàn phần với hai tay trong ấn ôm choàng. Phối ngẫu của ngài, Dorje Nyem-ma, ôm ngài, hai chân bà bao vòng thân ngài. Bà màu trắng, có một mặt và hai cánh tay. Bà cầm một con dao cong trong tay phải và một chén sọ người trong tay trái.

Cả hai vị mặc áo lụa của trời và trang sức với châu báu. (Cả hai có những chủng tự) OM ở luân xa đỉnh đầu, AH ở luân xa cổ họng và HUM ở trái tim. Ánh sáng chói rực từ chữ HUM ở tim phóng ra, cầu thỉnh năng lực trí huệ thiêng liêng tối thượng của tất cả Như Lai.

Dâng cúng Heruka Vajrasattva

OM KHANDA ROHI HUM HUM PHAT (Rửa sạch đồ cúng)
OM SVABHAVA SHUDDAH SARVA DHARMA SVABHAVA SHUDDHO HAM (Tịnh hóa chúng)

Tất cả trống không. Một chủng tự AH xuất hiện từ cái không. Nó biến thành một kapala lớn màu trắng chứa năm thứ thịt và năm cam lồ. Chúng tan thành một đại dương năng lực cam lồ của trí huệ thiêng liêng siêu việt.
(Chú nguyện những đồ cúng bằng cách đọc ba lần :)

OM AH HUM HA HO HRI
(Dâng cúng chúng với :)

OM VAJRASATTVA ARGHAM PRATICCHA HUM SVAHA
(OM Vajrasattva, xin hãy nhận nước chúc mừng HUM SVAHA)

tương tự với PADYAM (nước rửa chân), PUSHPE (hoa), DHUPE (hương, nhang), ALOKE (ánh sáng), GANDHE (hương) NAIVEDYA (thức ăn), và SHABDA (âm thanh, nhạc) thay vào chỗ ARGHAM.

JAH HUM BAM HOH
Trở thành bất nhị.
Quán đảnh bởi chư Phật của năm bộ

Lần nữa ánh sáng rực rỡ phóng từ chữ HUM ở trái tim thiêng liêng, cầu thỉnh tất cả hóa thần quán đảnh của năm bộ.
(Làm những dâng cúng cho các ngài với :)
OM PANCHA KULA SAPARIVARA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA

“Tất cả chư Như Lai, xin ban quán đảnh (Heruka Vajra-sattva) cho con.” Theo lời thỉnh cầu này. Tất cả chư Như Lai cầm lên bình quán đảnh của các ngài, đầy ắp năng lực cam lồ của trí huệ thiêng liêng siêu việt, và cam lồ bắt đầu chảy xuống. Khi thần chú OM SARVA TATHAGATA ABHISHEKATA SAMAYA SHRIYE HUM được đọc, sự quán đảnh được ban cho.

Thân thể thiêng liêng của trí huệ hoàn thiện tuyệt đối, Heruka Vajrasattva, hoàn toàn đầy ắp năng lực cam lồ của trí huệ đại lạc siêu việt. Một số cam lồ tràn ra và biến thành Akshobhya, vị này trang hoàng cho đỉnh đầu ngài.

Chủng tự HUM ở trung tâm dĩa mặt trăng ở trái tim thiêng liêng, bao vòng quanh bởi thần chú một trăm âm (ngược chiều kim đồng hồ quanh viền dĩa mặt trăng).
Những dâng cúng cho Heruka Vajrasattva
OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA
OM VAJRASATTVA OM AH HUM
Tán than

Con đảnh lễ trí huệ thiêng liêng bất nhị, đồ trang sức châu báu rực rỡ bên trong của tất cả chúng sanh là mẹ ; đại lạc tối thượng, bất biến, vĩnh cửu ; tâm trí huệ bất hoại lộng lẫy giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi tất cả bất thiện của thân, ngữ và tâm, đặc biệt là những thệ nguyện cam kết bị hư hỏng.

Cúng dường mạn đà la
(Tùy ý lựa chọn : mạn đà la dài)

OM VAJRA-BHUMI AH HUM ! Đất vàng quyền uy / OM VAJRA-REKHE AH HUM ! Bên ngoài, tường vách chu vi bao vòng, ở trung tâmnúi Tu Di, vua của các núi / châu phía Đông, Videha / châu phía Nam, Jambudvipa / châu phía Tây, Godaniya / châu phía Bắc, Kuru / (những lục địa phụ) Deha và Videha / (phía nam) Camara và Apara-camara / (phía tây) Shatha và Uttaraman-trin / (và phía bắc) Kuru và Kauvara / (Trong bốn châu :) núi quý báu / cây ban cho điều muốn / con bò đáp ứng nguyện vọng / mùa màng không phải canh tác / (trên tầng thứ nhất của Núi Tu Di :) Bánh xe quý báu / Ngọc quý báu / Hoàng Hậu quý báu / Tể Tướng quý báu / Voi quý báu / Ngựa quý báu / Tướng quý báu / Cái Bình của Kho Tàng vĩ đại / (trên tầng thứ hai : tám thiên nữ,) Nữ Thần của sự Duyên dáng / Nữ Thần Tràng Hoa / Nữ Thần Bài Ca / Nữ Thần Khiêu Vũ / Nữ Thần Hoa / Nữ Thần Hương / Nữ Thần Đèn / Nữ Thần Hương Thơm / (trên tầng thứ ba :) mặt trời / mặt trăng / lọng báu / cờ phướn chiến thắng ở mọi góc / Ở trung tâm, những giàu có hoàn hảo nhất của chư thiênloài người, không thiếu sót thứ gì, thanh tịnhhân hoan / Con dâng cúng tất cả những thứ ấy như là một cõi Phật đến bổn sư và các guru truyền dòng rất đỗi từ ái, vinh quang và linh thánh / và đặc biệt đến Guru Vajrasattva bổn tôn // Xin hãy chấp nhận chúng với lòng bi mẫnchúng sanh luân lạc. Đã nhận chúng rồi, xin ban sự cảm ứng của các ngài cho con và tất cả chúng sanh luân lạc là mẹ khắp cả không gian từ lòng đại bi của các ngài.

(Tùy ý lựa chọn : mạn đà la ngắn)
Đất này tẩm ướp hương thơm, rải rắc bằng hoa,
Trang hoàng với núi Tu Di, bốn châu, mặt trờimặt trăng,
Con dâng cúng trong quán tưởng như cõi chư Phật.
Nguyện tất cả chúng sanh thọ hưởng tịnh độ này như vậy.

Mạn đà la bí mật

Chánh kiến về tánh Không là một với trí huệ của đại lạc. Trí huệ này chuyển hóa thành núi Tu Di, mặt trời, mặt trăng, và mọi hiện tượng khác trong vũ trụ. Con dâng cúng tất cả những thứ tráng lệ cho ngài, đại dương của đại từ, bậc giải thoátgiải thoát cho muôn loài.

Mạn đà la bên trong

Xin ban phước cho con và tất cả chúng sanh để được giải thoát tức thời khỏi ba độc, để con dâng cúng không mảy may ngần ngại hay bám luyến tất cả những đối tượng của tham, sân, si của con ; bạn bè, kẻ thù, và người xa lạ ; và thân thể con và tất cả tài sản của con. Xin chấp nhận tất cả những thứ này.

IDAM GURU RATNA MANDALAKAM NIRYATAYAMI
Tịnh hóa

“Thế Tôn Vajrasattva, xin tịnh hóa mọi bất thiện và những thệ nguyện bị hư hoại của chính con và tất cả chúng sanh.”

Vì lời thỉnh cầu này, ánh sáng rực rỡ phóng ra từ chuỗi thần chú và chữ HUM ở trái tim thiêng liêng. Nó tịnh hóa mọi bất thiện và che chướng của tất cả chúng sanhtrở thành một đồ dâng cúng cho tất cả chư Phật chư Bồ tát. Tinh túy của những phẩm tính toàn thiện của thân, ngữ, tâm linh thánh của các ngài trở lại thành ánh sáng, ánh sáng này tan vào chữ HUM và chuỗi thần chú.

(Từ chữ HUM và chuỗi thần chú) một dòng năng lực cam lồ lạc phúc màu trắng bắt đầu chảy xuống qua những luân xa của cặp đôi thiêng liêng. Nó chảy qua luân xa của sự kết hợpđi vào luân xa đỉnh đầu của tôi. Dòng cam lồ của trí huệ siêu việt này tràn đầy toàn thân tôi, phá hủy mọi bất thiện và che chướng của thân, ngữ, tâm của tôi. Những cái ấy hoàn toàn được tịnh hóa.

Trì tụng thần chú

OM VAJRA HERUKA SAMAYAM ANUPALAYA. HERUKA TENOPATISHTHA. DRIDHO ME BHAVA, SUTOSHYO ME BHAVA, SUPOSHYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVA SIDDHIM ME PRAYACCHA, SARVA KARMA SUCHA ME CHITTAM SHREYAH KURU, HUM ! HA HA HA HA HOH ! BHAGAVAN VAJRA HERUKA MA ME MUNCHA, HERUKA BHAVA MAHA SAMAYA SATTVA AH HUM PHAT !

Những dâng cúng và tán than

OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA
OM VAJRASATTVA OM AH HUM

Trí huệ bất nhị thiêng liêng, châu báu trang sức lộng lẫy bên trong của tất cả chúng sanh hữu tình là mẹ ; đại lạc tối thượng bất biến thường tồn ; tâm trí huệ tráng lệ bất hoại giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi mọi bất thiện của thân, ngữ, tâm, đặc biệt cho những thệ nguyện và cam kết bị hư hoại : con xin đảnh lễ ngài.

Quy y Heruka Vajrasattva

Bởi vô minhmê lầm, con đã làm hư hoại những cam kết của con. Hỡi Guru thiêng liêng, bậc có thần lực để giải thoát cho con, bậc đạo sư bên trong của con, bậc cầm giữ kim cương, bậc mà tinh túyđại bi vô ngại, Đấng của tất cả chúng sanh luân lạc, con quy y ngài.

Hòa tan

Vajrasattva nói, “Thiện nam tử (hay thiện nữ nhân), những bất thiện và che chướng và những cam kết bị hư hoại của con đã được tẩy sạch và tịnh hóa.” Bấy giờ ngài hòa tan vào trong tôi. Ba cửa (thân, ngữ, tâm) của tôi trở thành một, không tách lìa với thân, ngữ, tâm thiêng liêng của Vajrasattva.

Hồi hướng

Nhờ công đức này, nguyện tôi nhanh chóng trở thành Heruka Vajrasattva và dẫn dắt mỗi chúng sanh vào cảnh giới giác ngộ thiêng liêng.

Lời bạt

Vì sự thỉnh cầu khuyến khích từ nhiều người Tây phương thông tuệ cần đến một bản văn sadhana thực hành Vajrasattva để tẩy trừ những chướng ngại và làm lợi cho những giai đoạn của con đường và là một sơ khởi cho thiền định về hai giai đoạn (của tantra yoga tối thượng) một người được gọi là Muni Jnana (Thubten Yeshe) đã viết bản văn này như một đoạn trừ khẩn cấp mê lầm, thế nên người ấy cầu xin tha thứ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10366)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12333)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13003)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11441)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12370)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17437)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53026)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21387)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19233)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14375)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16071)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17569)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13114)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14501)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20460)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18985)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19555)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18645)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12179)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12295)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13853)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15023)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13987)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15508)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11391)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17186)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14971)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20190)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14609)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13836)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11705)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15054)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11646)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13164)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11493)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant