Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16422)
98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

98. Kinh Vàsettha
(Vàsettha sutta)

Như vầy tôi nghe. 

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala. 

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Thanh niên Bharadvaja nói như sau: 

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Vasettha nói như sau: 

-- Nếu ai có giới hạnhthành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja: 

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì

-- Thưa vâng. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn

Chúng con cả hai người, 
Ðược tôn xưng, tự nhận, 

Là những bậc thông thái

Cả ba tập Vệ-đà. 

Con là đệ tử Ngài, 
Pokkharasati, 

Còn vị thanh niên này, 

Ðệ tử Tarukkha. 

Ba Vệ-đà nói gì, 
Chúng con đều thông đạt

Văn cúvăn phạm

Chúng con đều thấu hiểu, 

Thuyết giảnggiải thích

Thật giống bậc Ðạo sư. 

Tôn giả Gotama, 
Giữa hai người chúng con

Có sự tranh luận này, 

Về huyết thống thọ sanh. 

Bharadvaja nói: 
"Chính do sự thọ sanh".

Con nói: "Do hành động, 

Mới thành Bà-la-môn".

Mong bậc có Pháp nhãn
Hiểu cho là như vậy.

Cả hai người chúng con, 

Không thể thuyết phục nhau. 

Chúng con đến hỏi Ngài, 

Bậc Chánh Giác tôn xưng. 

Như trăng được tròn đầy, 
Quần chúng đến chấp tay,

Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng

Cũng vậy, ở trong đời

Quần chúng đến đảnh lễ

Gotama Tôn giả

Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Pháp nhãn thế gian

Bà-la-môn do sanh, 

Hay chính do hành động? 

Chúng con không được biết, 

Hãy nói chúng con biết. 

Ðức Thế Tôn bèn nói:
Này Ông Vasettha, 
Ta trả lời cho Ông, 

Thuận thứnhư thật

Sự phân loại do sanh, 

Của các loại hữu tình

Chính do sự sanh đẻ, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem cỏ và cây, 
Dầu chúng không nhận thức

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại côn trùng, 
Bướm đêm, các loại kiến, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại bốn chân, 
Loại nhỏ và loại lớn, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loài bò sát, 
Loại rắn, loại lưng dài, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước, 

Chúng có tướng thọ sanh,

Da sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại chim, 
Loại có cánh trên trời

Chúng có tướng thọ sanh,

Do sanh, có dị loại. 

Tùy theo sự thọ sanh, 
Chúng có tướng tùy sanh. 

Trong thế giới loài Người

Tướng sanh không có nhiều.

Không ở đầu mái tóc, 
Không ở tai, ở mắt,

Không ở miệng, ở mũi, 

Không ở môi, ở mày, 

Không ở cổ, ở nách, 

Không ở bụng, ở lưng, 

Không ở ngực, ở vú, 

Không âm hộ, hành dâm. 

Không ở tay, ở chân, 
Không ở ngón, ở móng, 

Không ở cổ chân, vế, 

Không ở sắc, ở tiếng. 

Không tướng, do tùy sanh, 
Tùy sanh, loại sai khác.

Trên tự thân con người

Không có gì đặc biệt

Chỉ tùy theo danh xưng, 

Loài Người được kêu gọi.

Ðối người tự sinh sống. 
Chăn bò, lo ruộng đất, 

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nông phu, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống theo nghề nghiệp, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là công thợ, 

Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề buôn bán, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là thương nhân

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống hầu hạ người, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nô bộc

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống lấy của người,
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là kẻ trộm

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề cung tên, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nhà binh, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề tế tự, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là tế quan

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống giữa loài Người
Thọ hưởng làng, quốc độ

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là vua chúa, 

Không phải Bà-la-môn. 

Và Ta không có gọi, 
Kẻ ấy Bà-la-môn. 

Chỉ vì do thọ sanh, 

Dầu vị ấy cao sang, 

Dầu vị ấy giàu có

Nhưng còn ham thế lợi. 

Không tham lam thế lợi, 
Không chấp thủ sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Vị đoạn tận kiết sử
Không ai không sợ hãi

Siêu việt mọi chấp trước

Thoát ly các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Cắt dây thừng, dây ách, 
Dây cương, cùng dây trói, 

Quăng đi cây chắn ngang, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Bậc sáng suốt, giác ngộ

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không lỗi, chịu đựng
Nhiếc mắng cùng đánh trói, 

Trang bị với nhẫn lực

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không phẫn nộ, giữ luật, 
giới hạnh không kiêu, 

Nhiếp phục, thân tối hậu

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Như nước trên lá sen
Hột cải trên đỉnh nhọn, 

Không tham luyến dục vọng

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận, 

Gánh nặng được đặt xuống, 

Xa lìa các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo, 

Ðích tối thượng đạt được

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không còn liên hệ
Cả tại gia, xuất gia

Không nhà trú, thiểu dục

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Bỏ gậy đối chúng sanh
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh, 

Không giết, không hại ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Giữa kẻ thù, không thù, 
Giữa hung bạo, an tịnh

Giữa chấp thủ, không chấp

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dối, tham, sân, mạn, phú, 
Ai bỏ rơi được chúng, 

Như hột cải rơi khỏi. 

Ðầu nhọn của mũi kim, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai dạy thật nhỏ nhẹ
Nói lên lời chơn thực, 

Không xúc chạm một ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dài ngắn hay lớn nhỏ, 
Thanh tịnh hay bất tịnh

Ở đời vật dài ngắn, 

Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh

Không lấy vật không cho, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Với ai không tham cầu, 
Ðời này và đời sau

Từ bỏ mọi tham cầu, 

Ðoạn rời mọi hệ phược,

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp tàng, 
Với trí đoạn nghi hoặc

Ðạt nhập đáy bất tử

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời ai vượt khỏi, 
Mọi buộc ràng thiện ác

Không sầu, không bụi uế, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không uế, thanh tịnh
Không gợn, sáng như trăng, 

Hỷ, hữu được đoạn trừ, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai vượt qua hiểm lộ, 
Ác lộ, luân hồi, si, 

Vượt khỏi, đến bờ kia, 

Thiền tư, không dao động

Ðoạn trừ mọi nghi hoặc

An tịnh, không chấp trước, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ dục vọng
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ dục và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chanh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ tham ác, 
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ ác và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai từ bỏ nhân ách, 
Vượt qua cả thiên ách, 

Ðoạn trừ mọi ách nạn, 

Thoát ly mọi hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Từ bỏ lạc, bất lạc
Thanh lương, không y trú, 

Chiến thắng mọi thế giới

Bậc anh hùng dũng mãnh

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết thật hoàn toàn
Sự sanh diệt chúng sanh

Không tham trước, Thiện Thệ

Giác ngộ, đạt chánh giác

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không biết chỗ sở thủ
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, 

Lậu hoặc được đoạn trừ, 

Bậc �ng Cúng, La-Hán, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp trước
Ðời trước, sau, đời này, 

Không chấp, không sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ngưu vương, bậc Tối thắng
Anh hùng, bậc Ðại sĩ, 

Bậc Chinh phục, Bất động

Tắm sạch, bậc Giác Ngộ

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết được đời trước, 
Thấy được thiện, ác thú

Ðạt được sanh diệt đoạn, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc", 

Chỉ tục danh, thông danh, 

Danh từ khởi nhiều chỗ. 

Ðã lâu đời chấp trước
Tà kiến của kẻ ngu,

Kẻ ngu tự tuyên bố

Bà-la-môn do sanh. 

Không phải do sanh đẻ, 
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Không phải do sanh đẻ, 

Gọi phi Bà-la-môn. 

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Chính do sự hành động

Gọi phi Bà-la-môn. 

Hành động làm nông phu, 
Hành động làm công thợ, 

Hành động làm lái buôn, 

Hành động làm nô bộc

Hành động làm ăn trộm
Hành động làm nhà binh. 

Hành động làm tế quan

Hành động làm vua chúa. 

Kẻ trí thấy hành động, 
Như thật là như vậy. 

Thấy rõ lý duyên khởi

Biết rõ nghiệp dị thục.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi

Nghiệp trói buộc chúng sanh

Như trục xe quay bánh. 

Do khổ hạnh, Phạm hạnh
Tiết chếchế ngự

Tác thành Bà-la-môn. 

Bà-la-môn như vậy, 

Mới thật là tối thượng

Ba Vệ-đà thành tựu
An tịnh, tái sanh đoạn, 

Vesettha nên biết, 

Kẻ ấy được Phạm thiên

Ðược Thiên chủ Sakka, 

Biết đến thật tường tận. 

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Phápquy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10384)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11651)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28812)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12055)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13013)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11447)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35493)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12409)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26048)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14384)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16092)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16850)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17588)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13134)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12539)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11613)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11619)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20488)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18661)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12189)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12322)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13866)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15032)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15527)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17199)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14983)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20210)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14627)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13848)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11712)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15066)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14561)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11661)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16890)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11948)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11506)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15858)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12892)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18922)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18429)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant