Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 3

13 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10877)
Trang 3

Hỏi:

 Ngài Mục Kiền Liên là người đã chứng ngộ, tại sao còn bị nhân quả? Nhân quả là ở trong chiêm bao, nhưng ngài Mục Kiền Liên đã thoát ra khỏi chiêm bao mà vẫn bị chiêm bao chi phối?

Đáp:
 Phật Thích Ca muốn cho người ta tin nhân quả nên mới dùng phương tiện. Như trong Hư Vân Niên Phổ nói: “Tiền thân của Phật là đứa bé đánh con cá lớn 3 cái, mà bây giờ Phật bị nhức đầu”. Theo lẽ thường người ta nói chân thật chưa chắc tin, còn Phật nói là “lời của tôi không phải thật”, đừng có chấp thật mà muốn người ta tin. Vì Phật nói xong là phủ nhận liền, như Phật nói: “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ”, kinh Kim Cang nói: “Ai nói Phật có thuyết phápphỉ báng Phật”, như thế có phải mâu thuẩn không?

 Chẳng có pháp để thuyết mới gọi là thuyết pháp. Phật rất sợ người ta chấp vào lời của Phật, nên Phật vừa nói xong thì phủ nhận liền. Như mình cho có vô minhsanh tử, đến chừng kiến tánh thấy rõ ràng không có sanh tử. Nhân quả trong chiêm bao, ra khỏi chiêm bao thì hết nhân quả. Tổ Đạt Ma nói trong Pháp Môn An Tâm: “Kiến tánh triệt để thì nhân quả đều hết”.

 -Pháp môn an tâm của Tổ Đạt Ma:

Lúc mê thì người đuổi theo pháp (còn pháp chấp), lúc ngộ thì pháp thuận theo người (pháp chấp đã dứt sạch); lúc mê thì sắc thân làm chủ của tâm, lúc ngộ thì tâm làm chủ sắc thân. Hễ khởi tâm phân biệt đo lường thì hiện lượng tâm thức đều như mộng huyễn chẳng thật. Nếu tâm thức tịch diệt, chẳng còn chỗ niệm khởi, ấy gọi là chánh giác.

Hỏi:
 Thế nào là hiện lượng của tâm thức?

Đáp:
 Thấy tất cả pháp có, có chẳng tự có, do tự tâm chấp thật thành có; thấy tất cả pháp không, không chẳng tự không, do tự tâm chấp thật thành không. Bất cứ pháp nào cũng thế, đều do tự tâm chấp có chấp không mà thành.

Nếu tạo tất cả tội, mà người ấy tự kiến Pháp Vương (kiến tính triệt để, từ mở mắt chiêm bao thức tỉnh) thì liền được giải thoát. Hễ từ nơi ấy “sự” ngộ được thì sức dụng mạnh, nơi tự kiến pháp tính, bất cứ lúc nào cũng chẳng mất chánh niệm. Còn nơi văn tự ngộ được thì sức dụng yếu kém vậy.

“Sự” tức là “pháp”, pháp tức là sự, sự và pháp chẳng hai chẳng khác, mặc cho ông nhảy nhót nhào lộn, đủ thứ tạo tác đều chẳng ra ngoài phạm vi của pháp giới. Muốn đem pháp giới dung nạp pháp giới ấy là ngu si, vì bất cứ làm việc gì cũng chẳng thể ra ngoài pháp giới tâm được. Tại sao? Vì tâm thể và sự vật tức là pháp giới, cũng gọi là “hiện lượng” của tâm (hiện lượng tức là thật tướng, chẳng phải hiển hiện số lượng vậy).

Hỏi:
 Người thế gian đủ thứ tu học, tại sao chẳng đắc đạo?

Đáp:
 Vì thấy có “ta” nên chẳng đắc đạo. Bậc Thánh gặp khổ chẳng lo, gặp vui chẳng mừng, ấy là do chẳng thấy có “ta” nên chẳng màng khổ vui. Do quên hẳn cái “ta” nên đến được chỗ vô vi. “Ta” còn tự quên thì còn việc gì mà chẳng quên ư!

Hỏi:
 Pháp tức là Không thì còn ai tu đạo ư?

Đáp:
 Có “ai” mới cần tu đạo, nếu chẳng có “ai” thì chẳng cần tu đạo. Cái “ai” này tức là “ta”, nếu không chấp ngã, gặp bất cứ sự vật gì cũng chẳng sanh tâm thị phi. “Thị” do ta tự thị mà sự vật chẳng thị, “phi” cũng do ta tự phi mà sự vật chẳng phi, nơi tâm vô tâm, ấy gọi là thông đạt Phật đạo; đối cảnh chẳng khởi tri kiến gọi là đạt đạo. Hễ gặp sự vật nào cũng liễu đạt nguồn gốc của nó thì có thể khai mở huệ nhãn.

 Người trí tùy thuận sự vật chẳng tùy thuận bản ngã (ngã chấp đã dứt sạch) nên không có thuận nghịch lấy bỏ; kẻ ngu tùy thuận bản ngã (ngã chấp còn) mà chẳng tùy thuận sự vật nên có thuận nghịch lấy bỏ.

 Chẳng thấy một vật gọi là kiến đạo (thấy vật chẳng chấp thật, thấy đồng như chẳng thấy); chẳng hành một vật gọi là hành đạo. Nơi tất cả xứ sở mà quên xứ sở (chẳng chấp thật có xứ sở đồng như không có xứ sở). Đang lúc tạo tác chẳng có năng tác, sở tác, tức là thấy Phật; lúc thấy tất cả tướng tức là có cái kiến chấp để chấp tướng, nên đọa địa ngục, do quán chiếu thấu triệt Pháp tính nên được giải thoát. Hễ có ghi nhớ phân biệt đều thuộc về chảo dầu sôi, lò lửa than, liền hiện tướng sanh tử. Nếu thấy được Pháp giới tính (tính Niết Bàn) tức là kiến tánh, chẳng ghi nhớ phân biệt tức là Pháp tính vậy.

 Do tâm chẳng phải là sắc (vật chất) nên phi hữu, thường dụng chẳng gián đoạn nên phi vô; dụng mà thường Không nên phi hữu, không mà thường dụng nên phi vô (Tâm như hư không vô sở hữudung nạp vạn vật nên Không mà thường dụng, dụng mà thường Không vậy).

 Tại người đó tư tưởng chấp thật thì mới sanh ra đủ thứ phiền não mới có đủ thứ vấn đề.

Hỏi:
 Muôn niệm từ đâu khởi?

Đáp:
 Từ bộ não.

Hỏi:
 Tâm là cái gì?

Đáp:
 Phật cũng không biết nữa. Vì nó không phải là sở tri.

Hỏi:
 Có phải khi kiến tánh mới biết là cái gì khởi phải không?

Đáp:
 Chưa kiến tánh cũng biết vậy. Ban đêm khởi niệm gọi là nhắm mắt chiêm bao, ban ngày khởi niệm gọi là mở mắt chiêm bao. Niệm niệm không dứt, tại do vọng tâm hoạt động hoài.

Hỏi:
 Ngài Địa Tạng Bồ Tát có phải là Mục Kiền Liên Bồ Tát không?

Đáp:
 Người đó ngu mới hỏi như vậy.

Hỏi:
 Có người bạn con thầu bán căn tin ở một xí nghiệp do con định bán cơm chay và nước, nhưng do yêu cầu công nhân ăn mặn, nếu con bán thức ăn mặn thì có nhân quả không?

Đáp:
 Nếu lấy cái đó làm lời thì có nhân quả.

Hỏi:
 Con phát nguyện hiến thân cho ngành y để nghiên cứu sau khi con chết, nhưng con của con không đồng ý giao cho y khoa thì con của con có bị tội không?

Đáp:
 Người nào làm người nấy chịu, nhưng người nào ra lệnh thì người đó phải chịu. Việc ấy không phải tội mà là nhân quả, nhân quả thì do tâm tạo, khởi tâm động niệm đều có nhân quả, mặc dầu chưa làm cũng có nhân quả.

Hỏi:
 Pháp Bảo Đàn Kinh nói: “Niệm trước chẳng sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”. Kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
 Như người ta hỏi “tham thiền sắp kiến tánh, sắp kiến tánh thì sắp biết phải không”? Tôi nói “không phải, không thể nói là sắp biết, tại vì cái tâm mình đâu có ngưng biết, nó ngưng rồi biết lại mới nói là sắp biết”. Nếu tâm không có ngưng làm sao có tiền niệm hậu niệm? Cũng như ánh sáng mặt trời đâu có tiền (trước) hậu (sau)? Nếu hỏi ‘trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu có được không’? Không được. Vì mặt trời đâu có ngưng chiếu mà nói sắp chiếu? Rồi mặt trời làm sao có trước sau? Nó không có ngưng chiếu thì không có trước sau.

Hỏi:
Quy y Tam Bảo là gì?

Đáp:
Quy là trở về, y là y nhờ, tức là trước kia không biết, bây giờ biết thì trở về y nhờ Tam Bảo. Tam BảoPhật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo.

 Y nhờ Tam Bảo để làm gì? Là được sự giáo hóa của Tam Bảo theo đó tu hành được giải thoát tất cả khổ, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn. Đó là mục đích quy y.

 Chữ “Phật” là tiếng Ấn Độ nghĩa là giác ngộ. Tại sao cần phải giác ngộ? Vì nếu không giác ngộ thì phải ở trong chiêm bao mãi, chịu cái khổ trong chiêm bao, cứ luân hồi lục đạo trong chiêm bao chịu khổ hoài không được giải thoát cái khổ sanh tử. Nên cần phải giác ngộ tức là ở trong mở mắt chiêm bao thức tỉnh. Vì vậy mình phải theo sự giáo hóa của Tam Bảothực hành Pháp Bảo do Phật truyền dạy thì mới được giác ngộ, nên mới nhờ Pháp Bảo.

 Cũng như quý vị học tham thiền, pháp môn tham thiền giúp quý vị đến chỗ giác ngộ giải thoát tất cả khổ đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn, nên pháp này gọi là Pháp Bảo.

 Nhưng có Phật BảoPháp Bảo rồi, phải có Tăng trực tiếp giáo hóa chúng sanh. Nếu có Phật BảoPháp Bảo mà không có Tăng Bảo thì cũng như không có. Cho nên cần có Tăng Bảo từ đời từ đời đem Pháp Bảo truyền dạy cho chúng sanh, đúng theo đó tu hành được giải thoát.

Tăng dịch âm tiếng Ấn ĐộTăng Già nghĩa là hòa hợp chúng tức là phải nhiều người hòa hợp, theo giới luật thì có 4 vị Tăng hòa hợp mới thành Tăng. Tăng là Tăng đoàn chứ không phải một vị. Quy y Tam Bảo là không quy y một thầy nào, cũng như tôi thay mặt cho Tam Bảo để chứng minh quý vị đã quy y Tam Bảo đã là đệ tử của Tam Bảo nghe theo lời dạy của Tam Bảo để tu hành đến chỗ giác ngộ.

Hỏi:
Ngũ giới là gì?

Đáp:
Ngũ giới là: Sát sanhTrộm cắpTà dâmVọng ngữ – Uống rượu.

1-Giới sát sanh: Là không được giết hại chúng sanh. Bất cứ chúng sanh loài hữu tình nhỏ như con kiến, con muỗi,… cho đến lớn như con trâu, con bò,… và con người thì không được giết hại.

2-Giới trộm cắp: Là tất cả đồ vật của người chủ không đồng ý mà mình lấy, gọi là trộm cắp. Nếu những đồ của cha, mẹ, anh, em dùng qua dùng lại thì không gọi là trộm cắp. Mặc dầu tiền của cha, mẹ, anh, em có giữ riêng, nếu chưa có sự đồng ý mà lấy thì cũng thuộc trộm cắp.

3-Giới tà dâm: Là ngoài vợ chồng mà quan hệ dâm thì cấm, còn vợ chồng chánh thức thì không cấm dâm. Việc này ở ngoài đời thì pháp luật cũng cấm. Đó là vai trò bổn phận làm chồng hay làm vợ.

4-Giới vọng ngữ: Gồm có 4 thứ: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt.

-Vọng ngôn: Là có nói không có, không có nói có, tức là nói gạt nói láo.

-Ỷ ngữ: Là nói lời thêu dệt nghĩa là nói chuyện quan hệ dâm dục của nam nữ.

-Ác khẩu: Là chửi mắng người ta.

-Lưỡng thiệt: Là nói hai chiều, tức là người bên này nói xấu người kia, người bên kia nói xấu người này, làm cho hai bên gây lộn đánh lộn.

5-Giới uống rượu: Đáng lẽ uống rượu không có hại đến ai. Nếu uống rượu say thì có thể phạm đến 4 giới trước (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ), vì say nên tự mình không kềm chế được. Cho nên, nhà Phật phải cấm uống rượu.

Sát, đạo (trộm), dâm, vọng gọi là tánh giới. Bốn giới này là căn bản của nhà Phật. 5 giới của người Phật tử tại gia, 10 giới Sa Di, Sa Di Ni, 250 giới Tỳ Kheo, 348 giới Tỳ Kheo Ni, 10 giới trọng 48 giới khinh của Bồ Tát đều là lấy 4 giới này làm căn bản. 4 giới này thuộc về tánh giới. Không những thọ giới rồi mà lại phá giới thì có tội, không có thọ giới mà phạm thì cũng có tội nhân quả, tức là phải chịu quả báo.

Nhưng sám hối có thể sám diệt được tội phạm giới, còn tội nhân quả không thể sám được. Nhân nào quả nấy thì phải chịu quả báo. Không phải thuộc về tánh giới là giá giới như giới uống rượu có thể khai tức là uống không có phạm. Tại sao? Như có bệnh mà thầy thuốc bảo uống thuốc rượu mới trị được bệnh thì mình có thể công khai uống rượu để trị bệnh nên không phạm. Nếu mình uống lén thì phạm hay uống lộn rượu cũng không phạm hoặc những thứ có tên rượu mà uống không say, như cơm rượu, bỏ rượu vào đồ ăn không thể say thì không phạm.

Nhưng tánh giới không thể khai, nhưng có thể sám hối. Sám rồi là hối cải không phạm nữa.

Hỏi:
 Đi trên đường lỡ đạp nhầm con trùng thì có bị tội không?

Đáp:
 Mỗi năm đến mùa kiết hạ, chư Tăng không ra ngoài đường là tránh đạp nhầm côn trùng, vì mùa hạ ít lạnh côn trùng ra ngoài đường nhiều. Theo Phật pháp là tất cả do tâm tạo, nếu tâm không biết thì không có nhân, không có nhân thì không có quả. Giữ được thiền giới (không biết) thì không có phạm, lúc biết thì phạm. Nếu có phản ứng tự nhiên thì cũng phải có quả tự nhiên.

-Như vậy có tội rồi phải không?

-Việc ấy không phải tội, mà là việc nhân quả. Tức là tạo nhân nào thì chịu quả ấy. Mình cố ý phạm pháp luật ở ngoài đời tức là có tội cấm nên bị người ta bắt, giết gà vịt thì đối pháp luật ngoài đời không có tội, mà có tội nhân quả. Phạm giới mới coi là tội, mà có thể sám hối diệt tội phạm giới thì không còn tội. Như tội nặng cách mấy nhưng sám hối thì được hết.

Như tội ba la di là tội hạng nhất của người xuất gia, phải bị 9 triệu năm địa ngục, nếu được sám hối thì hết tội. Còn nhân quả thì khác, nhân nào quả nấy. Như bây giờ mình vô ýphản ứng tự nhiên đập chết con muỗi giống như mình ra ngoài đường bị xe cán chết. Chiếc xe vô ý cán chết người thì pháp luật cũng phạt người lái xe. Nên tâm cố tình thì bị quả cố tình, tâm vô ý thì bị quả vô ý.

Hỏi:
 Người chồng bán đồ mặn để nuôi vợ con, người vợ phát tâm tu. Như vậy có lọt vào nhân quả không?

Đáp:
Người nào có quyền mà chủ trương làm thì chịu nhân quả, còn người cấp dưới không có quyền là chỉ nghe lệnh cấp trên thì không bị nhân quả. Cũng có trường hợp cấp trên sai cấp dưới đi giết hại thì cấp dưới cũng phải bị nhân quả.

Hỏi:
 Những người ăn thịt không thấy con vật bị giết hay không thấy con vật đau khổ la lên, vậy những người ăn thịt đó có mắc tội nhân quả không?

Đáp:
 Có mắc tội nhân quả. Kinh Lăng Nghiêmkinh Lăng Già nói: “Ăn tam tịnh nhục, ngũ tịnh nhục đều cấm”. Không nghe, không thấy, không vì mình mà giết gọi là tam tịnh nhục, rồi thêm cầm thú ăn dư hay con vật tự chết, côïng chung là 5 thứ gọi là ngũ tịnh nhục. Mình dùng đồ có liên quan đến thân thể của con vật thì cũng có dính líu nhân quả, như dùng giày làm bằng da trâu bò, áo lông thú,…

Hỏi:
 Có người ăn thịt khỉ, đến khi bệnh thì có hành vi leo cây, nhảy nhót như khỉ. Người vợ của người ăn thịt khỉ thắc mắc sao nghiệp báo đến nhanh quá?

Đáp:
 Nghiệp nào nặng thì trả trước, như nghiệp thiện nhiều hơn nghiệp ác thì phước báo đến trước, nghiệp ác nhiều hơn nghiệp thiện thì việc xấu đến trước. Tức là nhân mạnh thì quả mau đến, nhân yếu thì quả đến sau. Có một vị phát minh thuốc phòng tê liệt để trị cho người khác thì được, nhưng chính ông đó lại bị tê liệt mà dùng thuốc của ông thì không chữa được, nên lúc ông gần chết rất khổ.

Tại sao? Đó là quả báo của ông. Trong khi giúp người ta được phải thí nghiệm biết bao nhiêu con thỏ con chuột chịu đau khổ rồi mới chết. Cho nên trong khi sống ông bị quả báo chứ không đợi đến kiếp sau mới có quả báo.

 Vì vậy, nhà khoa học Einstein ăn chay trường là ông sợ quả báo.

Hỏi:
 Con đã ăn chay trường lâu rồi, nhưng người mẹ của con không chịu ăn chay thì con phải làm cách nào để cho bà ăn chay?

Đáp:
 Ở Thượng Hải, có ông chủ ngân hàng ăn chay trường, nhưng khuyên mẹ ăn chay lần nào cũng bị rầy. Ông không khuyên nữa, bảo nhà bếp làm chay thật ngon nhưng không nói là đồ chay. Bà mẹ ăn chay được 2 năm mà không biết mình ăn chay. Đến lần sanh nhật của bà, ông chủ ngân hàng mới nói với bà mẹ rằng: “Sanh nhật của mẹ, mời tất cả mọi người đều dự tiệc chay và mẹ cũng ăn chay”.

 Bà nói: Aên không được mà cứ nói ăn chay hoài!

 Ông ấy nói: Mẹ đã ăn chay được hai năm rồi mà! Tại sao còn nói không được?

 Bà nói: Sao nói tôi ăn chay 2 năm?

 Ông ấy nói: Mẹ cứ hỏi các vị nhà bếp?

Về sau bà ấy không còn nói gì về việc ăn chay nữa.

-Mấy đứa em của con nói con bất hiếu và nói sao không mua thịt cho mẹ ăn? Rồi mấy đứa em chửi con hoài! Tại sao?

 -Tại vì cô không biết dùng phương tiện. Nếu hại cha mẹ chịu quả báo mới là bất hiếu. Mấy đứa em có chửi cũng mặc kệ. Như ông chủ ngân hàng cũng bị mẹ ông chửi vậy.

Hỏi:
 Bát quan trai là gì?

Đáp:
 Bát quan traiphương tiện cho người tại gia tập tu một ngày một đêm cuộc sống xuất gia, nên có qui định một ngày một đêm. Theo giới luật của nhà Phật là khi thọ giới thì được xả giới, còn bát quan trai khỏi cần xả, vì thọ giới bát quan traiquy định chỉ được một ngày một đêm thì tới giờ tự xả. Như ngũ giới là cấm tà dâm, nhưng thọ giới bát quan trai là giới xuất gia một ngày một đêm thì tà dâm và chánh dâm đều cấm.

 Bát quan là 8 thứ quan ải (cấm), tức là 9 giới của10 giới Sa Di, trừ ra giới cầm tiền bạc, vì người Phật tử không có thể lìa tiền bạc được. Trai là ăn ngọ.

 Giới dâm là quan hệ sinh lý rất khó giữ. Các cầm thú như cọp, beo, sư tử,… mình cho nó là ác thú. Nhưng nó dâm dục vì sự truyền giống, ngoài sự truyền giống thì nó không dâm dục, nó giết hại con khác vì sự đói của nó, còn nó no thì không giết hại. Con người thì không phải vậy, không phải vì để no mà giết hại, không phải vì truyền giống mà dâm dục! Cho nên, nhà Phật phải cấm, mà lại rất là khó cấm. Tu sĩ có thêm 5 giới để làm hàng rào giữ giới dâm.

 Bát quan trai như cái cầu để cho người ta tu giải thoát. Thói quen của con người rất khó sửa, nên phải tập sửa lần lần. Theo qui định người thọ giới Bồ Tát mỗi tháng phải thọ 6 ngày bát quan trai (2 ngày cuối tháng, mùng 1, rằm, mùng 8 và 23). Nếu đã tập quen thì ngày nào mình cũng có thể thọ bát quan trai được. Tức là mình ở nhà tiếp tục tu như mình đến chùa, gọi là thân tại gia nhưng tâm xuất gia. Như Lục Tổ nói: “Thân tại gia mà tâm xuất gia, còn tốt hơn thân xuất gia mà tâm tại gia”. Những người thân xuất gia mà tâm tại gia là những người tạo tội địa ngục.

Hỏi:
 Con tham thoại đầu giữ nghi tình, con mắt con vẫn thấy cảnh vật cũng như không thấy, nhưng vẫn đi đứng được và con không biết trời biết đất biết ta gì nữa, rồi câu thoại đầu cũng biến mất. Như vậy là thế nào?

Đáp:
 Biết câu thoại đầu biến mất thì không được rồi, đừng có biết, cứ giữ cái không biết là đủ. Nếu nghi tình còn thì không biết thì mấy cái kia khỏi cần nói.

 -Làm thế nào để tăng nghi tình lên?

 -Như vậy là muốn tìm hiểu cho biết làm chi nữa? Đã giữ không biết là chấm dứt tìm hiểu.

 -Đến giai đoạn nào thì nghi tình thành khối?

 -Vì ông muốn tìm hiểu nghi tình là nghịch với tham thiền. Đã biết tham thiền là “không biết” mà! Không biết là chấm dứt tìm hiểu, bây giờ không chịu chấm dứt tìm hiểu mà lại tìm hiểu nghi tình, tức là không có tham thiền.

Sơ lược cách tham Tổ Sư thiền:

 Cách thực hành rất giản dị chỉ là hỏi và nhìn, hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là nhìn chỗ không biết. Như hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” thì khởi lên một niệm không biết, khán là nhìn chỗ không biết, chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, nên nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết, chính vẫn còn không biết đó gọi là nghi tình. Cứ hỏi và nhìn, hai cái một lượt đi song song để giữ nghi tình, thì nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật.

 Năm năm trước, mỗi năm tôi đều có đi Canada một lần để hoằng Tổ Sư thiền. Ở bên Mỹ có 10 Phật tử đi theo, trong đó có 2 mẹ con, người mẹ là tên Nguyệt Anh có đứa con mới 3 tuổi (4 tuổi ta) cùng đi theo. Đứa bé được mẹ nó dạy tập tham thiền khoảng mấy tháng. Đến thành phố lớn nhất của Canada là Toronto có quán khoa học, trong đó có máy vi tính để mình thử hoạt động của bộ óc. Khi để tay trên bộ phận máy vi tính thì đèn ở trên sáng lên. Những người theo tôi đi Canada đều là hành giả tham thiền đều thử qua máy này, lúc hỏi và nhìn thì đèn sáng lên từ trên xuống cùng rồi đèn tắt.

 Tôi thường nói con nít 6, 7 tuổi và bà già 70, 80 tuổi đều biết tham thiền. Nhưng đứa bé mới 3 tuổi, tôi chưa tin nó tham thiền được, sẵn có máy để thử coi. Tôi ẳm nó trên đầu gối tôi, tôi lấy tay nó đè trên máy thì đèn cũng sáng ở trên, tôi bảo nó tham thiền đi, nó tham khi chưa có trời đất ta là cái gì? Thì đèn ở trên sáng rồi xuống dưới cùng tắt luôn.

 Lúc đó những người da trắng đứng kế bên nói: Các vị sao hay quá! Người nào thử thì đèn đều xuống được, luôn đứa bé thử, đèn cũng xuống được, tại sao chúng tôi làm không được? Muốn đèn xuống một chút cũng không được vậy?

-Nói với họ: Bộ óc bớt suy nghĩ thì đèn mới xuống được.

 -Họ nói: Tôi không suy nghĩ sao đèn không xuống?

Họ nói không suy nghĩ nhưng bộ óc họ không nghe lời theo. Như những người bị mất ngủ, cứ suy nghĩ hoài, muốn ngưng suy nghĩ cũng không được. Nếu ngưng suy nghĩ thì không bị mất ngủ. Đứa bé khi thử thì đèn còn xuống nhanh hơn người lớn.

Tại sao? Ở trong 10 người có cô Hành Thiền thợ may công phu được tự động hóa rồi, cô đang cắt may khỏi cần qua óc, nhưng cũng cắt xong bộ đồ. Tại sao cô biết khỏi cần qua óc? Ban đầu cũng để ý ghi thước tấc vào trong sổ theo thước tấc mà cắt, khi tham thiền nghi tình đến tự động cuồng cuồng nổi lên, nhưng cô ấy vẫn còn cắt. Khi cắt xong chợt nhớ lại “vừa rồi mình không biết, chắc cắt lộn, nên phải thường cho người ta”, nhưng xét lại thì không có lộn. Cái đó may xong mà người ta còn khen đẹp hơn kỳ trước. Từ đó về sau cô ấy cắt cứ cắt, không biết gì hết, rồi cũng cắt xong và cắt từ sáng đến chiều mà không thấy mệt. Cô ấy chỉ cắt còn người khác thì may.

Sau này cô Hành Thiền qua Mỹ vẫn cắt may; cô Duy Nghi tốt nghiệp thiết kế, thiết kế một kiểu rất phức tạp, đem cho những thợ may nghiên cứu để cắt mấy ngày làm không được, rồi nhờ cô Hành Thiền cắt, cô ấy khỏi cần nghiên cứu vẫn cắt được, vì khỏi cần qua bộ óc là do bộ óc không biết.

Lúc ở Canada, cô Hằng Thiền đo máy vi tính thì đèn tắt chậm hơn đèn của đứa bé đo máy vi tính. Vì cô Hành Thiền là người lớn đã biết quá nhiều nên phải dùng công phu dẹp cái biết, còn đứa bé thì chưa biết gì tức là không biết sẵn nên tham thiền dễ tắt đèn nhanh hơn.

Như vậy chỉ cần dùng cái không biết, nên đứa bé 3 tuổi vẫn tham thiền được. Rồi về Mỹ nó dạy mấy đứa nhỏ tham thiền, nhưng mấy đứa đó là 7, 8 tuổi hỏi nó “tại sao mày không dạy mấy đứa bằng mày”? Nó trả lời “tụi nó không biết”. Vì kiếp trước nó có thể đã tham thiền rồi, nên bây giờ nó 3 tuổi tham thiền được. Vậy nó là thành phần đặc biệt.

Hỏi:
 Theo Phật dạy là “nhân nào quả nấy”, con không hiểu tại sao vào ngày rằm tháng giêng, trong hàng Phật tử đến chùa cúng sao giải hạn, thậm chí cũng có quý thầy thúc giục quở trách Phật tử nào không cúng sao một năm sẽ gặp rắc rối về bổn mạng. Vậy điều này có hợp chánh pháp không?

Đáp:
 Những việc này là tà mạng thực nên Phật cấm, nhưng người ta không chịu nghe lời Phật dạy. Nếu đã tin nhân quả thì còn hỏi những việc đó làm chi! Vì người đó không tin nhân quả nên mới hỏi.

Thượng tọa Minh Hiền thay mặt đại chúng có lời cảm tạ:

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

-Kính bạch Hoà thượng phó chủ tịch hội đồng trị sự giáo hội trung ương, kiêm Tổng thư ký giáo hội Phật giáo Việt Namtrụ trì chùa Hưng Phước.

-Kính bạch Sư Phụ.

Chúng con từ lâu khát ngưỡng tu tập Thiền tông, được sự hướng dẫn của Hòa thượng Thích Duy Lực. Để đáp sự thỉnh cầu của chúng con, Hòa thượng cho phép đả Thiền thất tại chùa Hưng Phước trong suốt một tuần qua, công ơn của Hòa thượng không biết gì hơn, toàn thể đại chúng vân tập đảnh lễ cảm niệm Hòa thượng đã dành cho chúng con nhiều thuận duyên tu tập, vậy toàn thể Tăng Ni Phật tử đảnh lễ Hòa thượngSư Phụ chứng minh .
 Nam mô bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật.

Lời đáp từ của Hòa thượng Hiển Pháp viện chủ chùa Hưng Phước:

-Kính bạch Hòa thượng Thiền sư.

-Kính bạch chư đại đức Tăng Ni và thưa các vị Hành Giả đả thiền thất.

Thật ra, đối với Thiền sư Duy Lực thì chỉ biết và kết duyên. Sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, lúc bấy giờ giáo hội phân công cho chúng tôi làm chủ nhiệm tổ hợp tác xã sản xuất và mua bán, trong thời buổi kinh tế khó khăn, nên chúng tôi nghĩ rằng chỉ có các chùa của người Hoa có tiền dự trử, nên chúng tôi có nhờ Hòa thượng tổ chức một cuộc họp các vị trụ trì người Hoa ở tại Chợ Lớn, được Hòa thượng hứa khả, nhờ hỗ trợ một số vốn cho hợp tác xã lúc thời bấy giờ.

Trong lúc kinh tế thời bao cấp khó khăn, mà tín dụng ở bên ngoài, các vị cũng biết họ cho vay tiền lãi 15% hay 20%. Chúng tôi cũng được Hòa thượng được số tiền tương đối, cho mượn mà không có lời, hứa một năm rồi trả, chúng tôi cũng hoàn trả đủ hết theo uy tín của Phật giáo.

Từ đó Hòa thượng có tổ chức những kỳ thiền thất, lúc đầu ở tại Từ Aân, sau đó ở tại Pháp Thành, sau này cũng khó khăn nên thiền thất chỗ này chỗ khác, từ nội bộ Từ Aân như vậy, chúng tôi hết sức chua xót, là muốn tìm một địa điểm để hỗ trợ trong việc hướng dẫn tu hành cho Tăng NiPhật tử. Một năm về trước chúng tôi có thỉnh Hòa thượng về đây một hai lần, rồi ở văn phòng 2 trung ương giáo hội, chúng tôi tổ chức được một lần.

Lần này chúng tôi bàn thầy Minh Hiền, vì địa điểm và hoàn cảnh chật chội, có khó khăn, nên quý vị cũng hơi vất vả trong việc tu học trong tuần lễ mỗi tháng, mong quý vị thông cảm cho nhà chùa chúng tôi. Nếu có đủ duyên thì chúng tôi tổ chức cho đàng hoàng hơn, cũng mong sao việc định cư của Hòa thượng hoặc trở về Việt Nam tiếp tục hướng dẫn các Phật tử tu học xuyên suốt. Điều này là sự mong muốn của giáo hội cũng như chúng tôi, còn những duyên khúc khiểu ở bên ngoài, chúng tôi nghĩ rằng mình sẽ khắc phục được.

Nhân kỳ đả thiền thất năm Kỷ Mẹo này, nếu không có gì trở ngại thì hằng tháng chúng ta sẽ tổ chức thiền thất. Trong một tuần lễ tu học vừa qua chúng tôi ghi nhận công đức của Hòa thượng Thiền sư, cũng mong Hòa thượng nhiều sức khỏetiếp tục dìu dắt cho Tăng, Ni, Tín đồ. Và cũng kính chúc cho Tăng, Ni, Phật tử được tinh tấn tu học, làm sao đạt được mục đích Thiền tông theo sự hướng dẫn của Hòa thượng.

Trước hết cảm ơn Hòa thượng Thiền sư và xin cảm ơn tất cả chư Tăng, Ni và quý Phật tử. Lần nữa cầu chúc chư vị được tinh tấn.

 Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát.

KHÓA BỒI DƯỠNG THIỀN HỌC TẠI CHÙA LONG KHÁNH (BÌNH ĐỊNH)
13 – 4 – 1999 

 Tâm là cái gì? Nguồn gốc Phật pháp là tâm, ai cũng nói được, mà chẳng có ai biết, vì chân tâm vô hình vô tướng không có số lượng, mọi người đều có. Chư Phật nói tâm như hư không vô sở hữu; Ngài Long Thọ là Tổ thứ 14 Thiền tông có giảng trong Trí Độ Luận; Ở trong Phật pháp với Thiền tông, tôi có giải thích.

 Ngài Long Thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”. Vô sở hữu là không có hư không, mà dung nạpứng dụng, ấy là cái thực dụng. Như bây giờ nhà cửa đất đai, cây cối, núi sông đều phải nhờ vô sở hữu này dung nạpứng dụng, nhưng hiện nay, các vị ngồi đây cũng nhờ vô sở hữu mới có chỗ ngồi.

 Vô sở hữu tức là trống rỗng, Phật pháp nói là Tánh Không, vì trống rỗng mới hiện bày cái dụng. Tâm mình trống rỗng, không bị thời gian không gian hạn chế, nên tất cả vũ trụ vạn vật đều ở trong đó. Nhưng cái thông minh của bộ não làm hạn chế lại, như cái tách bít lại là cái tách chết không dùng được, cái bình nầy cũng vậy, nó có cái KHÔNG mới đựng nước được. Tất cả các thứ muốn dùng đều phải nhờ cái KHÔNG.

 Ngài Long Thọ nói: Trống rỗng mới dùng được, nếu không trống rỗng thì không dung nạp và không dùng được. Như cái tách bị bể thì không còn dùng được, còn hư không trống rỗng thì không bị thời gian, không gian hạn chế. Cái tách bị không gian thời gian hạn chế, nếu cái gì có thể tiêu mất thì không chân thật.

 Có và không là phân biệt của bộ não, vì có và không là nhị biên tương đối, Phật pháp không có tương đối. Trong Trung Quán Luận phá tương đối. Có là pháp hữu vi, không là pháp vô vi. Trong đó phẩm Quán Như Lai, Quán Niết Bàn đều phá pháp vô vi. Quán Nhân Duyên, Quán Khứ Lai,… đều phá pháp hữu vi.

 Phàm có tương đối đều phá. Vì sao lại phá? Vì nó không phải thực tế, thực tế thì không có tương đối; nhưng cuộc sống hằng ngày đều phải nhờ tương đối, cũng như mình hiện giờ ở trong mở mắt chiêm bao.

 Trong biểu đồ Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, có 2 bộ phận: Thật thể và hư thể, ở chính giữa là Diệu giác. Diệu giác là cái biết cao nhất. Vừa rồi tôi nói: Trống rỗng mới dung nạp tức là tánh không, không này chẳng phải cái không chết, không này có cái biết cao nhất của Diệu giác. Cái biết này không phải cái biết của bộ não, cái biết bộ não gọi là vọng tâm. Còn cái biết chuyển thành trí gọi là chân tâm. Thức chưa chuyển thành tứ trí thì nó hợp tác với hệ thống thần kinh bộ não, tức là lục căn gọi là vọng tâm. Cuộc sống hằng ngày ở trong vọng tâm, vì mình ở trong chiêm bao.

 Triết Học, Tự Nhiên Khoa Học, Y Học, Tâm Lý Học; 4 thứ hợp lại giải quyết cơ thể của mình chưa đầy đủ. Tại sao? Vì họ không phân biệt được lục căn, lục thức. Lục căn đảm nhiệm chức vụ gì? Lục thức đảm nhiệm chức vụ gì? Tất cả đều không rõ mà chỉ biết bộ não. Thức thứ 6 và thức thứ 7 thì hoàn toàn không biết, cho nên họ giải thích không thông, như các giáo sư trường đại học, nghi thiếu cái gì nhưng không biết.

 Quyển Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 giải thích rõ và đầy đủ hơn 4 đại học hợp lại. Duy thức nhà Phật diễn giải thông suốt tất cả. Trong thật thể biểu đồ: Nhãn căn như cây đèn đảm nhiệm sự chiếu soi, nhãn thức thì phân biệt. Tức là nhờ nhãn căn chiếu soi thấy chậu bông thì nhãn thức mới nhận ra màu trắng, đỏ, vàng, xanh; đồng thời có thức thứ 6 để giúp. Nhãn căn chiếu soi hiện cái hình ra, còn nhãn thức phân biệt cái hình gì, thức thứ 6 phân biệt đầy đủ hơn; nhãn thức chỉ phân biệt cố định, thức thứ 6 có tánh khả biến. Vì tánh khả biến bao gồm tam tánh: Thiện, ác và vô ký.

 Tam tánh gồm có: Biến kế chấp, y tha khởi và viên thành thật. Thiện ác thì người nào cũng biết, nhưng không có rõ, không có tiêu chuẩn. Tôi muốn hoằng dương với người tây phương, nên mới nói có tiêu chuẩn. Thế nào gọi là thiện? Thế nào gọi là ác? Trong cuốn Vũ Trụ Quan có giải thích kỹ.

 Đã nói nhãn căn rồi, thì các căn kia cũng như vậy; chỉ có ý căn nhiều người chưa hiểu; ý căn đảm nhiệm suy nghĩ, còn ý thức theo đó phân biệt thiện, ác… ý căný thức khác nhau.

 Thức thứ 7 có 2 nhiệm vụ:

-Ngày đêm chấp thức thứ 8 là TA (thức thứ 8 là bản thể của vũ trụ, là bao gồm tất cả các chủng tử vũ trụ, cũng là bản thể của tâm mình. Đầu thai đến trước và chết đi sau cùng là do thức này).

-Truyền tống thức: Đem chủng tử thiện nghiệp, ác nghiệp của thức thứ 6 hay không thiện không ác truyền vô thức thứ 8 (còn gọi là tạng thức hay kho tàng), khi nào chủng tử chín mùi, thì nó truyền ra giao cho thức thứ 6 đi thi hành. Cái nào tâm lực mạnh thì cái quả đến trước, cái nào tâm lực yếu thì cái quả đến sau, có khi kiếp này tạo cái nhân, kiếp sau mới nhận cái quả, hoặc là 10 kiếp, 100 kiếp mới nhận cái quả.

 Nếu tu Tổ Sư Thiền, tăng cường sức mạnh của tâm, tức là tạo nhân mạnh thì quả đến liền. Mặc dầu tạo nhân ác nhiều kiếp trước, nhưng nó yếu hơn nên quả đến sau. Ví dụ như tạo nhân là 1 độ, mà tham thiền 10 độ thì quả tham thiền đến trước, đến hết rồi thì tới quả 9 độ, 8 độ, cuối cùng đến quả 1 độ.

 Nếu tham thiền được 10 độ, mà không ngưng tham lại tiến thêm 100 độ, 1000 độ, 1000000 độ cho đến thành Phật thì cái nhân ác không có cơ hội đến được. Thành Phật rồi phải độ chúng sanh nào có nhân duyên. Trong kinh Kim Cang nói: Tiền thân Phật Thích Ca bị Ca Lợi Vương xẻ thân ra từng miếng, mà Phật Thích Ca lại độ ông ấy trước. Ca Lợi Vương sau này là tôn giả Kiều Trần Như.

 Bất cứ chủng tử thiện ác, một khi đã chín mùi thì cái quả mới đến, nhân yếu dời lại sau, nhân mạnh thì đến trước. Cho nên tự mình có thể sửa đổi nhân quả, nhưng người khác không sửa được. Như ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ, ngài đã chứng quả A La Hán được đệ nhất thần thông, nhưng không cứu được cái nghiệp mẹ ngài là bà Thanh Đề; phải nhờ tâm lực của1250 vị Tỳ Kheo A La Hán hợp lại mới chiêu cảm được tâm bà Thanh Đề, rồi tâm bà tự chuyển ra khỏi cõi ngạ quỷ.

 Nhân quả là vậy! Ai ăn người nấy no, con cái có hiếu không ăn no dùng cho cha mẹ, cha mẹ thương con cách mấy cũng không ăn no giùm cho con.

Hỏi:
 Những người tinh tấn tu thiền thất, phiền não chưa dứt, vậy cuối cùng cuộc đời người ấy có được giải thoát không?

Đáp:
 Vừa rồi nói là tùy theo sức lực của mình tạo nhân, như kiếp trước mình tạo nhân ác, làm cho người ta bị chết đói, nếu kiếp này tâm lực chỉ 1 độ, cũng phải chịu quả chết đói. Bây giờ tham thiền từ 1 độ lên đến 2 độ, 3 độ cho đến 10 độ và mình chỉ làm việc lành, không làm việc ác thì phước báo đến trước, quả chết đói dời lại sau. Nếu tham thiền được 10 độ mà không tu nữa thì quả 10 độ hết, rồi đến quả 9 độ, 8 độ, cứ dần dần đến 1 độ thì quả chết đói cũng phải tới.

 Tham thiền được 10 độ không ngưng tham, lại tiến thêm 100 độ, 1000 độ, 1000000 độ, cho đến thành Phật thì quả chết đói không đến được, nhưng nhân đó không có tiêu mất, nên thành Phật còn phải độ chúng sanh, người mình làm cho chết đói, được ưu tiên độ họ trước thì nhân chết đói mới tiêu mất, vì thế mình không bị chết đói.

Hỏi:
 Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận nói: Giải ngộ rồi tu chơn như tam muội thì mới ngộ nhập được, còn tu thoại đầu công án chưa giải ngộ, có phải tu giống như ngoại đạo không?

Đáp:
 Ấy là người đó không có rõ, cuộc sống hằng ngày đều phải dùng ý thức (bộ não). Bộ não gồm có 2 mặt: Biết và không biết. Người ta dùng mặt biết để tu gọi là Như Lai thiền, như Tịnh Độ tông, Thiên Thai tông, Hiền Thủ tông, Duy Thức tông,… theo phổ thông giáo môn có 52 cấp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác.

 Dùng không biết để tu là Tổ Sư thiền không có cấp bậc, tức từ địa vị phàm phu tu chứng lên Đẳng Giác. Từ Đẳng Giác tiến thêm một cấp nữa gọi là Diệu Giác tức là quả Phật. Vì người hỏi không hiểu, cho nên câu hỏi không đúng.

Hỏi:
 Tông chỉ Thiền tôngbất lập văn tự, tại sao những bản văn bất hũ, những án văn tuyệt tác, mà lại do các Thiền sư để lại?

Đáp:
 Lục Tổ nói trong Pháp Bảo Đàn: Chính 2 chữ “bất lập” cũng là văn tự vậy! Kinh Lăng Già cũng nói: “Văn tự tánh lìa”. Nếu không dùng văn tự thì Phật pháp bây giờ không còn, Thiền tông cũng vậy. Có văn tự nhưng không chấp vào văn tự, tất cả cũng đều không chấp. Phật phápphá chấp trước của chúng sanh, nếu không chấp trước thì tất cả các pháp đều là Phật pháp, tức là theo thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng (kinh Đại Niết Bàn) .

Hỏi:
 Thế gian Thánh Phàm khác biệt, phàm phu ngoài tâm chấp pháp, vọng lập kiến văn; bậc Thánh đã ngộ nhất tâm, tại còn có tri kiến như phàm phu?

Đáp:
 Bậc Thánh dù có tri kiến, nhưng thấu rõ vật như huyễn, chẳng sanh chấp trước. Kinh Đại Niết Bàn nói:

 Bồ Tát Ca Diếp bạch Phật: Thế Tôn! Nếu như phiền não sanh bởi điên đảo tưởng, thì tại sao bậc Thánh thật có điên đảo mà không có phiền não?

 Phật hỏi: Sao nói bậc Thánh có điên đảo tưởng?

 Bồ Tát Ca Diếp đáp: Bạch Thế Tôn! Tất cả Bồ Tát gọi con trâu là con trâu, con ngựa là ngựa, gọi nam, nữ lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ,… ấy là điên đảo tưởng.

 Phật nói: Tất cả phàm phu có 2 thứ tưởng: thế lưu bố tưởng (thế gian đã lưu hành) và trước tưởng (chấp trước).

 Bậc Thánh chỉ có thế lưu bố tưởng chẳng có trước tưởng, phàm phu chấp trước nên ở thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng. Bậc Thánh khéo giác quán, nên ở nơi thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng. Cho nên phàm phu gọi là điên đảo tưởng.

 Bậc Thánh dù tri, nhưng chẳng gọi là điên đảo tưởng; lại do cảnh vốn tự không, đâu cần hoại tướng; do linh tâm tự chiếu, đâu nhờ cảnh sanh, nên chẳng như phàm phu chấp trước năng sở tri kiến như vậy.

 Triệu Luận nói: Hễ có sở tri thì có sở bất tri. Do Thánh tâm vô tri nên vô sở bất tri, cái tri của vô tri gọi là nhất thiết tri. Nên Kinh nói: “Thánh tâm vô trivô sở bất tri”, thật đáng tin vậy! Cho nên bậc Thánh trống rỗng nơi tâm, mà thật tế chiếu soi, suốt ngày tri nhưng chưa từng tri, như lắng nước soi bóng, há đâu có lập tâm năng sở. Cảnh trí đều không đâu có cảnh giác tri ư! Theo sự trình bày trên đây và kinh Đại Niết Bàn, thì biết ở nơi pháp thế gian không sanh trước tưởng tức là pháp xuất thế gian, cũng là Phật pháp. Chứ không phải ngoài pháp thế gian mà có pháp xuất thế gian đặc biệt gọi là Phật pháp vậy.

 Nói tóm lại, cuộc sống hằng ngày đói thì ăn, khát thì uống, lạnh thì mặc thêm áo, nóng thì cởi bớt ra, cho đến nói năng tiếp khách làm việc… ở nơi các pháp thế gian , chẳng sanh trước tưởng, tức là Phật pháp vậy. Chẳng đem chủ quan của mình xen vào sự vật, tức là chẳng sanh trước tưởng, cũng là chẳng có “cho là” thì không lọt vào nhị biên đối đãi vậy.

 Phật nói: Dùng văn tự nhưng không biết văn tự, vì chỉ là phương tiện. Chấp phương tiện chân thậtsi mê; phương tiện là tạm thời, đâu phải chân thật. Tất cả lời nói văn tự đều là văn tự, chớ nên chấp thật.

 Cuộc sống hằng ngày, ăn cơm thì cứ ăn cơm, mặc áo thì cứ mặc áo, chứ không cho áo này đẹp, áo kia xấu, sanh tâm chấp trước thì phiền não mới đến, cũng như muốn may mà không có tiền may cũng phiền não. Theo câu hỏi trên, người hỏi có chấp trước văn tự.

Hỏi:
 Minh tâm kiến tánh thì lấy cái gì để minh, lấy cái gì để kiến?

Đáp:
 Tâm như hư không vô sở hữu, làm sao lấy cái gì để minh để kiến? Vì tất cả lời nói đều có ngữ bệnh, như trong kinh nói: “Từ vô thỉ đến nay”. Từ vô thỉ sao có đến nay được! Phải có hữu thỉ mới có đến nay. Rồi nói: “Kiến tánh thành Phật”, tánh làm sao kiến? Nếu tự tánh thành sở kiến thì có năng sở, đâu phải bất nhị! Nếu có năng kiến và sở kiến là nhị rồi. Cho nên, tất cả văn tựlời nói chỉ là phương tiện; nếu chấp phương tiện cho là thật thì học cũng uổng công.

Hỏi:
 Thiền là một pháp môn tương đối khó thực hiện trong hiện tại, vậy cúi mong Hòa thượng dạy cho phương pháp dễ thực hiện nhất, mà vẫn đạt như sở nguyện?

Đáp:
 Phương pháp Tổ Sư thiền rất dễ tu, chỉ hỏi câu thọai và nhìn thọai đầu. Tham là hỏi câu thoại, để kích thích lên một niệm không biết; khán là nhìn, nhìn chỗ không biết, nhưng chỗ không biết thì không có chỗ, không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, không có mục tiêu để nhìn, thì nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết; chính vẫn còn không biết đó, Thiền tông rất chú trọng gọi là nghi tình, tức là cái không biết; hỏi và nhìn, hai cái song song đi một lượt, vừa nhìn để giữ cái không hiểu không biết, tức là nghi tình để đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật.

 Ví dụ chỗ trên cây viết là thoại đầu, ở dưới là thoại vỉ. Bắt đầu hỏi và nhìn là rời khỏi thoại vỉ, chưa đến thoại đầu là đang đi ở giữa đường. Vì mục đích của mình là muốn đến thoại đầu, cho nên gọi là tham thoại đầu hay khán thoại đầu.

 Phật Thích Ca dạy dùng không biết của bộ não, để chấm dứt cái biết của bộ não. Tất cả biết bộ não chia ra làm 3 bộ phận: Tìm hiểu biết, ghi nhớ biết và suy nghĩ biết. 3 cái biết này hết thì sẽ đến thoại đầu, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước, có người dịch là đầu sào trăm trượng, chỗ này cũng gọi là nguồn gốc của ý thức, ngài Nguyệt Khê nói là vô thỉ vô minh, tức là căn bản vô minh.

 Tại sao còn có vô minh? Vì còn không biết của bộ não, nên sát na cuối cùng của đầu sào trăm thước tiến lên một bước lìa khỏi ý thức, thì biết và không biết của bộ não đều sạch, cái biết Phật tánh hiện ra khắp không gianthời gian.

 Khắp không gian tức là trống rỗng nên gọi là tánh không, khắp không gian không có khứ lai nên gọi là Như Lai. Khắp thời gian không có gián đoạn, chẳng có sanh diệt nên gọi là Niết Bàn. Vì không sanh không diệt nên trống rỗng, không có chỗ trụ gọi là vô sở trụ. Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang đến câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” rồi ngộ triệt để.

 Cái tay nắm mở, muốn lấy gì cũng được gọi là hoạt bát vạn năng, vì nó không có trụ, tức không nắm hẳn một nắm tay cố định. Nếu nắm hẳn lại thì cái hoạt bát vạn năng bị mất, không thể cầm lấy cái gì nữa.

 Cái không biết của nghi tình là cái chổi tự động quét tất cả biết và không biết của bộ não, khôi phục hoạt bát vạn năng của bản tánh, nên sử dụng việc gì cũng thông. Như cái tay tự làm nắm tay, thì trụ nơi nắm tay cũng không lấy cái gì được, nên không trụ nơi nắm tay, mới có được hoạt bát vạn năng, muốn lấy gì cũng được.

 “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, ưng là nên, vô sở trụ là không có chỗ trụ. Sanh kỳ tâm là cái dụng, tức muốn dùng phải vô sở trụ, nếu có trụ thì không dùng được; mặc dù trụ nơi có, trụ nơi không, hay bất cứ trụ nơi nào đều không được; như trụ nơi Phật, trụ nơi Bồ Tát đều bị chướng ngại, không được hiện ra cái dụng hoàn toàn.

Hỏi:
 Tu thiền dễ đưa đến thanh tịnh giải thoát, tại sao có vài vị tu thiền một thời gian lại bị điên?

Đáp:
 Tham thiền không phải muốn thanh tịnh, cũng không mở trói để giải thoát. Tại sao? Vì tâm như hư không trống rỗng, tại có cái TA, muốn có sở đắc, có sở cầu, có sở sợ nên ma mới nhập được. Còn không có cái TA thì ma nhập ở đâu! Những người hỏi vì bệnh chấp thật quá nặng nên không hiểu, mới có câu hỏi này.

Hỏi:
 Đạo Phật không thừa nhận định mệnh, vì làm mê hoặc con người, nhưng có người nói Phật Thích Ca thọ ký cho Phật Di Lặc một kiếp nữa sẽ thành Phật. Vậy vấn đề này có phải như định mệnh không?

Đáp:
 Định mệnh gọi là nghiệp nhân nghiệp quả, nếu ở trong chiêm bao thì còn nhân quả trong chiêm bao, nhưng nhân quả của mình tự mình sửa mới được, chứ người khác không sửa giùm được. Tâm lực yếu thì theo nhân quả lúc trước, còn tâm lực mạnh thì nó sẽ sửa khác, đâu phải cái nghiệp có nhất định, tu là chuyển nghiệp.

(Kể lại chuyện Huỳnh Đình Kiên). Trang 96. 
Hỏi :
 Phật nói trong phẩm Phổ Môn: Nước Quỷ La Sát, vậy Quỷ La Sát có ở cõi Nam Diêm Phù Đề này không?

Đáp:
 Phật nói: “Vạn pháp duy tâm tạo”, tâm mình chấp thì có, không chấp thì không có. Đại Trí Độ Luận nói : Tại chấp Phật thì có Phật, chấp Bồ Tát thì có Bồ Tát, chấp Đại thừa thì có Đại thừa,… nếu tất cả tánh không thì tất cả trống rỗng. Tất cả vì do chấp nên mới có, có và không là tương đối, thuộc sản phẩm của bộ não. Còn thực tế thì không dính dáng đến có và không. Nếu ta chấp có và không thì lọt vào biên kiến trong 5 thứ ác kiến.

 Năm thứ ác kiến là: Thân kiến, biên kiến, kiến thủ, tà kiến, giới cấm thủ. Nhiều người lọt vào biên kiến mà không tự biết. Như chấp có Phật hay chấp không Phật đều là biên kiến. Tôi có giải thích trong Trung Quán Luận.

Hỏi:
 Ngài Quán Thế Aâm được cúng dường xâu chuổi ngọc vô giá, tại sao Ngài không nhận?

Đáp:
 Chư Phật chư Bồ Tát muốn chúng ta được ngộ, nếu chúng ta chấp thật thì không bao giờ ngộ được. Cái vô giá là cái tâm của chúng ta vậy, ngộ được cái tâm mới thật là vô giá; còn không ngộ, nếu có được vô giá, mà sau khi chết thì chẳng được gì?

 Bây giờ có thế lực cao, có sự nghiệp lớn, thành công to, tiền của nhiều, có đầy châu báu vô giá,… đâu làm chủ những cái ấy được! Không muốn lìa mà nó vẫn lìa, thân này không muốn bệnh mà nó cũng bệnh, không muốn chết nhưng nó cũng chết, tự mình làm chủ không được, mà có vô giá thì được ích lợi gì!

Hỏi:
 Tu Thiền phải có người hướng dẫn, nếu không có người hướng dẫn sẽ bị lạc. Vậy muốn tu không có thầy hướng dẫn, thì phải tu như thế nào?

Đáp:
 “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ”. Nếu thực hành được 9 chữ này thì bảo đảm không có bị lạc, vì chánh pháp phải cần phá ngã chấp. Nếu không phá ngã chấp thì không giải thoát mà thành tà ma ngoại đạo. Tà ma ngoại đạo cũng có thiền định rất cao, nhưng họ không có phá ngã chấp.

Hỏi:
 Quán thoại đầu “Ta là ai?”, có chứng đắc gì mà không biết, thấy mặt ngơ ngáo, thân mình dơ dấy thường ngồi một mình. Vậy có phải tu không đúng chánh pháp không? Và sửa chữa bằng cách nào?

Đáp:
 Vì họ không tu đúng chánh pháp, tại dùng cái biết để suy nghĩ ta là ai? Ta là đàn ông, ta là đàn bà,… có đủ thứ ta mà sao nói không biết! Họ đã tự dối mình. Họ hỏi câu thoại thiếu một đoạn đầu.

 Câu thoại đầu đầy đủ là: “Khi chưa có trời đất, ta là cái gì?”, họ cứ dùng cái biết để suy nghĩ thì không phát khùng cũng phát điên. Dùng cái không hiểu không biết để chấm dứt tìm hiểu biết, chấm dứt ghi nhớ biết và chấm dứt suy nghĩ biết của bộ não.

Hỏi:
 Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đầy đủ, vì bất giác vô minh khởi niệm mà luôn sanh tử như vậy. Từ nhất niệm vô minh chuyển sang vô thỉ vô minh, chưa phải là bản tánh thanh tịnh. Từ đó dụng tâm nhìn thẳng vào hầm sâu vô minh đến 90 thì ồ lên một tiếng phá bức màn vô minh, Phật tánh hiển lộ. Vậy vô minh không thấy không nghe, không tướng, làm sao biết mà nhìn?

Đáp:
 Người hỏi có đọc Bát Nhã Tâm Kinh không? Chắc là có. Chùa nào, sớm chiều thời kinh nào cũng có tụng: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chílão tử diệc vô lão tử tận”. Không có vô minh, làm sao hỏi vô minh, mà lại chấp vô minh là thật! Chỉ cần ngộ khôngvô minh, không có già chết thì giải thoát.

 Như Tôi bây giờ đã già, sau nầy cũng phải chết. Tại sao trong kinh nói không già không chết? Trong lúc tụng kinh mình phải tự hỏi, còn miệng cứ tụng mà kinh nói gì không biết!

Hỏi:
 Trong kinh sách chư Tổ thường đả phá tất cả. Như “gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”. Nếu ngày nay, mọi người thấy vậy, có ảnh hưởng đến đạo pháp không?

Đáp:
 Gặp Phật giết Phật là giết cái tâm chấp Phật, chứ đâu phải giết Phật Thích Ca; chấp ma là giết tâm chấp ma, chứ đâu phải giết ma. Tức là chấp cái gì là giết cái đó.

Hỏi:
 Lục căn tiếp xúc lục trần, làm sao lục thức không bị đắm nhiễm?

Đáp:
 Tông Tịnh Độ lấy Ngài Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm làm gương mẫu, có nói “thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Nếu nhiếp được nhãn căn không phân biệt tốt xấu, vì thấy tốt ham thích, thấy xấu chê bai; nhiếp được nhĩ căn thì không phân biệt tiếng hay dở, khen không mừng, chê cũng không tức giận.

 Nhiếp được lục căn thì tịnh niệm mới được tương tục. Tức là niệm trong sạch không có niệm nào khác. Nếu nhiếp không được thì có tương đối, có lúc thương ghét, ham thích, khen chê. Vậy làm sao có niệm trong sạch được! Tất cả các pháp môn tu đều như vậy.

 Tham thiền giữ cái không hiểu không biết thì đã nhiếp được lục căn. Không biết tốt thì không ham thích, không biết xấu thì không chê. Nếu dùng cái biết để tu thì khó hơn, dùng cái không biết để tu thì dễ hơn. Cái không hiểu không biết gọi là pháp Thiền trực tiếp.

 Có người hỏi tôi: Nếu dùng cái không biết để tu tới thoại đầu thì sắp kiến tánh, có phải sắp biết không?

 Tôi nói: không phải, không được nói là sắp biết.

 Người ấy hỏi: Nếu không được nói là sắp biết, như vậy có giống như gỗ đá không?

 Tôi nói: Cũng không phải, vì cái biết chơn tâm không bao giờ ngưng, nếu có ngưng rồi trở lại biết thì nói là sắp biết được. Nó không bao giờ ngưng, làm sao nói là sắp biết! Người đó không hiểu, vì cứ dùng bộ não, làm sao biết được chơn tâm?

 Tôi đổi lại câu hỏi: Trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu, vậy có được không? Không được, không được nói mặt trời sắp chiếu! Tại sao? Vì mặt trời có ngưng chiếu hồi nào, mà nói mặt trời sắp chiếu! Trời sáng, mặt trời đâu có bắt đầu chiếu. Bây giờ nó cũng đang chiếu, vì không thấy mặt trời là do bị trái đất hay mây đen che khuất, đâu phải nó bị ngưng chiếu!

 Cái biết chân tâm của mình cũng vậy, nó không có ngưng biết, vì bị che khuất bởi biết và không biết của bộ não. Cho nên, Phật dùng phương tiện không biết của bộ não, để dẹp cái biết che khuất của bộ não thì mới đến thoại đầu. Chứ không phải cái biết của chân tâm bị ngưng, nếu cái biết chơn tâm bị ngưng thì bị sanh diệt luân hồi, kiến tánh thành Phật đâu có ích lợi gì!

 Bản tâm của mình không có sanh diệt, nên Phật gọi là vô thỉ (không có bắt đầu) cũng là nghĩa vô sanh (không có sự sanh khởi). Nếu có sự sanh khởi là có sự bắt đầu. Vậy, người chứng quả là ngộ pháp vô sanh hay chứng vô sanh pháp nhẫn.

 Theo lý toán học không có con số nhỏ nhất và cũng không có con số lớn nhất, các nhà giỏi toán cũng biết không có con số nhỏ nhất, vì đem chia mãi không có hết.

 Trong quyển toán học của Hồng Kông nói: Con sâu dép cỏ nhỏ bằng một đơn tế bào, cách ngày đêm nó sanh ra làm hai; như ngày nay 1 con, ngày mai thì 2 con, ngày mốt thì 4 con… cứ như thế trải qua 90 ngày đêm thì thể tích bằng một mét khối, cho đến 130 ngày đêm thì thể tích bằng quả địa cầu, nếu một ngày nữa thì 2 quả địa cầu.

 Ngược lại, đem quả địa cầu xẻ ra, xẻ đến 130 ngày đêm thì khôi phục con sâu dép cỏ. Nếu lấy toán học đem con sâu xẻ thêm 130 lần nữa, thì thịt con sâu mình có thể biết không? Cứ theo toán học như vậy mà đến trăm lần 130, ngàn lần 130, nhưng vẫn thấy con số để biểu thị thịt con sâu dép cỏ. Nhưng thực tế còn có thịt con sâu dép cỏ đó không? Có chia nữa thì con số vẫn còn mãi.

 Nếu đem con sâu đó làm đơn vị 1, thêm trước số 1 là số “0.” thì nó nhỏ 10 lần, rồi thêm số 0 sau “0.” thì nhỏ thêm 10 lần nữa, cứ thêm như thế, dài bằng một quả đất, hai quả đất… con số cứ nhỏ nhưng không có hết.

 Cái gì nhỏ nhất có thể dùng kính hiển vi mới thấy được. Giả thiết khoa học cải tiến kính hiển vi, còn nhanh hơn mình thêm con số 0 thì cũng có thể nhìn thấy thịt con sâu đó. Nhưng thịt con sâu đó chưa phải thực tế. Tại sao? Vì còn phân chia được nữa.

 Vậy, biết định lý toán học không thể tìm sự bắt đầu. Nên Phật nói: “Vô thỉ, bất khả đắc” gọi là vô sanh. Nhà khoa học dùng toán tìm sự bắt đầu của sanh mạng và vũ trụ, có phải si mê không? Nói nhà khoa học si mê thì không có được. Vì khoa học tạo hạnh phúc cho con người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10979)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53449)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12875)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16392)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15263)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19055)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19816)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15423)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15243)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15060)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20185)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23732)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12950)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19852)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13175)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28929)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11603)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18184)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16525)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12693)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13124)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12882)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12900)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13440)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11588)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14142)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17648)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22277)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13345)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14197)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105564)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14502)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19633)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38301)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15421)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34546)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15948)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11266)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15566)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13906)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19292)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13054)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13372)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21486)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17860)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21757)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15969)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15983)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18971)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24598)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant