Hỏi:
Phật tử tại gia tu thiền cần trường trai không?
Đáp:
Có
cần
trường trai hay không cần trường trai là tương đối,
cho nên không nói cần hay không cần, vì việc này là nhân
quả. Như ăn một cục thịt thì phải trả một cục thịt,
giết một mạng thì phải trả một mạng. Nếu mình sẵn sàng
để cho người ta ăn thì cứ ăn người ta. Nếu mình sợ người
ta ăn mình thì mình đừng ăn người ta. Kinh Lăng Nghiêm nói:
Kiếp này làm người ăn thịt dê, kiếp sau mình đầu thai
dê, dê đầu thai người thì nó ăn lại. Tức là thay phiên
ăn lẫn nhau, cũng như mình ăn thân của mình vậy.
Hỏi:
Mấy
mươi
năm thực hành thiền, Hoà thượng có tâm đắc điều
gì của mình và có suy nghĩ gì sự truyền bá trong giai đoạn
phát triển của xã hội, có thuận nghịch gì không?
Đáp:
Vì
sự
hoằng pháp cũng làm sự chướng ngại việc tu của tôi.
Tại sao? Vì bắt đầu ra hoằng Tổ Sư thiền, người ta hỏi
tôi thì tôi phải biết. Nếu tôi không biết thì sao người
ta tin tôi được! Bất cứ người ta hỏi cái gì thì tôi phải
biết. Bây giờ, tình hình xã hội kinh tế… tôi phải biết,
chính cái đó làm chướng ngại việc tu. Đã dùng cái không
biết để tu, mà lại dùng cái biết mãi, vậy làm sao không
bị chướng ngại?
Nhưng tôi hy vọng các vị kiến tánh trước tôi, như trong Thiền tông có: Ngài Thần Tán kiến tánh, mà thầy của ngài chưa kiến tánh. Nên thầy của ngài xin làm đệ tử ngài.
Hỏi:
Kính
xin
Hòa Thượng dạy cho phương pháp tham thiền, để ứng dụng
trong đời sống hằng ngày khỏi bị chướng ngại với nhau?
Đáp:
Khoảng
4,
5 năm trước, tôi ở Mỹ được mời đi Canada dạy Tổ
Sư Thiền, ở Mỹ có 10 Phật tử đi theo; trong đó có 2 mẹ
con, người mẹ tên là Nguyệt Anh, có đứa con mới 3 tuổi
tây, cũng được mẹ nó dạy nó tham thiền 4 tháng, tham câu
“khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Khi đến tới thành
phố Toronto, có quán khoa học, trong đó có máy vi tính đo hoạt
động bộ não, cái máy chia ra làm ba mươi mấy cấp. Khi để
tay trên máy thì đèn báo sáng ở trên, mọi người đi trong
đoàn đều có tham thiền, mỗi người đều đo thì đèn báo
ở trên sáng từ từ xuống rồi tự tắt.
Tôi thường thuyết pháp, người già 70, 80 tuổi đều tham thiền được, con nít 7, 8 tuổi cũng tham thiền được. Nhưng đứa bé mới 3 tuổi tôi không tin nó tham thiền được. Sẵn có máy thử, tôi ẩm nó để trên đầu gối tôi, tôi cầm tay nó để trên cái máy. Ban đầu đèn báo cũng sáng, tôi bảo nó tham thiền đi, nó liền tham thiền, đèn báo cũng từ trên xuống, rồi tự tắt đèn.
Cái máy đo thì không có gạt ai. Bên cạnh các người Canada đang đứng nhìn, mà họ đã đo qua máy. Họ nói: Ai đo, đèn báo đều tắt và luôn đứa bé cũng vậy, còn chúng tôi tại sao không được?
Tôi nói với họ: Hãy bớt suy nghĩ thì đèn báo mới xuống và tắt được.
Họ nói: Tôi không suy nghĩ, nhưng đèn báo không xuống được.
Miệng họ nói không suy nghĩ, nhưng bộ óc đâu chịu nghe lời. Vì họ chưa có tập thì làm sao khống chế bộ óc được. Những người này đều có tập tham thiền rồi, nên khống chế bộ óc rất dễ. Nhưng đứa bé này đặc biệt, chắc là kiếp trước nó có tham thiền. Nó sẵn có cái không biết nên đèn báo xuống mau hơn những người lớn. Người lớn đã tập tham thiền mười mấy năm, lại đèn xuống chậm hơn nó. Vì người lớn đã biết nhiều, muốn dẹp cái biết, phải trải qua thời gian lâu.
Sau khi về Mỹ, nó dạy tham thiền cho mấy đứa 7, 8 tuổi.
Hỏi nó: Sao không dạy cho mấy đứa bằng mầy?
Nó nói: Mấy đứa đó không biết.
Vì vậy, dùng cái không hiểu không biết để tu thì dễ hơn dùng cái biết để tu. Tham thiền dùng cái không hiểu không biết chấm dứt tất cả biết như gió thổi tan mây đen, nếu thổi trống được lỗ nhỏ thì ánh sáng mặt trời ngay chỗ đó xuyên qua, dùng liền chứ không phải đợi tới kiến tánh mới dùng được. Lúc đó bộ não không biết, nhưng công việc của bộ não đều được hoàn thành. Có nhiều Phật tử cũng đạt đến mức độ này, nhưng chỉ được chút ít. Nếu ngưng tham thiền như mây đen che lại thì không dùng được nữa. Nếu gió thổi tan mây đen được lỗ lớn hơn thì cái dùng nhiều hơn.
Hỏi:
Tổ
Sư
thiền và Như Lai thiền khác nhau như thế nào ?
Đáp:
Như
Lai
thiền là dùng cái biết để tu, có giai cấp: Thập Tín,
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Trụ, Đẳng
Giác và Diệu Giác, tổng cộng gồm có 52 cấp.
Còn Tổ Sư thiền không có cấp bậc, nhưng có tam quan: Sơ Quan, Trùng Quan và Mạt Hậu Lao Quan. Kỳ thật, có người khỏi cần phải qua Sơ Quan, Trùng Quan, có khi thẳng đến Mạt Hậu Lao Quan.
Cho nên giáo môn tụng kinh là tu. Quán Tông Tự của Ngài Đế Nhàn, mỗi thời tụng kinh phải 2 giờ, mỗi ngày 3 thời. Nếu tụng không đủ 2 giờ thì Ngài quở cho là làm biếng. Vì tụng kinh đến đâu là quán tưởng đến đó, gọi là tùy văn quán tưởng, tức là đang tụng kinh là đang tu thiền quán, chứ không phải tụng cho Phật nghe.
Khai thị Thiền thất ngày 16-4 =>22-4-1999 tại chùa Hưng Phước.
Hỏi:
Ngài
Bác
Sơn trong Tham Thiền Cảnh Ngữ dạy: Người tham thiền
nếu chưa triệt ngộ, trước hết phải lo giải quyết bổn
phận của mình phải kiến tánh, chứ không được dạy người
khác, ý như vậy là thế nào?
Đáp:
Muốn
dạy
người khác phải biết phương tiện, nếu không
biết phương tiện mà dạy người thì có thể làm hại người,
nên chư Tổ phải nói như vậy.
Hỏi:
Con
có
đọc tiểu truyện của Ngài Đại Am Tĩnh Sư là một thiền
sư kiến tánh, sau này sao Ngài lại tu Tịnh Độ? Khi Ngài
sắp lâm chung thì được vãng sanh cực lạc. Như vậy con không
hiểu rõ, kính xin Sư Phụ khai thị?
Đáp:
Kiến
tánh
rồi đi hoằng Tịnh Độ thì có thể được, chứ kiến
tánh rồi đâu có thể tu Tịnh Độ! Ông ấy không có biết.
Người tu Tịnh Độ không tin pháp môn Tổ Sư thiền, không
tin tự tâm, nên họ phải đi đường xa, khi được vãng sanh
rồi thì Phật A Di Đà mới dạy pháp môn tham thiền là từ
nghi đến ngộ. Đó là được ghi từ kinh Đại A Di Đà.
Người tu Tịnh Độ không biết, cho thiền không phải Tịnh Độ. Nhưng 3 cách tu của Tịnh Độ đều là thiền (Thật tướng niệm Phật gần bằng như Tổ Sư thiền, quán tưởng niệm Phật có 16 pháp thiền quán ở trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, còn trì danh niệm Phật mục đích là đến nhất tâm bất loạn cũng là thiền). Tất cả các pháp môn của Phật dạy đều lấy thiền làm căn bản, không có thiền thì không thể tu được. Không những Phật giáo là vậy, mà tà ma ngoại đạo đều cũng có thiền.
Nhưng tà ma ngoại đạo thì không có phá ngã chấp, nên không được giải thoát. Chánh pháp thì phá ngã chấp, cũng như người tu Tịnh Độ phát đại nguyện, rồi thực hành đại nguyện của mình phát, tức là phá ngã chấp. Còn ông này thì ngã chấp chưa phá được, vậy làm sao giải thoát hay nói vãng sanh cũng chưa chắc được. Việc như thế, làm cho người ta hiểu lầm tức là hại người. Nếu làm cho người ta hiểu lầm và bị hại thì phải đọa địa ngục.
Hỏi:
Cụ
Để
Hòa thượng được ngộ đạo do Thiên Long Thiền sư khai
thị giơ một ngón tay, sau này đệ tử cũng bắt chước giơ
một ngón tay thì mới lập phương tiện mài con dao thật bén
để trong túi áo. Một hôm hầu trà, Hòa thượng hỏi thì
giơ ngón tay lên, Hòa thượng chặt đứt. Như vậy Hòa thượng
có lỗi không?
Đáp:
Cụ
Để
Hòa thượng chưa ngộ mà tưởng mình đã ngộ, một hôm
ngồi ở thiền sàng gặp cô Ni Thật Tế từ ngoài bước vô
chùa không chịu bỏ nón xuống. Cụ Để mới nói: Xin cô lấy
nón xuống.
Ni Cô đi 3 vòng rồi nói 3 lần: Nói được thì ta bỏ nón xuống.
Cụ Để nói không được, cảm thấy mắc cỡ, biết Ni Cô rất hay. Ni Cô định đi ra, Cụ Để nói: Trời gần tối, mời Ni Cô ở lại một đêm (để thỉnh giáo).
Ni Cô nói 3 lần: Nói được thì ta ở lại.
Cụ Để vẫn không nói được, Ni Cô bỏ đi. Sau khi Ni Cô đi rồi, Cụ Để cảm thấy hổ thẹn, mình là đại trượng phu mà không bằng người nữ. Trong Phật pháp Tỳ Kheo Ni có bát kỉnh đối với Tỳ Kheo tức là Tỳ Kheo Ni 100 tuổi hạ cũng phải đảnh lễ Tỳ Kheo mới thọ giới. Nhưng Tỳ Kheo Ni kiến tánh thì Tỳ Kheo phải đảnh lễ Tỳ Kheo Ni.
Cụ Để định bỏ chùa đi tham học, nhưng đêm đó chiêm bao thấy Hộ Pháp thần cho biết: “Ông khỏi đi, ngày mai sẽ có thiện tri thức đến”. Đúng ngày mai có Thiên Long thiền sư đến, cụ Để tiếp đãi tử tế, rồi đem chuyện Ni Cô Thật Tế kể cho Thiên Long thiền sư nghe và nhờ thiền sư chỉ dạy. Thiên Long thiền sư không nói, chỉ đưa một ngón tay lên thì cụ Để liền ngộ.
Về sau có người đến hỏi pháp, cụ Để cũng đưa một ngón tay lên, thị giả thấy và bắt chước, có ai hỏi thì thị giả cũng đưa ngón tay lên. Người ta lại nói với cụ Để, thị giả của ngài thuyết pháp cũng hay vậy. Cụ Để hỏi: Thuyết pháp như thế nào?
Người ấy nói: Có ai hỏi pháp thì thị giả cũng đưa ngón tay lên.
Cụ Để mài con dao thật bén để trong túi áo, có một hôm thị giả bưng trà đến cụ Để, rồi cụ Để hỏi thị giả: Thế nào là Phật?
Thị giả liền đưa ngón tay lên, cụ Để lấy dao chặt ngón tay, thị giả hoảng sợ bỏ chạy, cụ Để rượt theo và nói “đứng lại!”, thị giả đứng lại nhìn. Cụ Để hỏi: Thế nào là Phật? Thị giả giơ tay lên không thấy ngón tay rồi liền ngộ.
Hỏi:
Con
đã
tham Tổ Sư thiền, nhưng có người nhờ con dâng hương
lễ sám, việc này có nên làm không?
Đáp:
Theo
giáo
môn, tụng kinh là tu. Giáo môn của Thiên Thai tông
ở Trung Quốc tên là Quán Tông tự (Ninh Ba), Pháp sư Đế Nhàn
trụ trì ở đây, ngài là đời thứ 42 của tông Thiên Thai
dạy người ta tu thiền giáo môn, mỗi ngày 3 thời tụng kinh,
mỗi thời phải 2 giờ. Tụng kinh là thiền quán, tức là tụng
đến đâu quán đến đó gọi là tùy văn quán tưởng.
Nếu tụng không đủ 2 giờ thì ngài Đế Nhàn quở là làm biếng. Bây giờ các chùa cũng tụng bao nhiêu đó, thường thường chỉ có 40 phút là xong. Sự thật tụng kinh là tu, chứ không phải tụng kinh để cho Phật nghe. Vì lời của Phật dạy cho người ta tu, chứ Phật đâu cần nghe, mà cho Phật nghe là có công đức, như thếø lừa gạt mình và lừa gạt người .
Hỏi:
Thông
thường
các thầy dạy Phật tử niệm Phật khi chết thì Phật
rước về Tây Phương, tụng kinh thì rất nhiều, niệm Phật
có ghi 108 biến, nhưng họ niệm có 10 biến, ra ngoài ngồi
nói chuyện sàm. Con nhân cơ hội họ thích niệm Phật, con
hướng dẫn họ niệm Phật đi kinh hành ở chánh điện có
được không?
Đáp:
Họ
niệm
Phật mà không phải niệm Phật của Tịnh Độ, giáo
môn thì không đúng tông chỉ của giáo môn. Niệm Phật thuộc
tông Tịnh Độ, thực hành tín, hạnh, nguyện mới là tông
chỉ Tịnh Độ. Chỉ có niệm Phật thì cũng không phải Tịnh
Độ, vì không thực hành đúng theo tông chỉ Tịnh Độ. Giáo
môn ở Trung Quốc có 4 tông: Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận,
Duy Thức.
Thiên Thai tông là giáo môn, vừa tụng tới đâu thì thiền quán tới đó. Tông chỉ Tịnh Độ gồm có: “Tín, hạnh, nguyện”. Tín là có 3 thứ tin, nguyện có 2 thứ nguyện, hạnh tức là niệm Phật cũng có 2 thứ: Nhất tâm niệm Phật và tán tâm niệm Phật. Chỉ hạnh thì không thể vãng sanh được, vãng sanh được hay không là do cái nguyện.
Nếu phát tiểu nguyện thì không được vãng sanh, mà phát đại nguyện lại không thực hành đại nguyện của mình phát cũng thành nguyện suông nguyện giả cũng không được vãng sanh. Nhưng bây giờ chưa thấy người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, không đúng thì làm sao được vãng sanh!
Đại nguyện của Phật A Di Đà giống như tổng đài phát thanh, nếu mình có radio nhỏ ở bất cứ chỗ nào, xa cách mấy cũng thâu được; muốn thâu được thì phải tương ưng với tổng đài, nếu mình vặn tầng số sai một chút cũng thâu không được.
Bây giờ, những người tu Tịnh Độ không những thực hành xê xích một sợi tóc, mà xê xích không biết bao nhiêu dặm thì làm sao tương ưng với đại nguyện Phật A Di Đà!
Hỏi:
Bây
giờ
kinh của Phật rất nhiều, nhưng tụng kinh nào để thiền
quán?
Đáp:
Kinh
của
Tịnh Độ là: Kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng
Thọ, kinh đại A Di Đà và tiểu A Di Đà. Thường mỗi chiều
ở chùa tụng kinh tiểu A Di Đà, kinh đại A Di Đà người
tu Tịnh Độ cũng ít biết. Kinh Quán Vô Lượng Thọ là chuyên
dạy thiền quán của Tịnh Độ mà một số người tu Tịnh
Độ cũng không biết lại phủ nhận tu thiền. Tất cả các
pháp môn của Phật dạy đều là thiền, vì không có thiền
thì không có tu, phải có thiền mới gọi là tu. Họ không
nhìn nhận mình là thiền sao gọi là tu? Vì họ không đi đúng
theo lời Phật, Tổ dạy.
Tổ thứ 13 của tông Tịnh Độ là Ấn Quang đại sư dạy tín, nguyện, hạnh rất kỹ. Tôi chỉ xem qua một lần và hoằng dương mười mấy năm chưa có gặp được người tu đúng tông chỉ Tịnh Độ. Lúc tôi chưa đi Mỹ, ở Từ Aân gặp một người ở Thị Nghè là chủ tiệm vàng Mỹ Nữ, ông này thông suốt giáo lý, biết rõ tông chỉ Tịnh Độ, tu theo tông chỉ Tịnh Độ, nhưng chỉ thiếu một chút rất quan trọng là không thực hành theo đại nguyện của mình phát, thành nguyện suông nguyện giả.
Theo pháp thế gian mình ký kỳ phiếu, mở trương mục ngân hàng nhưng tiền ít không đủ trả cho các chủ nợ thì phải mắc nợ. Như lúc nhỏ mình có giết chết một con muỗi, con kiến không? Có ăn thịt không? Nếu có ăn một cục thịt thì phải trả một cục thịt, giết một mạng thì phải trả một mạng. Chủ nợ rất nhiều mà tiền thì ít không đủ trả, nên phải ký ngân phiếu 10 năm, 20 năm. Tức là đại nguyện của Tịnh Độ thành Phật rồi mới trả. Cho nên mới được đới nghiệp vãng sanh.
Nhưng mình phát đại nguyện rồi, đại nguyện là độ hết tất cả chúng sanh, mình và tất cả chúng sanh đều được vãng sanh. Nếu mình được vãng sanh rồi tu thành Phật, trở lại độ chúng sanh tức là trả nợ cho các chủ nợ của mình, chủ nợ của mình thì được ưu tiên. Vậy mình phát đại nguyện thì phải coi tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Nhưng những người phát đại nguyện mà không coi chúng sanh bình đẳng, có người còn ăn thịt chúng sanh hay bị muỗi cắn cũng đập nó chết hoặc giết chết mối mọt vì nó làm hư nhà mình. Nợ còn chưa trả làm sao vãng sanh được?
Ông ấy nghe tôi giảng, rồi cúng dường tiền và hứa giúp đỡ tôi trong việc hoằng pháp. Ông đi dự thiền thất tham thiền không tu Tịnh Độ nữa. Người ta cho tu Tịnh Độ là dễ hơn tham Tổ Sư thiền, nhưng sự thật tu Tịnh Độ khó hơn tham Tổ Sư thiền gấp trăm ngàn lần. Người tu Tịnh Độ thường dẫn chứng Tịnh Độ của Đại Thế Chí ở trong kinh Lăng Nghiêm. Tịnh Độ của Đại Thế Chí có 8 chữ “thâu nhiếp lục căn tịnh niệm tương tục”. Nếu không nhiếp được lục căn thì làm sao có niệm trong sạch kéo dài? Không có làm được.
Vừa rồi nói có ông tu thiền kiến tánh lại tu Tịnh Độ, người ấy rất ngu không biết gì hết! Tịnh Độ còn không biết thì Thiền làm sao biết được? Tu Tịnh Độ phải theo lời dạy của Tổ Tịnh Độ. Lời dạy của Tổ Tịnh Độ không bắt chước theo, mà cứ theo không biết gì! Từ Tổ Huệ Viễn làm sơ Tổ Tịnh Độ đến bây giờ chỉ có 13 Tổ, Ấn Quang đại sư là Tổ thứ 13 của Tịnh Độ giải thích Tịnh Độ rất kỹ càng.
Hỏi:
Tu
Tịnh
Độ khó như thế nào? Tu Thiền khó như thế nào?
Đáp:
“Thâu
nhiếp
lục căn tịnh niệm tương tục” của Đại Thế Chí.
Nhiếp nhãn căn thì không thấy tốt xấu, nhiếp nhĩ căn thì
không biết khen chê, khen không mừng chê cũng không giận, nhiếp
tỷ căn là không phân biệt thơm thúi, các căn kia cũng giống
như vậy. Nhưng tôi chưa thấy những người tu Tịnh Độ nhiếp
được một căn, có một số người chỉ biết chê Thiền.
Như Tứ Liệu Giản cho là của ngài Vĩnh Minh, sự thật không phải là do người ta đặt ra có mâu thuẩn mà không biết, nói có Thiền mà không có Tịnh Độ thì mười người chín người sai. Có Tịnh Độ mà không có Thiền thì một trăm người, một trăm người thành tựu tức là 100%, như vậy là tốt rồi. Tại sao tiếp theo nói là “có Tịnh Độ và có thiền còn tốt hơn, như cọp có sừng”? Đó là mâu thuẩn bậy bạ. Tại sao? Vì có Tịnh mà không có Thiền được 100%. Tại sao đem Thiền vô để bớt 90 chỉ còn có 10? Vậy lại nói hơn như cọp thêm sừng! Thêm cái gì? Vì 10 người hết 9 người sai thì 100 người phải mất hết 90 người. Đáng lẽ là 100% mà thêm Thiền vô làm hết 90 còn có 10, nói là tốt hơn có phải mâu thuẫn không?
Những người cho mình là tu Tịnh Độ đem Tứ Liệu Giản đi khoe, nói là của ngài Vĩnh Minh! Ngài Vĩnh Minh là người kiến tánh của tông Pháp Nhãn. Tông Pháp Nhãn ở Trung Quốc tuyệt truyền, nhưng ở Đại Hàn vẫn còn. Nhưng tác phẩm của ngài Vĩnh Minh không có cái đó. Ngài Vĩnh Minh kiến tánh làm sao đặt ra 4 bài kệ mâu thuẩn như vậy?
Kỳ thật, Tịnh Độ không phải là không tốt! Nhưng phải tu đúng. Vì tôi chuyên hoằng Thiền, tôi muốn viết ra đường lối thực hành của Tịnh Độ, vì mắc hoằng Thiền nên không có thì giờ viết ra cuốn đó. Nếu tôi viết ra cuốn đó thì cũng có người hiểu lầm tôi như có người nói Ngài Vĩnh Minh bỏ Thiền rồi tu Tịnh Độ thành Tổ Tịnh Độ.
Ở Tổ Tịnh Độ có 6, 7 Tổ Thiền tông kiến tánh rồi kiêm hoằng Tịnh Độ. Nhưng có người nói bỏ Thiền tu Tịnh Độ được vãng sanh. Nếu tôi viết đường lối thực hành tu Tịnh Độ, người ta nói tôi bỏ Thiền tu Tịnh Độ, thì tôi làm sao tiếp tục hoằng Tổ Sư thiền được? Chính như vậy nên tôi không viết ra. Mặc dầu tu Tịnh Độ khó, nhưng có đường lối để cho mình tập dần dần.
Hỏi:
Con
đã
tham Tổ Sư thiền, nhưng người ta nhờ con làm nghi lễ
tụng kinh lễ sám, vậy con phải là sao?
Đáp:
Nếu
ông
muốn tu thiền thì chỉ hỏi và nhìn là đủ rồi, mấy
cái kia khỏi hỏi nữa, cứ hỏi câu “khi chưa có trời đất
ta là cái gì?” không biết, nhìn chỗ không biết, hai cái
đi song song là được rồi, được cái không biết thì cái
kia dẹp hết.
Hỏi:
Hoà
thượng
dạy: Lấy không biết mà tu, ghi nhớ biết, tìm hiểu
biết, những cái ấy phải quên hết. Như vậy Hoà thượng
cái gì cũng biết, cái biết đó là tâm biết hay là bộ não
biết?
Đáp:
Cái
biết
của tôi không phải là học, vì học làm sao học hết
được? Cũng như Tục tạng kinh, tôi mỗi ngày xem 10 giờ,
xem một năm được 7 tập, Tục tạng kinh có 150 tập, tính
ra xem hết phải mất 20 năm, chưa kể Đại tạng 100 tập.
Suốt đời tôi xem không hết, dẫu cho xem hết thì làm sao
nhớ nổi? Nhưng bây giờ bất cứ người ta đề ra câu hỏi
gì thì tôi đều giải đáp được, tôi đâu biết người
ta muốn hỏi gì! Cái này không phải là học.
Hỏi:
Tông
chỉ
pháp môn Tổ Sư thiền là như thế nào?
Đáp:
Tông
chỉ
của Tổ Sư thiền thì không có tông chỉ, nếu có tông
chỉ thì không phải Tổ Sư thiền. Vì Tổ Sư thiền là muốn
ngộ bản tâm, bản tâm là như hư không vô sở hữu, tức
là tất cả không có sở hữu, luôn cả hư không cũng không
có sở hữu.
Mặc dầu, không có nhưng thực tế dung nạp và ứng dụng. Mặt trời, mặt trăng, đất đai, nhà cửa, bất cứ thứ gì đều do không sở hữu này dung nạp và ứng dụng. Thực tế không có thứ gì, không có tức là trống rỗng, trống rỗng không có chỗ để trụ gọi là vô trụ.
Trống rỗng nên không có thứ gì nên gọi là Tánh không, trống rỗng không có gì trói buộc nên gọi là giải thoát, đâu phải bị trói rồi mở trói rồi gọi là giải thoát! Kỳ thật bản tâm vốn là giải thoát. Trống rỗng nên khắp không gian không có khứ lai gọi là Như lai, khắp thời gian không có sanh diệt nên gọi là Niết bàn, Niết bàn là tiếng Ấn Độ nghĩa là không sanh không diệt.
Tất cả danh từ muôn ngàn sai biệt, nhưng ý không khác, cũng là hư không vô sở hữu. Những người không biết thì chấp những danh từ lời nói. Vì trống rỗng chẳng có thứ gì, nhưng hiện hoạt bát vạn năng.
Ví dụ cái tay là hoạt bát vạn năng, lấy cái gì cũng được, lấy khăn, lấy dĩa, lấy bình,… Nếu tay trụ cái khăn này thì hoạt bát vạn năng của tay bị mất, lấy dĩa, lấy bình, lấy tách,… đều không được.
Tham thiền khởi lên nghi tình (không biết) là cây chổi automatic, vì không biết nên không biết cái nào thì tự nhiên quét sạch tất cả mọi thứ, khôi phục lại bản tánh hoạt bát vạn năng của chân tâm, nên xử dụng việc gì cũng được.
Nhưng cái khăn, cái bình, cái tách,… là pháp có, không trụ nơi có mà lại trụ nơi không, tức là trong tay không có cái gì, nhưng cũng bị mắc kẹt nên không lấy cái gì được, vì thế cái không này phải quét, mới khôi phục hoạt bát vạn năng bản tâm.
Cho nên, Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền ngộ triệt để. Vô sở trụ mới dùng được, có sở trụ là mắc kẹt nên không dùng được. Phật pháp là ứng dụng hằng ngày, chứ không phải nghiên cứu những danh từ để đoán mò bậy bạ.
Hỏi:
Con
tham
câu thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?”,
ta là cái gì là thân tứ đại này hay thắc mắc cái tâm ta
là cái gì?
Đáp:
Không
phải
muốn tìm ta là cái gì, là muốn hỏi “chưa có trời
đất ta là cái?” thì không biết. Nếu bỏ “chưa có trời
đất” mà hỏi “ta là gì?” cũng như nói ta là Duy Lực,
ta là đàn ông, ta là gì đó thì đã biết rồi. Còn khi chưa
có trời đất thì không biết, không thể tìm hiểu, muốn
biết mà không thể biết, không thể tìm hiểu, làm cho không
biết mãi, không biết chân thật, rồi nhìn chỗ không biết
tức là giữ cái không biết đó được lâu dài, không biết
này gọi là nghi tình.
Nghi tình này sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật. Chứ không phải tìm hiểu ta là gì? Là mục đích chấm dứt sự tìm hiểu. Dùng không biết của bộ não để chấm dứt cái biết của bộ não; chấm dứt tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ biết của bộ não, 3 thứ biết của bộ não được chấm dứt, rồi đến thoại đầu thì sắp kiến tánh. Khi kiến tánh gọi là mở mắt chiêm bao được thức tỉnh thì giải thoát tất cả khổ.
Người hỏi như vậy là sai lầm vì muốn tìm hiểu. Đây là muốn chấm dứt sự tìm hiểu, mà trái lại muốn tìm hiểu thêm, như thế là sai lầm lớn.
Hỏi:
Giáo
môn
và giáo lý Phật pháp khác nhau hay giống nhau?
Đáp:
Giáo
môn
là quét sạch tất cả lý, tức là không phải hợp lý
và bất hợp lý. Vì tâm như hư không vô sở hữu vốn không
có lý. Kiến lập lý thì phải có nhị, tự tánh là bất nhị,
hợp lý và không hợp lý là nhị, đúng lý và không đúng
lý cũng là nhị, nên nói lý tức là nhị. Thiền môn không
nói lý, giáo môn nói lý là chướng (sở tri chướng).
Giáo môn nói lý là phương tiện, chứ không phải có chơn lý. Phật giáo khác hơn các tôn giáo khác là không kiến lập chân lý, vì kiến lập chân lý là nhị tức tương đối. Tại có chân lý thì có giả lý. Phật giáo không kiến lập chân lý, không phải là không có chân lý!
Nếu kiến lập chân lý thì có hai chân lý. Tại sao? Vì chân tâm là chân lý rồi. Kiến lập chân lý nên Thiền tông gọi là trên đầu mọc thêm đầu, vậy phải mời bác sĩ cắt bỏ mới được.
Hỏi:
Chúng
con
là hành giả sơ cơ nên có nhiều lỗi lầm, kính xin Sư
Phụ thương xót chỉ dạy cho chúng con về bổn phận của
hành giả để được tốt đạo đẹp đời?
Đáp:
Hành
giả
tham thiền làm đúng vai trò của mình thì cứ hỏi và
nhìn. Hỏi là kích thích niệm không biết, nhìn là giữ niệm
không biết được kéo dài.
Quyển Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 nói: “Đã vì đói khát thì cứ ăn uống, đừng nghĩ cái khác; vì che thân chống lạnh thì cứ mặc áo, chớ nghĩ cái khác; làm chức nghiệp gì thì phải giữ đúng chức nghiệp đó, chẳng nghĩ cái khác. Cho nên, cha phải giữ đúng vai trò cha, mẹ phải giữ đúng vai trò mẹ, con phải giữ đúng vai trò con, chồng phải giữ đúng vai trò chồng, vợ phải giữ đúng vai trò vợ, Tu sĩ phải giữ đúng vai trò Tu sĩ, Sa Di phải giữ đúng vai trò Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, mỗi mỗi đều phải giữ đúng vai trò của mình”.
Hôm trước, tôi có hỏi một Tu sĩ Tỳ Kheo: Thầy có giữ đúng vai trò Tỳ Kheo không?
Tỳ
Kheo đáp: Có.
Tôi
hỏi
giới luật Tỳ Kheo thì thầy ấy không biết, nếu không
biết làm sao giữ?
Tỳ Kheo nói: Tôi tham thiền nên không để ý cái đó.
Tôi nói: Như vậy làm sao giữ đúng vai trò? Còn bé thì giữ đúng vai trò con, lớn lên có vợ thì giữ đúng vai trò chồng và con. Tu sĩ đã xuất gia thì không có nhà thì không có giữ vai trò cha con, nhưng phải giữ đúng vai trò Tu sĩ. Nếu Tỳ Kheo tham thiền phải giữ đúng vai trò hành giả tham thiền và vai trò Tỳ Kheo, chỉ giữ đúng vai trò hành giả tham thiền, mà vai trò Tỳ Kheo không giữ thì không được.
Nếu Tỳ Kheo tham thiền mà chỉ giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, giống như thanh niên có vợ chỉ giữ đúng vai trò con mà không giữ vai trò chồng, đến khi sanh con không giữ đúng vai trò cha, như vậy không thể được. Cho nên, bổn phận đến đâu thì phải giữ đúng vai trò đến đó.
Hỏi:
Thiền
Thất
Khai Thị Lục nói: “Các vị tham đi sẽ được lạc
đường tự tại”. Vậy câu đó như thế nào?
Đáp:
Câu
đó
là tiếng Hán, chữ “lạc đường” không phải
đi sai đường, đó là đi đúng theo quỹ đạo, tức là công
phu được thành phiến gọi là lạc đường thì mới được
tự tại.
Hỏi:
Con
là
Phật tử thọ tam quy ngũ giới, Thầy nói “ăn một cục
thịt phải trả một cục thịt”. Trong cuộc sống thường
ngày có những con vật nhỏ như: Con cá, con kiến,… mình cần
phải giết. Như vậy có phải trả nợ đó không?
Đáp:
Phải
trả
nợ, theo nhân quả “giết một mạng phải trả một
mạng” mới đúng. Khi cọp gặp mình thì muốn ăn thịt mình,
theo người thế gian thì phải giết chết nó; nếu mình
giữ giới không sát sanh thì để cho cọp ăn, chứ không giết
chết nó, việc này là hạnh Bồ Tát.
Hỏi:
Tín
Tâm
Minh có câu: “ Tuyệt ngôn tuyệt lự, vô xứ bất thông”.
Có phải Tổ dạy: “Đừng nói đừng lo thì đừng động
não sẽ có kết quả”. Kính xin Sư Phụ khai thị?
Đáp:
Tham
thiền
là dùng không biết của bộ não để chấm dứt tìm
hiểu biết, suy nghĩ và ghi nhớ của bộ não. Ba thứ biết
này chấm dứt thì bộ não ngưng hoạt động tự nhiên tuyệt
ngôn tuyệt lự, công năng của tự tâm sẽ hiện ra dùng.
-“Cái bản thể đã chẳng thể thấy mà chẳng hợp logic kia mà phải nhờ tâm lực cá nhân của chúng ta đã sẵn có để chứng minh. Khi chúng ta y theo pháp thiền trực tiếp Tổ Sư thiền do Phật Thích Ca truyền dạy mà thực hành đến trình độ N, tức là đến giai đoạn tự động hóa, được một khoản thời gian, khiến 3 thứ biết (tìm hiểu biết, tư duy biết, ghi nhớ biết) được tạm ngưng, nghĩa là bộ não ngưng hoạt động thì phát huy được cái công năng sẵn có, chẳng dùng bộ não mà hoàn thành công tác bộ não. Khi ngưng hoạt động bộ não càng lâu thì độ thiền càng sâu, cái công năng tự phát thì lại càng lớn”.
Như vậy, “tuyệt ngôn tuyệt lự vô xứ bất thông” là vậy. Vì nó không bị không gian và thời gian làm chướng ngại.
Hỏi:
Lục
Tổ
dạy:
“Dục
nghĩ
quá tha nhân,
Tự
tu hữu phương tiện.
Vật
linh bỉ hữu nghi,
Tức
thị tự tánh hiện”.
Kính
xin
Sư Phụ giải thích chữ “phương tiện” và đoạn kệ?
Đáp:
“Phương
tiện”
này là người kiến tánh mới dùng được.
Bài
kệ
trên dịch là:
Muốn giáo hóa mọi người,
Tự cần có phương tiện.
Khiến người kia hết nghi,
Tức là Tự tánh hiện.
Như bây giờ tôi giải đáp, không phải muốn cho các vị hiểu biết giáo lý cao siêu là muốn giải tỏa cái nghi của các vị để các vị đầy đủ tin tự tâm.
Tôi giải thích có 5 thứ nghi: Nghi lý, nghi sự, nghi Pháp, nghi thầy, nghi mình.
Như nghi mình có nghiệp chướng nặng cũng không được, nghi thầy cũng không được, vì còn nghi thì thầy dạy không tin. Cho nên, biết phương tiện có người hỏi thì giải tỏa cái nghi cho họ để được tăng cường lòng tin tự tâm. Mục đích tham thiền là tự tánh hiện, nếu không tin tự tâm làm sao tự tánh hiện được?
Hỏi:
Khoa
học
hiện đã phát minh vô sinh và thực hiện ở con bò con
cừu, rồi cũng thực hiện bằng cách cấy mô. Như vạây con
người này do khoa học tạo ra, có phải là chúng sanh bình
thường không?
Đáp:
Khoa
học
không chế tạo cơ nhân được, phải nhờ cơ nhân sẵn
có, cũng như mình ghép cây này với cây kia. Nếu không có
cây thì làm sao ghép được? Họ phải dùng tế bào người
đó, nếu không có, họ đâu có thể tự tạo ra tế bào được!
Dùng tế bào con dê này thì giống con dê này, chứ không thể giống con dê khác, vì mỗi mỗi cơ nhân khác nhau. Trong cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, ở đoạn nói về đầu thai, nói rõ hơn sinh lý giải phẩu học của đại học Mỹ.
-“Muốn thuyết minh trình trạng luân hồi của nhân loại, nên nhờ câu tụng của Huyền Trang đại sư để chứng minh:
Bát Thức Quy Củ Tụng có câu “khứ hậu lai tiên tác chủ công”. Hấp lực tỏa ra do cộng nghiệp của mình và cha mẹ khi cha mẹ giao hợp, khiến thức thứ 8 đến trước nhất (lai tiên). Khi chết thức này rời nhục thân sau cùng (khứ hậu). Do tính chấp ngã của thức thứ 7 kết hợp với sinh lý của cơ thể, mà làm chủ nhân nơi thân này. Đồng thời do tinh cha trứng mẹ kết hợp hình thành thai nhi, nhờ bát thức làm cơ nhân (DNA) mà dần dần hình thành hệ thống thần kinh của bộ não, đồng thời cùng khắp các tế bào và lục phủ ngũ tạng của toàn thân, do bộ não làm thủ tướng.
Do sự lôi kéo của ngã chấp, khiến lục thức với lục căn hợp tác mà nghe theo lệnh của bộ não. Nhưng mà, lục căn thuộc về sắc pháp (thể vật chất), lục thức thuộc về tâm pháp (thể tinh thần), căn có thể hoại diệt, thức thì không thể hoại diệt. Nếu tu hành đến kiến tánh thì chuyển được bát thức thành tứ trí mà ra khỏi luân hồi, chấm dứt sự sanh tử, dứt hẳn sự đầu thai chuyển thế, tự do tự tại vĩnh viễn, chẳng còn tạo nghiệp và bị nghiệp lực trói buộc”.
Thức thứ 8 là cái kho chứa tất cả chủng tử thiện ác của mình kiếp trước làm cơ nhân. Cái đó mỗi mỗi khác, nên cái cơ nhân của mỗi người cũng mỗi khác. Phải dùng cơ nhân bồi dưỡng đều qua tử cung của người đàn bà mới thành thai nhi được. Bộ não làm thủ tướng, nhưng có 3 bộ phận: Tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ.
Bộ phận ghi nhớ mà nhà khoa học đã bắt chước chế tạo thành máy vi tính, dần dần họ cải tiến rất nhanh. Còn 2 bộ phận: Tìm hiểu và suy nghĩ, cũng có nhà khoa học nói là năm sau sẽ ra đời. Vì nó là vật chất có thể y theo đó mà chế tạo cái máy. Cũng như cái rada là bắt chước con dơi, con dơi không có con mắt, nhưng nó bay không đụng.
Hỏi:
Thế
nào
là “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”?
Đáp:
Vì
tự
tánh không thể thay đổi, không lay động nên gọi là
bất biến. Nhưng cũng tùy duyên mà hiện ra dùng, tùy duyên
nên bản thể lại bất biến, gọi là bất biến tùy duyên.
Bất biến là không biến đổi thì không chết mất, nên tồn
tại vĩnh viễn. Chỗ này Phật giải thích trong kinh Lăng Nghiêm
rất kỹ.
-Ai cũng cho kẻ thấy là con mắt, nhưng Phật chứng tỏ không phải sự thấy là con mắt. Vậy Phật làm sao chứng tỏ? Mỗi cuốn kinh đều có vị đại diện đương cơ cả triệu người nghe để hỏi Phật. A Nan là đại diện đương cơ.
Phật dùng tay thí dụ: Ta có cái tay để làm nắm tay, ngươi có con mắt thì thấy được Như lai, vậy hai việc này có giống nhau không?
A Nan đáp: Giống nhau.
Phật nói: Không giống. Tại sao? Ta có cánh tay mới làm ra nắm tay được. Nếu không có cánh tay thì nắm tay làm sao có? Người không có con mắt vẫn còn thấy được.
A Nan nói: Người không có con mắt làm sao thấy?
Phật bảo: Ngươi đi hỏi người không có con mắt, trước mắt có thấy gì không? Người ấy sẽ trả lời: Trước mắt sẽ thấy đen tối.
A Nan nói: Thấy trước mắt đen tối, sao gọi là thấy?
Phật muốn giải thích “thấy đen tối vẫn là thấy” thì phải thí dụ thêm. Một người không có con mắt ở trong phòng đen tối không có ánh sáng gì cả, có phải thấy trước mắt đen tối phải không?
A Nan đáp: Phải, thấy đen tối.
Phật nói: Vậy người có con mắt thấy trước mắt đen tối và người không có con mắt thấy trước mắt đen tối, hai thứ đen tối này có khác nhau không?
A Nan đáp: Không khác.
Phật hỏi tiếp: Vậy người không có con mắt, thình lình được con mắt sáng thấy đồ vật sắc tướng trước mắt, phải là con mắt thấy không?
A Nan đáp: Phải, con mắt thấy.
Phật hỏi tiếp: Người có con mắt ở trong phòng đen tối, thình lình đốt đèn lên thấy rõ đồ vật sắc tướng trước mắt, có phải đèn thấy không?
A Nan đáp: Không được. Cây đèn là hiển hiện sắc tướng để chiếu soi như lục căn vậy. Năm thức trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) chỉ tác dụng như cây đèn, chứ không phải kẻ thấy, kẻ thấy là tánh thấy. Thấy là nhãn thức mà không phải nhãn căn, nhãn căn chỉ là chiếu soi như cây đèn.
Sáng với tối là hai pháp sanh diệt, lúc sáng thì không thấy tối, lúc tối thì không thấy sáng. Nếu thấy tối là không thấy thì thấy sáng cũng là không thấy. Vì lúc sáng thì không thấy tối cho là không thấy, lúc tối thì không thấy sáng cũng cho là không thấy. Nói thấy thì hai cái đều thấy, thấy sáng cũng là thấy, thấy tối cũng là thấy. Tại sao thấy tối mà nói là không thấy? Còn thấy sáng cho là thấy! Đó là mâu thuẩn.
Do thí dụ của Phật nên mình biết: Cái thấy không phải con mắt, mà cái thấy là tánh thấy. Con mắt là tác dụng như cây đèn để chiếu soi. Căn là vật chất thì chết mất, thức là thể tinh thần không chết mất. Tại sao? Vì nó không lay động nên không biến đổi.
Tiếp theo vua Ba Tư Nặc hỏi Phật: “Ngoại đạo nói khi thân này chết thì tất cả đều biến mất” phải không?
Phật nói: Không phải, cái nào có lay động thì biến đổi chết mất. Cái nào không lay động không biến đổi không chết mất, tồn tại vĩnh viễn.
Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: Vua biết mình có cái không chết mất không?
Vua đáp: Không biết.
Phật nói: Để cho ta nói cho vua biết.
Phật dùng tay để đối đáp với A Nan, Tay Phật nắm buông rồi hỏi A Nan: Ngươi có thấy tay ta nắm buông không?
A Nan đáp: Thấy tay Phật nắm buông.
Phật nói: Thấy tay ta nắm buông hay tánh thấy của ngươi nắm buông?
A Nan nói: Tay của Phật nắm buông, còn tánh thấy của con đâu có lay động mà nói nắm buông!
Tay của Phật nắm buông, sau khi chết thiêu thành tro, chôn thành đất. Tánh thấy không lay động làm sao chết mất được? Vì không lay động thì không biến đổi, không biến đổi thì không chết mất. Tại vì con mắt lay động thì chết mất. Tánh thấy không lay động thì không chết mất, tồn tại vĩnh viễn.
Như vậy, Phật còn chưa thỏa mãn, cái lay động là thân của Phật, còn tánh thấy không lay động là thân của A Nan, hai thân khác nhau. Phật muốn trong một thân có cái lay động và có cái không lay động. Phật mới phóng hào quang bên vai mặt của A Nan, A Nan ngó qua vai mặt. Phật phóng hào quang vai trái của A Nan, A Nan ngó qua vai trái.
Phật hỏi A Nan: Tại sao cái đầu ngươi ngó qua ngó lại làm cho đầu ngươi lay động vậy?
A Nan đáp: Đầu của con lay động, còn tánh thấy của con tịnh còn không có làm sao có động?
Cho nên, cái đầu lay động thì sau này sẽ chết mất, thiêu thành tro, chôn thành đất. Còn tánh thấy không lay động, không biến đổi thì làm sao chết mất được? Không những tánh thấy không chết mất, mà tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết đều tồn tại vĩnh viễn, không chết mất.
Hỏi:
Lúc
chưa
tạo thiên lập địa thì mọi người ở đâu?
Đáp:
Chỗ
này
để các vị tham, không được giải thích. Mới có câu
thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” Nếu
có thể giải thích thì có thể tìm hiểu, nên không thể làm
câu thoại đầu để tham được. Cho nên, tham câu này là giữ
cái không biết mãi mãi, rồi đến chỗ thoại đầu mới kiến
tánh thành Phật.
Sau này các vị ngộ rồi sẽ tự biết, chưa ngộ mà đoán mò bậy bạ là sai lầm, vì không thể giải được. Mặc dầu, đã kiến tánh thì rõ biết, như Phật Thích Ca muốn nói cho mình biết thì không thể được. Nếu có thể nói được thì không phải rồi.
-Muốn làm nhà khoa học thì phải giỏi toán. Như lấy số một chia mãi không cùng tận được. Tại sao không có con số cuối cùng? Vì không có số cực nhỏ, không có số cuối cùng, không thể giải thích được. Nên Phật nói là không có sự bắt đầu (vô thỉ), cũng gọi là bất khả đắc. Chỉ có thể nói vậy thôi, làm sao giải thích được? Nếu giải thích thì có số cuối cùng, có số cực nhỏ. Không có số cực nhỏ thì không có số cực lớn, nên gọi là vô thỉ vô chung.
Hỏi:
Con
hỏi
câu thoại đầu “khi chưa có trời đất ta là cái gì?”
Chưa trời đất đã có bổn tâm, nhưng không biết là cái
gì? Như vậy có đúng cách dụng công không?
Đáp:
Câu
thoại
đầu là kích thích niệm không biết, không biết này
là không biết của bộ não, để chấm dứt biết của bộ
não là tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Khiến
bộ não ngưng hoạt động, chứ không phải hỏi câu thoại
để tìm hiểu đáp án của câu thoại. Nếu không chịu chấm
dứt tìm hiểu, mà lại kéo dài sự tìm hiểu thì sai lầm
lớn.
Bất cứ hỏi câu thoại nào đều kích thích niệm không biết, nên muôn ngàn câu thoại đều kích thích niệm không biết. Khán (nhìn) là nhìn chỗ không biết được kéo dài. Hỏi và nhìn, hai cái đi song song để giữ niệm không biết, không biết này gọi là nghi tình.
Chỉ cần giữ niệm không biết, chứ không phải tìm hiểu đáp án của câu thoại. Không phải muốn tìm hiểu ta là cái gì? “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” là chỉ kích thích niệm không biết. Nếu câu thoại đầu nào tìm hiểu được thì không thể dùng để tham. Phải dùng câu nào không thể giải thích, không thể tìm hiểu, mới làm cho mình khởi lên niệm chân thật không biết.
Hỏi:
Vô
thỉ
là không có bắt đầu, sao gọi là thoại đầu?
Đáp:
Vô
thỉ
thì không thể tìm hiểu, tức chưa có trời đất. Hữu
thỉ (có bắt đầu) thì dễ tìm hiểu. Câu thoại đầu không
thể tìm hiểu mới làm thoại đầu để tham được.
Hỏi:
Học
đạo
kiến tánh thì khó, vậy thế nào là kiến tánh?
Đáp:
Phật
Thích
Ca và chư Tổ đã kiến tánh cũng không thể nói cho mình
biết được. Nếu nói cho mình biết được thì mình khỏi
tu, có nói được thì không phải kiến tánh. Tự tánh không
phải sở biết, sở kiến. Không có năng kiến để kiến tự
tánh mới gọi là kiến tánh. Kiến tánh là tự tánh tự hiện.
Nếu có tự tánh mà Phật Thích Ca thấy được thì không phải
tự tánh, vì nó là nhị, tự tánh là bất nhị. Nếu có năng
kiến, sở kiến cũng là nhị.
Mặc dầu, Phật Thích Ca đã kiến tánh là tự tánh tự hiện, chứ không phải có người năng kiến để kiến tự tánh. Nếu tự tánh mà Phật Thích Ca phát hiện ra thì tự tánh này là sở kiến. Tự tánh không phải là sở kiến. Năng kiến và sở kiến đều diệt thì mới hiện ra tự tánh.
Hỏi:
Một
khi
kiến tánh rồi thì tướng bệnh đã hết, tướng mạnh
hiện ra. Tại sao ngài Hư Vân và vị sửa đường lộ gặp
nhau không biết, mà phải dùng thiền ngữ mới biết?
Đáp:
Vậy
cô
đã kiến tánh rồi sao! Nếu cô chưa kiến tánh sao biết
thế nào, thế nào? Người kiến tánh là tự biết mà không
thể nói cho người khác biết được, vì tự tánh không phải
là sở kiến.
Hỏi:
Con
ở
xa không gần các vị lão tham, có thể con tự chọn câu
thoại đầu để tham được không?
Đáp:
Câu
thoại
đầu là mình tự chọn, chọn câu nào không thể tìm
đáp án được thì mới thích hợp để tham; còn nếu có thể
tìm ra đáp án hay giải thích thì không thích hợp để tham.
Hỏi:
Tham
thoại
đầu ở nhà, đi ít ngồi nhiều được không?
Đáp:
Tham
thiền
ở nhà đi đến mỏi chân thì ngồi, ngồi đến tê
chân rồi đi, không cần nhất định thời gian nào. Nếu làm
công việc thì cứ làm, khỏi ngồi khỏi đi.
Hỏi:
Con
đến
đến với đạo Phật hơn một năm, đi tìm học Phật
và dự thiền thất lần thứ hai, pháp môn thiền con rất thích,
con tham câu “muôn pháp về một, một về chỗ nào?” Vậy
con nên học giáo lý ở trường nữa không? Nếu học thì phải
trả bài, vậy con phải làm sao?
Đáp:
Làm
nghề
nào tham thiền cũng được, làm thợ hồ thì cứ làm
thợ hồ, làm thợ mộc thì cứ làm thợ mộc, làm thợ bếp
thì cứ làm thợ bếp, làm nghề học cũng được vậy, huống
là học giáo lý. Bất cứ làm nghề gì cũng được, đừng
làm nghề nào mà gây ra quả báo không tốt. Như sát sanh hay
mua bán sinh mạng,… còn các nghề sinh sống làm bình thường,
tức là mình làm cái gì thì phải giữ đúng vai trò cái đó.
Hỏi:
Nghiên
cứu
giáo lý sách Phật, tụng kinh hằng đêm có tiếp tục
làm nữa không?
Đáp:
Tụng
kinh
là tu của giáo môn, tụng tới đâu thì thiền quán tới
đó, gọi là tùy văn quán tưởng. Tổ đình tông Thiên Thai
là Quán Tông tự tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Ngài Đế Nhàn
là Pháp sư danh tiếng của tông Thiên Thai. Một ngày có 3 thời,
mỗi thời có 2 giờ tụng kinh vừa quán, chứ không phải như
ở đây tụng kinh bao quán tưởng, tức là đang tụng kinh là
đang thiền nhiêu đó chỉ có 40 phút là xong. Tụng kinh không
phải cho Phật nghe. Còn có người nói tụng kinh mới tiêu
của Tín thí! Nhưng sự thật thì không phải vậy, tụng kinh
là tu, có tu mới tiêu của Tín thí được, đó là cách tu
của giáo môn.
Hỏi:
Vai
trò
của bộ não trong bát thức như thế nào?
Đáp:
Bát
thức………
nghiệp lực trói buộc.(Trang 202 - 203).
Lục căn thì có mỗi căn nhiệm vụ riêng biệt, 8 thức thì có nhiệm vụ của mỗi thức. Vai trò bộ não là hệ thống thần kinh tức là lục căn. Người thường hay nhà khoa học chỉ biết bộ não, họ cho 8 thức chỉ một thức là bộ não, rồi cùng với lục căn. Đến lúc bát thức chuyển thành tứ trí thì cũng dùng bộ não, nhưng bộ não chỉ là công cụ nô lệ của tứ trí (chơn tâm) tức là cái dụng của chơn tâm.
Bát thức chưa chuyển thành trí thì hợp tác với hệ thống thần kinh (lục căn) nghe lệnh của bộ não gọi là vọng tâm, nghịch với thực tế. Bộ não làm chủ là theo ngã chấp, mới có những chuyện ác. Làm thiện làm ác đều do bộ não chỉ huy, bát thức chuyển thành tứ trí chỉ có làm thiện, chứ không có làm ác. Nhưng làm thiện cũng không cho làm thiện.
Hỏi:
Phật
tánh
siêu việt logic, có đồng với câu “cứu cánh cùng cực,
bất tồn quỷ tắc” của Tín Tâm Minh không?
Đáp:
Cũng
giống
như vậy, nếu có logic thì có tương đối, phải có
thí dụ. Còn chơn tâm bất nhị không có tương đối thì không
thể dùng lời nói để diễn tả, không thể theo logic để
chứng minh. Cho nên, nói “Phật tánh siêu việt logic”. Nếu
nói đồng là nhị, nói khác cũng là nhị. Tại sao? Người
ta nói “đồng nhất”, nhưng phải có hai cái mới đồng
được, như cái này đồng với cái kia. Còn khác cũng vậy,
cái này khác với cái kia, phải có hai cái mới nói khác.
Hỏi:
Các
chùa
thường có gia phả chánh pháp hoặc Lâm Tế chánh tông,
có phải là triệt ngộ không?
Đáp:
Xưa,
có
triệt ngộ mới truyền tâm ấn gọi là nối pháp. Thường
thường thầy truyền pháp, đệ tử ngộ rồi được thầy
ấn chứng, nhưng thầy không biết nối pháp của mình.
Sau khi vị ấy ra làm trụ trì, bắt đầu hoằng pháp, đốt
cây hương đầu tiên và tuyên bố “thầy truyền pháp cho
tôi là người….”, rồi gởi thư cho thầy, nói “nhờ ơn
pháp nhũ của thầy mà nay con được nối pháp”, có khi thư
gởi đến thì thầy đã tịch hay thư đến vị thầy đó mới
biết mình có pháp tử.
Thời ấy có người kiến tánh mới nối pháp, sau này chưa kiến tánh cũng nối pháp. Rồi dần dần tệ hơn, nhưng lại có tham thiền; sau nữa thầy tìm đệ tử nối pháp. Đến sau còn tệ hơn không có tham thiền mà có niệm Phật cũng được truyền pháp thiền. Sau nữa không niệm Phật và không tu mà được truyền là đệ tử của Thiền sư đời nào đó…
Bây giờ càng ngày càng tệ, thầy viết ra pháp huyễn không biết người đó có đọc qua pháp quyển không? Nhưng cũng kể từ 7 Phật quá khứ đến bây giờ, từ đời từ đời đều đầy đủ hết. Như ban đầu là sữa nguyên chất, rồi pha thêm nước, pha đến lúc nước nhiều hơn sữa, cuối cùng chỉ còn có nước, như hiện nay cũng gọi là pháp nhũ!
Hỏi:
Con
vừa
hỏi câu thoại và nhìn một chỗ, một niệm chưa sanh,
khi câu thoại vừa hết, con lại hỏi tiếp tục. Trong lúc
đó cái nhìn vẫn liên tục. Vậy như thế nào?
Đáp:
Mình
phải
tập lần lần, cái hỏi thì dễ hơn cái nhìn, vì thói
quen của mình thì phải có mục tiêu để nhìn; bây giờ không
có mục tiêu để nhìn thì người ta không quen. Nhưng phải
tập lần lần cho quen, tức là không thấy gì cũng nhìn hoài,
nhìn chỗ trống rỗng không có gì cũng nhìn, mà hỏi và nhìn
2 cái đi song song tập lần lần, tập lâu sẽ nhìn được.
Hỏi:
Người
kiến
tánh là tương đối bước vào lãnh vực tuyệt đối.
Vậy có đúng không? Tuyệt đối có phải triệt ngộ không?
Đáp:
Công
phu
đến chỗ nào thì biết đến chỗ đó, chưa tới mà tìm
hiểu là sai lầm. Đừng nói mình chưa chứng gì hết, Sơ Địa
còn chưa biết Nhị Địa, Nhị Địa thì không biết Tam Địa.
Chưa chứng Nhị Địa mà tìm hiểu Nhị Địa là sai lầm,
chứng Nhị Địa rồi tìm hiểu Tam Địa cũng sai lầm, huống
là chưa chứng gì hết! Muốn tìm hiểu Thập Địa, Đẳng
Giác, Diệu Giác, vậy làm sao được?
Tham thiền là chấm dứt tìm hiểu, công phu đến đó mới biết; còn bây giờ công phu chưa đến chỗ đó làm sao biết? Như mình chưa đến Hà Nội mà hỏi thành phố Hà Nội là sao? Dẫu cho người ta nói để mình biết, mình cũng không biết được. Khi nào mình đến Hà Nội thì tự biết rõ ràng. Nếu nghe sự diễn tả của người ta để biết, nhưng đến nơi thì lại thấy khác.
Hỏi:
Tự
tánh
cùng khắp, sao bộ não không cùng khắp?
Đáp:
Bộ
não
là vật chất thì bị không gian và thời gian hạn chế
nên không cùng khắp. Còn tự tánh là phi vật chất nên tự
nhiên cùng khắp.
Hỏi:
Tại
sao
khởi niệm hỏi câu thoại gọi là tham thoại đầu?
Đáp:
Khởi
niệm
lên thì không phải thoại đầu, vì mục đích muốn
đến thoại đầu nên gọi là tham thoại đầu hay là khán
thoại đầu. Nhưng sự thật nhờ câu thoại để hỏi mà khởi
lên niệm không biết, chứ không phải thoại đầu.
Bộ não (ý thức) gồm có mặt biết và mặt không biết. Nếu dùng mặt biết để tu gọi là Như Lai thiền, dùng mặt không biết để tu gọi là Tổ Sư thiền, cuối cùng đều đến thoại đầu.
Bắt đầu hỏi và tham là rời khỏi thoại vỉ, nhưng chưa đến thoại đầu, đang đi ở giữa đường thì một ngày kia sẽ đến thoại đầu, tức là tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết đều chấm dứt.
Chỗ thoại đầu còn gọi là vô thỉ vô minh, cũng gọi là đầu sào 100 thước là nguồn gốc bộ não. Từ đầu sào 100 thước bước lên một bước nữa là lìa ý thức thì biết và không biết của bộ não được sạch, cái biết Phật tánh hiện ra khắp không gian và khắp thời gian.
Vì bộ não là vật chất nên không cùng khắp không gian thời gian, lìa bộ não được phi vật chất là Phật tánh. Nếu còn dính líu với bộ não thì không cùng khắp được.
Hỏi:
Cấy
mô
tế bào động vật được hình thành, vậy đó có phải
là hữu tình không? Và có bị chi phối nhân quả không?
Đáp:
Hữu
tình
là loài động vật, nếu dùng tế bào con đực cấy vào
trứng của con cái và dùng tinh trùng con đực cấy vào trứng
của con cái, hai việc này giống nhau.
Hữu tình cũng phải chi phối theo luật nhân quả, có tình cảm buồn vui, yêu ghét, biết đau biết khổ. Vô tình thì không biết đau, biết khổ.
Bồ Tát là bồ đề tát đỏa, nghĩa là giác hữu tình làm cho hữu tình được giác ngộ, chứ không phải đối với vô tình, vô tình thì không thể giác ngộ được. Phật thuyết pháp là đối hữu tình mà thuyết.
Hữu tình là chánh báo, vô tình là y báo, tức là để cung cấp cho hữu tình dùng, chánh báo là chủ.
Hỏi:
Phương
pháp
hành thiền tự tánh như: Thiền là tỉnh thức, thiền
là an nhiên, thiền là điềm đạm, thiền là không vọng tưởng,
thiền là ở sáu căn, thiền là khi tụng kinh, thiền khi niệm
Phật, tất cả những đề mục trên, có phải oai nghi tế
hạnh của người tu không? Hay là Như lai thiền?
Đáp:
Không
phải
Như Lai thiền, mà là tà ma ngoại đạo thiền, không
phải chánh pháp của Phật dạy. Chánh pháp của Phật dạy
là Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa
(Tổ Sư thiền), tức là 4 thừa.
Ngài Nguyệt Khê giải thích 4 thừa:
1.Tiểu
thừa:
-Giai
đoạn
chấp ngã: Tất cả pháp môn của chánh pháp đều phá
ngã chấp. Tiểu thừa là giai đoạn phá chấp ngã.
-Chủ quan duy vật luận: Tại sao nói duy vật? Vì lục căn đối với lục trần đều là duy vật.
-Phạm vi tương đối: Lục căn và lục trần là tương đối.
-Tu Tứ Thánh Đế: Tứ Thánh Đế còn gọi là Tứ Diệu Đế (khổ, tập, diệt, đạo), hằng ngày mình thấy khổ, khổ đó là do tâm tạo ra gọi là tập đế. Muốn diệt khổ thì phải tu đạo, rồi mới chứng diệt (Niết bàn). Cho nên nói là khổ, tập, diệt, đạo.
-Ở trong nhất niệm vô minh: Cuộc sống hằng ngày của mình đều ở trong nhất niệm vô minh, từ niệm này qua niệm kia ngày đêm không ngừng. Ban đêm biến hiện ra nhắm mắt chiêm bao, ban ngày biến hiện ra mở mắt chiêm bao.
-Thừa Thanh văn: Là Tiểu thừa nghe âm thanh của Phật thuyết pháp được ngộ đạo.
-Mục đích đoạn dứt lục căn: Tiểu thừa cho lục căn là nguồn gốc, vì lục căn tiếp xúc lục trần, ham thích lục trần mới sanh ra phiền não. Cho nên Tiểu thừa là muốn dứt lục căn, vì không có lục căn thì không có phan duyên lục trần, nên mới hết cái khổ phiền não.
2.Trung thừa:
-Giai đoạn phá pháp chấp: Đến Trung thừa thì phá được ngã chấp, nhưng lại chấp pháp. Tất cả vũ trụ vạn vật, bất cứ cái gì đều là pháp.
-Chủ quan duy tâm luận: Không phải đối với vật hay đối với lục căn, lục trần. Phá được ngã chấp là không đối với vật, nhưng lại đối với pháp. Pháp không có hình thể chỉ là khái niệm trong tâm, nên gọi là duy tâm luận.
-Phạm vi tương đối: Thừa này còn ở trong phạm vi tương đối, vì pháp với tâm là tương đối.
-Tu mười hai nhân duyên: Trung thừa tu 12 nhân duyên là từ vô minh đến lão tử, bao gồm quá khứ, hiện tại, vị lai.
-Ở trong nhất niệm vô minh: Thừa này vẫn còn ở trong nhất niệm vô minh, tức là từ niệm này qua niệm kia.
-Thừa Duyên giác: Vì họ tu 12 nhân duyên được giác ngộ, nên gọi là thừa Duyên giác.
-Mục đích đoạn nhất niệm vô minh: Tiểu thừa đoạn lục căn, vì lục căn bám theo lục trần là duy vật. Chấp pháp là cái niệm chấp pháp. Ý niệm đó gọi là nhất niệm vô minh, nên đoạn nhất niệm vô minh để không còn chấp gì nữa.
3.Đại thừa:
-Giai đoạn không chấp: Đến Đại thừa thì phá được ngã chấp và pháp chấp, nhưng lọt vào không chấp tức là chấp không.
-Tâm vật hợp nhất: Tiểu thừa là duy vật, Trung thừa thì duy tâm, Đại thừa là duy tâm và duy vật hợp một.
-Phạm vi tương đối: Tâm với vật hợp một cũng còn tương đối.
-Tu sáu ba la mật: Đại thừa là tu sáu ba la mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ).
-Ở trong vô thỉ vô minh: Ở trên là nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh được phá rồi, đến nguồn gốc là vô thỉ vô minh, Thiền tông gọi là thoại đầu.
-Tu Bồ Tát thừa: Tu 6 ba la mật, tức là Đại thừa.
-Mục đích phá vô thỉ vô minh: Nhất niệm vô minh sạch thì đến vô thỉ vô minh. Tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ đều là nhất niệm vô minh, nhất niệm này sạch hết thì đến thoại đầu là vô thỉ vô minh.
4.Tối thượng thừa:
-Giai đoạn thật tướng: Tiểu thừa phá ngã chấp, Trung thừa phá pháp chấp, Đại thừa phá không chấp thì đến chỗ thật tướng.
-Phi tâm phi vật: Cái kia còn ở trong tương đối có tâm có vật, đến Tối thượng thừa thì chẳng phải tâm cũng chẳng phải vật. Như ngài Long Thọ nói: “Tâm như hư không vô sở hữu” tức là không có gì cả (trống rỗng).
-Phạm vi tuyệt đối: Trống rỗng không có gì, là tương đối đi vào tuyệt đối.
-Tham thoại đầu, công án: Tối thượng thừa là tham thoại đầu. Tôi dạy các vị tham thoại đầu, tham công án. Công án phức tạp hơn thoại đầu, nhưng đều giữ cái “không biết”. Như người ta gặp công án, ngộ thì ngộ, không ngộ thì không hiểu, không hiểu tức là không biết (nghi tình), giữ nghi tình thì sau này sẽ được ngộ. Chứ không phải các người làm tày khôn viết sách thiền giải công án, tìm hiểu công án, ấy là sai lầm, phải bị tội địa ngục. Công án là để cho người ta ngộ, chứ không phải để cho người ta tìm hiểu.
-Chơn như Phật tánh: Tối thượng thừa là mục đích hiện Chơn như Phật tánh.
-Nhất Phật thừa: Các thừa trên gọi là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, còn đây gọi là Phật thừa.
-Vạn đức viên mãn vô tu vô chứng: Đến chỗ này thì tất cả đầy đủ, vì nó sẵn có nên gọi là vạn đức viên mãn. Tại nó sẵn có nên không phải tu mới thành, nên nói là vô tu; không phải chứng mới đắc gọi là vô chứng, vì nó thành sẵn đắc sẵn. Tại nó bị che khuất, nên tham thiền là dẹp bỏ các che khuất thì nó tự hiện.
Như luyện quặng vàng, luyện bỏ tạp chất thì vàng ròng hiện ra; vàng ròng được hiện ra thì phải qua luyện mới được. Nhưng không phải luyện rồi mới thành, vàng đã thành sẵn ở trong quặng, nhưng bị đất cát tạp chất che khuất.
Như Phật tánh đã thành sẵn, bị biết và không biết của bộ não che khuất, nên phải nhờ tham thoại đầu hay tham công án, dẹp bỏ những che khuất để Phật tánh hiện ra, chứ không phải tu mới thành chứng mới đắc, nên gọi là vô tu vô chứng.
Hỏi:
Trong
tác
phẩm Nẻo Vào Thiền Học có viết một đoạn kể lại
đối thoại giữa 2 vị là Thiền giả và Hòa thượng.
Thiền giả hỏi: Đạo là gì?
Hòa thượng trả lời: Đạo là tâm bình thường của con người.
Thiền giả nói: Vậy cần gì phải tu?
Hòa thượng trả lời: Nếu có tu thì trái với đạo.
Kính xin Sư Phụ giảng: Có ý muốn tu là trái với đạo?
Đáp:
Vì
vô
tu vô chứng, tại không phải tu mà thành.
Hỏi:
Thế
nào
phiền não tức Bồ đề và sanh tử tức Niết bàn?
Đáp:
Bồ
đề
là giác ngộ, phiền não là si mê. Nếu không có si mê
thì làm sao có giác ngộ? Nên có si mê mới có giác ngộ. Mê
và ngộ là tương đối.
Hỏi:
Con
dùng
“tâm là cái gì?” làm thoại đầu để tham được
không?
Đáp:
Tâm
là
danh từ ai cũng nói được, nhưng tâm là cái gì thì ai
cũng không biết, chỉ là tâm tự biết, Phật Thích Ca cũng
không biết được. Nếu Phật biết được thì nó thành sở
biết, tức là còn ở trong tương đối, có năng có sở. Chân
tâm không phải sở biết nên gọi là bất nhị, nhị là tương
đối; không có tương đối nên nó không bị phát hiện được,
nó không thành sở biết. Nếu có năng biết và sở biết thì
không phải chân tâm.
Hỏi:
Giới
Bồ
Tát nói: “Người đã thọ giới Bồ Tát, nếu bán rượu
thì 500 kiếp không tay”, lúc con đi ăn chung với bạn, bạn
có nhờ con đưa rượu cho người ta uống. Vậy con có mang
tội không?
Đáp:
Ngũ
giới
là giới của thừa Thanh Văn, bán rượu thì không phạm,
còn uống rượu thì phạm, vì chỉ không cho thân phạm. Còn
giới Bồ Tát là cấm thêm tâm, cho nên tâm động là phạm.
Giới Bồ Tát uống rượu là tội nhẹ, bán rượu thì tội
nặng.
Bồ
Tát
là hy sinh thân mình là cứu độ chúng sanh, bán rượu
là hại chúng sanh nên tội nặng, còn uống rượu chỉ hại
một mình nên tội nhẹ.
Hỏi:
Giới
Bồ
Tát có xả được không?
Đáp:
Giới
của
nhà Phật bất cứ giới nào đều xả được hết. Như
Bát quan trai giới chỉ một ngày một đêm là xả.
Hỏi:
Nghi
sự
là gì?
Đáp:
Sự
là
công việc, bất cứ công việc gì đều là sự. Như giải
đáp của tôi cũng là sự, các vị đi hương, tọa hương trong
thiền thất cũng là sự, tức làm là sự. Như muốn cất nhà,
phải theo kiến trúc mà xây tường lợp mái, những việc ấy
đều là sự.
Nghi sự của mỗi người thì mỗi khác. Cũng như nghi việc tham thiền có được giải thoát không? Nghi lý tham thiền có đúng lý không?
Hỏi:
Nếu
con
xuất gia mà bỏ cha mẹ già, vậy có bất hiếu không?
Nếu xuất gia chơn tu là đại hiếu, còn tại gia có hiếu nuôi cha mẹ đến già chết nhưng không được giải thoát, kiếp sau vẫn còn tiếp tục chịu khổ. Nếu mình xuất gia chân tu giải thoát thì sẽ cứu được cha mẹ. Như Phật Thích Ca tu được giải thoát, rồi về độ cha mẹ và tất cả thân thuộc.