Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 5

13 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10494)
Trang 5

Hỏi:

 Mẹ con bán chim phóng sanh, có một số chim bị chết, con nhổ lông đem bán để khỏi bị lỗ. Như vậy con có bị phạm vào nhân quả hay không?

Đáp:
 Mua chim về rồi tụng kinh để phóng sanh, mà nhiều con đã bị chết. Việc làm này không đúng, phóng sanh không có ý để mua; tức là gặp chỗ nào thì mua phóng sanh chỗ ấy liền. Chứ không đến chỗ bán chim để mua, người ta đem vào chùa bán cũng không được mua.

 Người ta đem chim vào chùa bán mà mình mua để phóng sanh, là mình mướn người ta đi bắt chim. Chứ không phải phóng sanh.

 Nếu mua chim về để bán thì bị tội nhân quả. Vì họ mua bán sinh mạng để kiếm lời, dù chim không bị chết nhưng nó cũng đau khổ, vì vậy người bán chim phải bị nhân quả.

Hỏi:
 Những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, có phải cha mẹ bị mắc nợkiếp trước không?

Đáp:
 Cũng có người sanh 2 đứa con, người con có hiếu thì đến trả nợ, người con bất hiếu thì đến đòi nợ.

Hỏi:
 Tự tánh vốn sẵn có, sao bộ não xen vào Tự tánh?

Đáp:
 Bộ não là nghiệp tạo thành, do chủng tử thiện ác kiếp trước của thức thứ 8 đem theo đầu thai. Vì ngã chấp của thức thứ 7 khiến cho lục thức lục căn hợp tác nghe theo lệnh của bộ não. Bộ não là hệ thống thần kinh theo ngã chấp mà tạo nghiệp nhân thì phải chịu nghiệp quả, chứ không phải Tự tánh bất nhị không có tương đối. Khi chuyển bát thức thành tứ trí thì mới hiện Tự tánh bất nhị. Còn bây giờ Tự tánh bị che khuất, nên lục cănlục thức theo lệnh của bộ não.

Hỏi:
 Tại sao tâm ma ở trong thì khó trị, còn tâm ma ở ngoài thì dễ trị?

Đáp:
 Ở ngoài thì không phải tâm ma, tự tâm của mình sanh mới gọi là tâm ma. Tâm ma ở trong ra thì khó trị, vì mình không biết; còn tâm ma ở ngoài vô thì dễ trị. Nếu mình giữ được chánh niệm nên ma không thể có. Thực hành được 9 chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” thì ma cũng không đến được.

Hỏi:
 Người cư sĩ thọ tam quy ngũ giới có bắt buộc phải ăn chay không?

Đáp:
 Nên ăn chay, vì giới thứ nhất là cấm sát sanh; nếu không sát sanh thì sao có thịt để ăn! Có người nói “tôi đi mua thịt của người ta làm sẵn”. Thí dụ: Người ta làm sẵn 10 con gà để bán thì phải có người mua, nếu 10 con gà được bán hết thì ngày mai họ lại làm thêm 12 con, 12 con bán hết thì bửa sau làm 15 con. Nếu 10 con gà bán không được thì ngày mai họ phải nghĩ bán, không giết hại nữa. Cho nên người mua là thúc đẩy cho họ giết thêm. Trong kinh Lăng Già nói: “Mình dùng tiền bắt họ đi giết”.

Hỏi:
 Tại sao chúng con ngồi tham thiền bị hôn trầm, trạo cử lắc lư cựa quậy?

Đáp:
 Lúc bớt vọng niệm thì tự nhiên sinh lý bị hôn trầm, còn vọng niệm nhiều thì bì bị trạo cử. Khi hôn trầm phải mở mắt, mở mắt còn hôn trầm thì lấy nước lạnh rửa mặt. Nếu rửa mặt mà còn hôn trầm, nên đứng dậy đi kinh hành và kiếm công việc để làm. Còn vọng niệm nổi lên thì nhắm mắt lại, hỏi và nhìn liên tiếp.

Hỏi:
 Phật tử tại gia tham thiền có những giai đoạn thử thách đau khổ trong cuộc sống, vậy có phải trả nghiệp không?

Đáp:
 Có thử thách mới gọi là tu, nếu khôngthử thách giống như người ta nhập thất tự nhốt trong phòng, việc ấy không phải tu, mà lại có hại nữa, vì không có tiếp xúc cảnh vật bên ngoài. Chuyện đó trong Thiền tôngcông án:

 Thiền sư ở trên núi một mình, có lần xuống núi gặp đứa bé bị bỏ, rồi đem về núi để nuôi. Nuôi bé được 20 tuổi, ở trên núi chỉ có 2 thầy trò, không có người khác ở. Đứa bé chỉ thấy chim cá cọp beo.

 Một hôm, Thiền sư dắt đứa bé xuống chợ. Đứa bé thấy cái này cái kia không biết nên gặp cái nào cũng hỏi thầy.

 Bé hỏi thầy: Cái này là gì?

 Thầy nói: Cái bình.

 Bé hỏi thầy: Cái này là gì?

 Thầy nói: Cái tách.

 Bé gặp cái nào cũng hỏi, rồi gặp người nữ lại hỏi: Cái này là gì?

 Thầy nói: Con cọp chợ. Cọp ở trên núi mày đã biết rồi phải không? Cọp chợ lợi hại hơn cọp ở núi! Đừng có gần nó nghe không?

 Bé nghe như vậy thôi. Khi trở về núi thầy mới hỏi bé: Lúc mày xuống núi chơi có thích nhất cái gì không?

 Bé nói: Con không thấy cái gì thích, nhưng trong lòng con thích nhất cọp ở chợ.

 Từ nhỏ bé đâu gặp cọp chợ, nhưng khi gặp lại thích. Cho nên bé ở trên núi như nhập thất 20 năm, đâu có ích lợi gì!

Hỏi:
 Chúng con sơ cơ tham thiền chưa rõ cách nhìn. Kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
 Vì không có chỗ để nhìn, mà tánh con người muốn nhìn thì phải có cái gì để nhìn; đã không có mục tiêu nhưng cũng phải nhìn, thành ra mới thấy khó. Tập dần dần như tập xe máy, ban đầu tập hai tay vịn nhưng cứ ngã, sau này tập được thì hai tay vịn không ngã, tập được quen mà hai tay buông cũng không ngã, tập thuần thục lúc quẹo cũng không cần tay, rồi tập thêm nữa muốn ngừng muốn nhảy cũng được nữa.

 Người ta tập xe một bánh để chạy biểu diễn vẫn được. Nên tập dần dần quen thuộc thì nó tự động sẽ tham thiền được.

Hỏi:
 Chúng con mới tham thiền học đạo, nhưng lỡ chết đi, chúng con có gặp lại chánh pháp này không?

Đáp:
 Theo nhân quả, khi gieo chánh nhân thì sẽ thành chánh quả, tà nhân thì bị tà quả. Tham Tổ Sư thiền của Phật Thích Ca truyền dạy là gieo chánh nhân. Giả sử ngày nay tham thiền mà ngày mai chết, nhưng chánh nhân đã gieo rồi thì kiếp sau tiếp tục cho đến cuối cùng kiến tánh thành Phật, tại vì nhân quả rõ ràng.

 Câu chuyện con dâu và mẹ chồng:

Mẹ chồng có bệnh đau nhức, con dâu biết châm kim, châm là hết liền, nhưng vài ngày sau đau nhức lại, nên phải châm kim. Cứ vậy mà châm đi châm lại hoài.

 Mẹ chồng biết tu, cầu nguyện Quán Thế Aâm, thấy chiêm bao nghe nói: “Vì bà lúc trước châm kim con dâu nhiều lần, nên bây giờ con dâu phải châm kim bà lại, nhưng còn 19 lần châm nữa mới hết”. Mẹ chồng thức dậy chưa đau nhức lại bảo con dâu châm kim 19 lần.

 Con dâu nói: Không có đau nhức mà châm làm chi?

 Mẹ chồng nói: Kệ cứ châm đi, năn nỉ con dâu.

 Con dâu bất đắc dĩ châm 19 lần thì bệnh đau nhức của mẹ chồng từ đó về sau không còn nữa.

Hỏi:
 Tại sao các Thiền Viện chỉ thờ Phật Thích Ca và các Tổ Ma Ha Ca Diếp,… mà không thờ các vị Phật khác, như Phật Di Đà, Phật Quan Thế Aâm,…?

Đáp:
 Thiền ĐườngTrung Quốc không có thờ Phật gì hết. Ngày xưa Bá Trượng sáng lập Tòng Lâm không có thờ Phật. Bây giờ có chùa chỉ thờ Phật Thích Ca, lại có chùa thờ đủ thứ, nói ra cũng không nói ra hết được. Nhưng Thiền tông không nói đến việc thờ, nếu nói đến thờ thì không phải Thiền tông. Thiền tông có chùa là bắt đầu ngài Bá Trượng.

Hỏi:
 Phật Thích Ca nhập diệt rồi, có phải theo sự sanh tử của người thế gian để cứu độ họ hay là về ở cõi thiên, không còn ở cõi này nữa?

Đáp:
 Người hỏi có đọc Bát Nhã Tâm kinh không? Mỗi ngày ở chùa có đọc Bát Nhã Tâm kinh ba lần. Bát Nhã Tâm kinh nói: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”. Vô lão tử là không có sanh tử, người kiến tánh triệt đểngộ khôngsanh tử. Người hỏi luôn Bát nhã Tâm kinh còn không đọc! Tưởng Phật Thích Ca còn ở trong sanh tử thì thành Phậtích lợi gì!

 Hôm qua nói: “Không phải tu mới thành, chứng mới đắc, tức là đã thành đã đắc rồi”. Thiền tông ngộ vốn không có sanh tử thì liễu thoát được sanh tử, chứ không phải có sanh tử, rồi tu đến thành Phật lại còn ở trong sanh tử nữa!

Hỏi:
 Kinh Pháp Hoa có từ năm nào? Và do vị nào làm tác giả?

Đáp:
 Kinh Pháp Hoa là Phật Thích Ca thuyết, nhưng Phật Thích Ca nói trong kinh Pháp Hoa: “Vị Phật nào cũng đều thuyết kinh Pháp Hoa”, chứ đâu phải có ai làm tác giả!

Hỏi:
 Câu thoại đầu chưa khởi niệm là như thế nào?

Đáp:
 Nếu không có khởi niệm thì làm sao nói như thế nào được! Như thế nào là đã khởi niệm rồi, mới biết là “như thế nào”. Còn chưa khởi niệm làm sao biết như thế nào, phải mâu thuẩn không?

Hỏi:
 Chiếu cố thoại đầu là gì?

Đáp:
 Chiếu cố thoại đầu là nhìn chỗ không biết để giữ cho không biết được kéo dài.

Hỏi:
 Có người nói: Chỉ cần chăm chú hỏi rõ ràng câu thoại đầu là được rồi, có được không?

Đáp:
 Không được chăm chú, không được tập trung tinh thần, không được cố gắng. Chư Tổ nói “ít phí sức chừng nào thì tốt chừng nấy”. Tức là chỉ hỏi và nhìn để giữ nghi tình (không biết), nếu không biết làm sao chăm chú! Chăm chú là đã biết rồi. Kéo dài nghi tình một chút bằng sợi chỉ cũng được, chứ không được chăm chú để phí sức.

Hỏi:
 Ở thế gian muốn học Đại học thì phải tốt nghiệp Trung học rồi mới đi vào Đại học. Nếu muốn rút ngắn thời gian thì phải nhảy lớp, nhưng căn bản ở mỗi lớp phải học qua. Còn đối với pháp xuất thế gian, chúng con tu pháp Tối thượng thừa thì phải tu từ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa để có thể nắm bắt căn bản của các thừa trên không?

Đáp:
 Giáo môn là từ cấp từ cấp mà lên, còn Thiền mônđịa vị phàm phu tu chứng lên Đẳng Giác, nên không có giai cấp. Giáo môn thường có 52 cấp: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, gồm có 50 cấp và Đẳng Giác, Diệu Giác, tổng cộng là 52 cấp.

 Kinh Lăng Nghiêm có 57 cấp. Mặc dầu Thiền môn có nói tam quan là “Sơ Quan, Trùng Quan Và Mạc Hậu Lao Quan”, ấy là phương tiện tùy theo căn cơ. Có người không cần phải qua Sơ Quan, Trùng Quan mà thẳng tới Mạc Hậu Lao Quan, chứ không có cấp nào hết.

Hỏi:
 Con là Phật tử tại giaquy y thọ 5 giới, con chỉ giữ được 10 ngày ăn chay trong mỗi tháng, không biết như vậy có phạm giới sát sanh không?

Đáp:
 Theo nhân quả thì ăn cục thịt phải trả lại cục thịt, giết 1 mạng phải trả 1 mạng. Người Phật tử thọ 5 giới, mà giới đầu tiên là cấm sát sanh, nếu ăn chay 10 ngày trong mỗi tháng, còn 20 ngày kia thì sao? Khỏi trả nợ chăng? Để cho người ta làm sẵn cho ăn sao!

 Việc ấy là nhân quả, Phật muốn mình đừng gây ác nhân mà phải bị ác quả. Mình không ăn người ta thì không bị người ta ăn lại. Còn nói “tôi không có giết mà người ta giết sẵn cho tôi ăn”. Hôm qua tôi có thí dụ, người ta giết 10 con gà đem ra chợ bán, nếu bán hết thì ngày mai sẽ giết 12 con, 12 con bán hết thì ngày mốt sẽ giết 15 con. Giả sử 10 con gà không bán được thì họ nghĩ bán, không giết hại nữa. Vì người mua nên thúc đẩy họ giết.

Cho nên kinh Lăng Già nói: “Người dùng tiền mua thịt ăn, tức là dùng tiền để sát sanh thì cũng phải trả quả”.

Hỏi:
 Chúng sanh do nghiệp mà có, rồi chừng nào mới hết nghiệp?

Đáp:
 Kiến tánh triệt để mới hết nghiệp. Cho nên, chư Phật chư Tổ muốn mình kiến tánh triệt để. Vì nghiệp là ở trong mở mắt chiêm bao, kiến tánh triệt để là ở trong mở mắt chiêm bao được thức tỉnh, nhân quả và nghiệp ở trong chiêm bao đều chấm dứt. Vì nhảy ra ngoài chiêm bao thì không dính líu với chiêm bao nữa.

 Nếu chưa giác ngộ triệt để thì còn dính líu trong chiêm bao, nên đầu thai thành con heo, con bò,… mà không có biết!

 Như nhắm mắt chiêm bao mà tạo tội, bị chánh phủ chiêm bao bắt rồi tuyên bố tử hình; trong nhắm mắt chiêm bao phát tài thấy rất mừng, thức dậy tìm lại những việc trên không có. Nên chư Phật chư Tổ cần mình thức tỉnh ở trong mở mắt chiêm bao. Hiện nay mình ở trong mở mắt chiêm bao. Tôi đang giảng và các vị đang nghe cũng ở trong mở mắt chiêm bao.

 Nhắm mắt chiêm bao là một thức biến hiện, còn mở mắt chiêm baođồng thời 2 thức biến hiện đều là do tâm tạo. Tâm tạo thì không phải thật, không phải thật nên nói là chiêm bao.

Hỏi:
 Tự tánh cùng khắp, sao có bộ não?

Đáp:
 Bộ não không phải Tự tánh, vì bộ não là vật chất, còn Tự tánh không phải vật chất. Bộ não có lục cănhệ thống thần kinh đều là vật chất, nếu dùng kính hiển vi thì thấy được. Bộ não gồm 3 bộ phận (tìm hiểu, suy nghĩ, ghi nhớ). Bộ phận ghi nhớ, nhà khoa học bắt chước chế ra máy vi tính. Bộ phận tìm hiểusuy nghĩ cũng có nhà khoa học tuyên bố vài năm sẽ ra đời, họ cũng bắt chước chế tạo ra được, vì nó thuộc về vật chất.

 Tự tánh chẳng phải vật chất nên không thể bắt chước chế tạo được. Ở trong Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, tôi có giải thích từng căn từng thức.

Hỏi:
 Vay trả nhân quả không biết chừng nào mới hết nhân quả?

Đáp:
 Kiến tánh triệt để thì hết nhân quả, vì nhân quả ở trong mở mắt chiêm bao. Kiến tánh là ra ngoài chiêm bao thì hết nhân quả. Chư Phật chư Tổ muốn mình ngộ triệt để. Nghĩa chữ “Phật” là giác ngộ. Bất cứ nghiệp chướng nặng cách mấy khi được giác ngộ là xong.

Hỏi:
 Người tu Tịnh Độ có “tín, nguyện, hạnh” kiên cố, tuy hiện thời chưa được nhất tâm hay vào cảnh giới niệm Phật tam muội, giờ phút lâm chung giữ được chánh niệm thì được chư Phật, chư Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn nên được vãng sanh, mà trong kinh gọi là “đới nghiệp vãng sanh”. Vậy người tu thiền chỉ cần phá được nghi tình của câu thoại đầu thì kiến tánh thành Phật, nhưng thực hành đến lúc lâm chung vẫn chưa kiến tánh, rồi chết sanh về đâu?

Đáp:
 Người hỏi, Tịnh Độ không biết, Tổ Sư thiền cũng không biết. Phật dạy các pháp môn để tu, căn bản là thiền. Tu Tịnh Độ có 3 cách tu đều là thiền: Thật tướng niệm Phật là thiền, gần giống như Tổ Sư thiền; Quán tưởng niệm Phậtthiền quán gồm có 16 pháp thiền quán, ghi trong kinh Quán Vô lượng Thọ; Trì danh niệm Phật cũng là thiền, niệm đến nhất tâm bất loạnthiền định.

 Tịnh Độ có 3 cuốn kinh: Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà. Tại người hỏi không biết Tịnh Độ là như thế nào? tưởng thiền không phải Tịnh Độ.

 “Tín, nguyện, hạnh”, người đó không hiểu rõ. Quyết định vãng sanh là do cái nguyện, niệm Phật là phẩm vị cao thấp. Nhưng phải có nguyện thì niệm Phật mới có phẩm vị. Nếu cái nguyện không đúng thì niệm Phật cũng có thể lọt vào ngoại đạo.

 Có người cho tụng kinhTịnh Độ thì không đúng. Tụng kinhthiền quán tưởng của giáo môn, tức là vừa tụng vừa quán tưởng.

 Thật tướng niệm Phật là thiền không cần vãng sanh, tức là tâm tịnh Phật độ tịnh.

 Nếu đúng “tín, nguyện, hạnh” khỏi 10 niệm mà chỉ 1 niệm cũng được vãng sanh. Nếu không đúng “tín, nguyện, hạnh” thì muôn triệu ngàn niệm cũng không được vãng sanh.

 Thí dụ: Nguyện của Phật Di Đà như tổng đài phát ra làn sóng rất mạnh, mình có radio nhỏ ở bất cứ nơi đâu đều thâu được, nhưng phải vặn đúng làn sóng của tổng đài, làn sóng đó tương ưng mới được.

 Cũng như cái nguyện của người tu Tịnh Độ với cái nguyện của Phật Di Đà phải tương ưng thì người niệm Phật mới được vãng sanh. Nếu mình vặn làn sóng xê xích một chút cũng không được. Nhưng người hỏi ấy còn cách xa biết bao nhiêu dặm! Làm sao vãng sanh được?

 Nguyện có 2 thứ: Đại nguyện và tiểu nguyện. Nếu phát tiểu nguyện thì nghịch với nhân quả không được vãng sanh. Còn phát đại nguyện thì thực hành đại nguyện của mình phát, nếu miệng phát nguyện và cũng nhớ cái nguyện của mình, tức là miệng nói tâm nghĩ mà không có thực hành thì thành nguyện suông nguyện giả, làm sao được vãng sanh?

 Như mình mở trương mục ngân hàng, không có tiền mà lại thiếu nợ rất nhiều, không đủ trả. Như mình từ hồi nhỏ đến bây giờ nghĩ lại có giết con muỗi, con kiến nào không? Có ăn thịt heo, gà, vịt không? Một bửa cơm ăn mấy chục con cá, con tép,… như ăn 10 con thì phải đầu thai 10 lần để cho người ta ăn lại.

 Đâu phải chỉ niệm Phật là được vãng sanh ư! Được đới nghiệp vãng sanh giống như ký ngân phiếu, tức là bây giờ không có tiền trả, nhưng hẹn lại 10, 20, 30 năm sau.

 Còn đại nguyện của người tu Tịnh Độ là sau khi được vãng sanh thì nhất định thành Phật, sau đó mới trả. Nhưng mình phát đại nguyện là muốn độ hết tất cả chúng sanh, mà lại giết hại chúng sanh, làm sao được đới nghiệp vãng sanh? Vì đã phát đại nguyện mà lại ăn thịt chúng sanh và còn giết hại chúng sanh. Đối với chúng sanh cũng không coi bình đẳng. Như con chó dơ dấy gần mình, mình lại đá nó đi thì cũng không được.
 
 Mỗi buổi chiều các chùa có tụng kinh A Di Đà, trong kinh chú trọng cái nguyện, nói 3, 4 lần cái nguyện ấy là đại nguyệnthực hành đại nguyện.

 Lúc trước, tôi chưa hoằng Thiền tông, tôi hoằng Tịnh Độ được mười mấy năm, mà chưa gặp người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, lúc đó tôi ở chùa Từ Aân Chợ Lớn, duy nhất chỉ gặp một người tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, y thông suốt giáo lý, cũng biết phát đại nguyện nhưng thiếu một điều là không thực hành đại nguyện của mình phát. Còn nhiều người nói “tín, nguyện, hạnh” cũng không đúng.

 Ban đầu, ông đến chùa Từ Aân muốn vấn nạn tôi, bài xích thiền. Rồi tôi giảng tông chỉ Tịnh Độ, ông ấy phát hiện mình không thực hành đại nguyện, mới biết mình nguyện suông nguyện giả. Như ký ngân phiếu giả thì bị chính phủ bắt, còn có tội thì làm sao có công đức để được vãng sanh?

 Ông đó là chủ tiệm vàng Mỹ Nữ ở Thị Nghè, lúc nghe tôi giảng thì y mới phục. Rồi lấy ra 2.000 đồng cúng dường tôi, khi ấy đất nước mới giải phóng và còn hứa sau này tôi làm Phật sự sẽ ủng hộ thêm. Khi đả Thiền thất ở chùa Sùng Đức, cần tu sửa nhà vệ sinh thì y đem 50.000 đồng để tu sửa. Y cũng dự Thiền thất không tu Tịnh Độ chuyển sang tu thiền.

 Phật dạy 84.000 pháp môn đều có thiền, cho đến ngoại đạo, tà ma muốn tu cũng phải có thiền, vì có thiền mới tu được. Nhưng những người chấp lại không biết, chỉ biết bài xích thiền, không biết mình đang tu thiền.

 Kinh Quán Vô Lượng Thọ có 16 pháp thiền quán. Tại sao người tu Tịnh Độ mà không biết? Chùa nào mỗi ngày đều tụng tiểu A Di Đà.

 Người không tin tự tâm, không tin Tổ Sư thiền mà lại bỏ thiền Tịnh Độ vì người ấy không biết. Nếu họ được vãng sanh cực lạc thì Phật A Di Đà mới dạy tu Tổ Sư thiền là từ nghi đến ngộ. Nhưng mình tin Tổ Sư thiền là bắt đầu tham thiền ở cõi này.

 Pháp thế gianxuất thế gian đều từ nghi đến ngộ. Vì nghĩa chữ “Phật” là ngộ, muốn ngộ thì phải nghi. Nhà khoa học cũng vậy, như Newton thấy trái bôm trên cây rơi xuống đất mà lại nghi sao không rơi trên trời? Sau này ông được ngộ sức hấp dẫn lực của trái đất, vì ông dùng bộ não đi nghiên cứu nên gọi là hồ nghi.

 Tổ Sư thiền không cho dùng bộ não đi tìm hiểu, lại còn chấm dứt cái tìm hiểu, nghịch lại hồ nghi trên nên gọi là chánh nghi. Chánh nghi thì ngộ được chân tâm của mình.

 Hồ nghi thì ngộ pháp thế gian, có giá trịthế gian nhưng không ngộ được bản tâm. Nên không giải thoát, không được tự do tự tại. Như có nhiều tiền nhưng chết rồi tiền cũng không mang theo được.

Hỏi:
 Như Sư Phụ nói “trước đây Sư Phụ hoằng dương Tịnh Độ mười mấy năm”, vậy sao Sư Phụ giờ đây chuyển sang tham thoại đầu?

Đáp:
 Vì tôi hoằng dương Tịnh Độ chưa gặp người nào tu đúng tông chỉ Tịnh Độ, nên tôi mới hoằng dương Tổ Sư thiền, không bao lâu có kết quả người hạ căn chuyển sang người thượng căn.

 Ngài Bác Sơn nói: “Mạt pháp có thể chuyển thành chánh pháp, hạ căn có thể chuyển thành thượng căn”. Mạt pháp chuyển thành chánh pháp thì tôi chưa chứng tỏ được, còn hạ căn chuyển thành thượng căn thì tôi chứng tỏ được.

 Tại sao? Vào năm 1980 có một số người theo tôi tham thiền được 2 năm. Những người này chưa tham thiền coi kinh không hiểu, khi tham thiền tức là không học giáo lý Phật pháp, thì mở được trí huệ thông suốt kinh điển mà không cần ghi nhớ. Còn những người học Phật học đến Cao đẳng phải mất qua thời gian khoảng 15 năm học để ghi nhớ mới có trí huệ.

 Những người được trí huệ ghi nhớ thì phải quên, nên hỏi cái nào còn nhớ thì mới trả lời được, cái nào quên thì không trả lời được. Còn hỏi những người tham thiền được trí huệ thì cũng trả lời được, mà những người đó chỉ có 1, 2 năm hay nửa năm tham thiền. Cho nên, chứng tỏ hạ căn chuyển thành thượng căn.

Hỏi:
 Lúc mới tham thiền, vọng tưởng nhiều mà nghi tình mạnh nên con dụng công liên tục; còn bây giờ các vọng tưởng lắng dịu, tâm con được thanh tịnh. Vậy sự dụng công không còn như trước, thường hay bị gián đoạn; con biết những căn bản phiền não vẫn còn nằm sâu trong tàng thức chưa trừ diệt hết. Vậy làm cách nào để cho sự dụng công được liên tục?

Đáp:
 Vị này không phải vì sanh tử, chỉ vì hứng thú mà tu, khi hết hứng thú thì hết tham. Nên ngài Hư Vân nói: “Năm đầu sơ tham, năm thứ nhì lão tham, năm thứ ba hết hứng thú thì không tham”. Ban đầu hứng thú thì công phu mãnh liệt, sau này hứng thú bớt dần, đến năm thứ 3 cũng nghĩ tham luôn.

Còn vì giải thoát sanh tử, khi nào giải quyết được sanh tử thì mới hết tham, tức là kiến tánh triệt để rồi mới xong việc. Việc này hứng thú thấy người ta tham thiền, bắt chước tham thiền; như thấy người ta mặc đồ đẹp, cũng bắt chước may một bộ đồ để mặc để có như thiên hạ.

Hỏi:
 Làm sao biết được mình đã kiến tánh?

Đáp:
 Người kiến tánh thì tự biết hay có thầy ấn chứng còn gọi là truyền tâm ấn. Không có thầy ấn chứng thì dùng kinh Đại thừa liễu nghĩa để ấn chứng, ngữ lục của Tổ dùng để ấn chứng cũng được.

Hỏi:
 Khi tham thoại đầu không được sợ, nhưng con hay sợ, cố gắng giữ chánh niệm sao không hết sợ?

Đáp:
 Nói “chánh niệm” nhưng không biết chánh niệm là gì? Lục Tổ nói trong Pháp Bảo Đàn: “Vô niệm tức là chánh niệm”, nghĩa là không có niệm nào mới gọi là chánh niệm. Người này tưởng chánh niệm là cái gì! Tham thoại đầu là không khởi một niệm nào, mới là chánh niệm.
 
Vô niệm, niệm tức chánh,
 Hữu niệm, niệm tức tà.

Nổi lên một niệm gọi là nhất niệm vô minh tức là tà. Người hỏi đem tà niệm cho là chánh niệm!

Hỏi:
 Nguồn gốc Phật giáo là tâm, tức là bản thể của nó là tri, mà dụng của nó cũng là tri. Tại sao Phật không biết nó?

Đáp:
 Nếu Phật biết nó thì nó sẽ thành sở tri, nên Phật thành năng tri. Có năng sở thì không phải chân tâm, vì chân tâmbất nhị, nói Tự tánh bất nhị mà ai cũng biết. Nếu có năng sở là nhị, vì Tự tánh không phải sở tri, nên không có năng tri nào để tri nó. Nó tri là tự nó tri, thể cũng là tri, dụng cũng là tri, mà cái tri đó trống rỗng không có bản thể.

Cho nên dung nạp tất cả, gọi là không. Nhưng không này chẳng phải cái không chết, mà có cái tri. Tri mà có cái không để dùng, nên không cũng là nó, không này là chánh giác gọi là Diệu Giác cao nhất.

Hỏi:
 Ngài Long Thọ Bồ Tát biết được tâm và dụng của tâm không?

Đáp:
 Phật Thích Ca chứng quả là ngộ được bản tâm và ngài Long Thọ cũng vậy. Vì tâm khôngbản thể, nên Ngài nói: “Tâm như hư không vô sở hữu”, tức là không có hư khôngdung nạp tất cả vật. Như bây giờ mình thấy rõ ràng nhà cửa, đất đai, cây cối, thấy bất cứ cái gì đều phải nhờ cái “vô sở hữu” này dung nạpứng dụng.

 Bây giờ tôi đang giảng và các vị đang nghe, nếu khôngkhông gian vô sở hữu này thì quý vị làm sao nghe được, tất cả quý vị nhìn thấy tôi, tôi nhìn thấy quý vị cũng đều nhờ vô sở hữu này, tức là không gian trống rỗng. Phật pháp gọi là Tánh không, Tánh không thì chẳng có gì nên gọi là vô sở hữu.

 Như chỗ ngồi của quý vị đều có vô sở hữu, nên mới ngồi được. Cuộc sống hằng ngày của mình là ăn cơm, mặc áo, tiếp khách đều nhờ vô sở hữu này, mình ứng dụng hằng ngày mà chẳng tự biết. Lại đi tìm những danh từ, mò đoán bậy bạ.

 Phật phápthực dụng cuộc sống hằng ngày của mình. Nếu lìa cuộc sống hằng ngày, làm sao có Phật pháp? Nên Lục Tổ nói: “Phật pháp ở thế gian, chẳng lìa thế gian mà giác ngộ”.

Hỏi:
 Nếu kiến tánh thành Phật thì mình biết được tâm và dụng của nó không?

Đáp:
 Nếu kiến tánh triệt để thì cái dụng đó là cái dụng bát nhã, dụng bát nhã là automatic, không qua bộ óc, nhưng làm xong công việc của bộ não.

 Thí dụ cảm giác lớp da khắp không gianthời gian cơ thể, vì khắp không gian thì tự nhiên khắp thời gian, tại không gianthời gian không thể lìa nhau được.

 Có người cho là nó tiếp xúc nó mới biết, còn không tiếp xúc thì nó không biết, nhiều người tưởng như vậy. Nhưng sự thậttiếp xúc nó cũng biết, không tiếp xúc nó cũng biết; tiếp xúc đau nó biết đau, tiếp xúc ngứa nó biết ngứa, không tiếp xúc nó cũng biết không tiếp xúc. Nếu không tiếp xúc nó không biết làm sao nó biết không tiếp xúc? Tiếp xúc cơ thể ở chỗ nào nó cũng biết, chứ không phải tiếp xúc tay thì tay mới biết, tiếp xúc đầu thì đầu mới biết! Vì nó cùng khắp.

 Ngày đêm nó tiếp xúc không gián đoạn, tức là khắp thời gian. Như lúc mình ngủ mê bị muỗi cắn, tay tự động gãi chỗ đó, vì cảm giác của lớp da ngày đêm làm việc không ngưng; khắp không gian cơ thể thì chỗ nào trên cơ thể đều có cảm giác, chỗ nào tiếp xúc thì nó biết có tiếp xúc, chỗ nào không tiếp xúc thì nó biết không tiếp xúcchứng tỏ khắp không gian.

 Cái biết của bộ não thì không cùng khắp không gian, không cùng khắp thời gian, vì nó bị hạn chế.

 Mặc dầu, mình chưa kiến tánh, nhưng cái chơn tâm cùng khắp không gianthời gian. Vì nó bị che khuất nên bị hạn chế cái dụng. Khi nào kiến tánh triệt để thì dẹp hết che khuất cái biết và không biết của bộ não, mới hiện ra cái biết khắp không gianthời gian.

Hỏi:
 Hỏi câu thoại và nhìn vào một niệm chưa sanh khởi, không biết là cái gì, nhìn mãi không thấy gì vẫn còn không biết. Như vậy có đúng không?

Đáp:
Không biết là đúng rồi, nhưng đến thật không biết thì “không biết” cũng không biết.

Hỏi:
 Tự tâm và tánh có khác không?

Đáp:
 Tánh chấp ngã cũng là tánh, còn “Tự tánh” có 2 nghĩa:

Tự tánh của thế gian thì việc nào cũng có Tự tánh.

Tự tánh của chân tâmbất nhị.

Tự tánh thế gian, như nói ông này có tánh bỏn sẻn, tánh tham,… là tự tánh của người đó.

Tự tánh của chân tâm thì khác, không có tương đốibất nhị.

Hỏi:
 Phật Thích Ca đưa cành hoa lên, thấy Ma Ha Ca Diếp miệng mỉm cười, Phật tuyên bố: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn, Diệu tâm, Thật tướng, Vô tướng. Nay ta trao truyền cho ngươi”. Vậy Ma Ha Ca Diếp được thọ ký tâm ấn tâm là gì? Làm sao có được?

Đáp:
 Ấn là con dấu, người được ấn tâm là để chứng minh. Như bây giờ các tiệm và các cơ quan ký tên còn có đóng dấu, con dấu là để người ta tăng cường lòng tin. Aán chứng là thầy chứng minh trò đã ngộ rồi, còn gọi là truyền tâm ấn.

 Thiền tông cần ngộ, không cần hiểu, ngộ thì tự biết. Nếu tìm hiểu thì không phải ngộ. Đầu tiên Phật đưa cành hoa trong hội cả triệu người, chỉ có một mình Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Phật ấn chứng cho Ma Ha Ca Diếp được ngộ.

Hỏi:
 Trải qua bao nhiêu năm tu tập, con thấy có người hiển bày cái dụng của Tự tánh, tạp niệm càng bớt thì cái dụng càng rộng, tạp niệm là tà nên niệm khởi lên làm mất chánh niệm. Như vậy có đúng không?

Đáp:
 Không phải vậy, chánh niệm là không có niệm; không phải có cái niệm mới gọi là chánh niệm. Lục Tổ nói: “Vô niệm, niệm là chánh”, tức là không có niệm mới gọi là chánh. Lại nói: “Hữu niệm, niệm là tà”, tức là bất cứ có niệm gì đều là tà. Dẫu cho niệm Phật nhưng đối với Thiền tông cũng cho là tà. Vì có niệm là tà.

Hỏi:
 Hành giả tu đã lâu, tại sao tập khí không dứt bỏ được, thậm chí bản thân của mình không biết đó là sai, trái lại phải làm cho bao người khác phải khổ lụy?

Đáp:
 Vì đó là do tập khí sâu nặng khó sửa. Như Lục Tổ là người thượng căn thượng trí, đã kiến tánh triệt để làm Tổ rồi, cũng phải trải qua 15 năm để dứt trừ tập khí, huống là mình không bằng Lục Tổ. Cho nên, tập khí không phải dễ mà dứt! Nhưng chỉ cần kiến tánh thì tập khí dần dần sẽ hết.

Hỏi:
 Nếu một người đã tạo nghiệp ácquá khứ, nhưng giờ đây đã biết ăn năn sám hối, phát tâm đại nguyện làm các việc lành như: Phóng sanh, giúp các vị xuất gia tu học, tu sửa chùa, ấn tống kinh, đắp đường lộ. Như vậy có tiêu được nghiệp quá khứ không?

Đáp:
 Nhân quả không có trừ với nhau được. Nhân thiện thì được phước báo, nhân ác thì bị khổ báo, không thể lấy nhân thiện để trừ nhân ác được. Muốn sửa lại thì tâm lực phải mạnh mới sửa được.

 Như người làm thiện thì được giàu sang, nếu họ có làm ác cũng bị khổ báo, như bệnh nặng hay bị tai nạn gì đó, cũng phải chịu, chứ không lấy thiện mà trừ cái ác.

Hỏi:
 Người quen cho con một món quà hay một món tiền, mà con không dùng lại cho một người bạn. Vậy theo luật nhân quả thì con phải trả hay người bạn con trả?

Đáp:
 Người ta cho tiền không phải nợ, mình giựt đồ người ta hay mượn mà không trả mới là nợ. Theo luật tự nhiên, như bố thí thì người nhận sau này có dịp họ sẽ bố thí lại tức là trả. Việc này gọi là duyên, Phật giáo gọi là kết duyên hay gieo duyên, nghĩa là giúp đỡ lẫn nhau, cũng thuộc về nhân quả.

 Như mình ăn cục thịt phải trả cục thịt, giết một mạng phải trả một mạng vậy. Mình bố thí hay tặng người thì sau này người sẽ bố thí hay tặng lại.

Hỏi:
 Tụng kinh thấu rõ ý nghĩa của Phật là sao?

Đáp:
 Tụng kinh là tu, giáo môn tụng kinhthiền quán, tụng đến đâu là quán đến đó. Chứ không phải tụng cho Phật nghe.

Hỏi:
 Có người tu trì danh niệm Phật, phát đại nguyện, mà nhà có lu nước, con lăng quăng sanh ra muỗi, hoặc trời mưa kiến ở dưới đất bò lên kéo thành đàng đi ngang qua nhà. Vì muốn giữ vệ sinh và phòng bệnh, người phát đại nguyện có nên đổ nước hay lấy dầu đốt kiến, dùng chổi quét cho kiến ra khỏi nhà không?

Đáp:
 Việc này không thể nói được hay không được. Tôi đã nói “theo nhân quả là giết một mạng phải trả một mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt”, còn người phát đại nguyện thì không có tội ác nhân, nên không phải đi trả quả thì mới được vãng sanh. Nếu phát đại nguyện mà không thực hành đại nguyện là nguyện giả.

Hỏi:
 Người tu mật tông ở thời Đức Phật Đại Nhật Như Lai. Vậy Đức Đại Nhật Như LaiĐức Phật thật hay là biểu trưng chỉ cho Chơn tâm của người tu Mật tông?

Đáp:
 Tất cả chúng sanh đều có chơn tâm, vốn cùng khắp không gian thời gian. Cùng khắp không gian thì không có khứ lai nên gọi là Như Lai, chứ không phải Đại Nhật Như Lai mới là Như Lai! Vì Như Lai này bị che khuất, tham thiền là dẹp cái che khuất thì Như Lai sẽ hiện ra. Còn Mật tông có cách tu của Mật tông, nhưng bí mật truyền thọ, khác với hiển giáo.

Hỏi:
 Người phát đại nguyện sanh về Tịnh Độ, nếu giết một con mèo để cứu một vạn con chuột, thì người ấy có trái với đại nguyện đã phát ra không?

Đáp:
 Trái.

Hỏi:
 Hữu tình và vô tình đồng thành Phật đạo là như thế nào?

Đáp:
Nếu hữu tình thành Phật thì vô tình cũng thành Phật. Sự thật Phật đã thành sẵn rồi. Phật thí dụ trong kinh Viên Giác như quặng vàng, vàng thật đã thành sẵn, chỉ là lộn đất cát tạp chất nên nó không hiện ra, chứ không phải tu mới thành, chứng mới đắc.

Hỏi:
 Người tu thiền nói chung, người tham Tổ Sư thiền nói riêng. Nếu đến lúc lâm chung tu chưa kiến tánh thì có thể biết được sanh về nơi nào không?

Đáp:
 Nếu người thật tu Tổ Sư thiền đã được ngộ thì tự nhiên họ biết, còn các thiền khác như: Tà ma cũng có thiền, Tịnh Độ cũng có thiền. Thiền là tổng danh. Phàm tu là phải có thiền, nhưng Tổ Sư thiền khác hơn Như Lai thiền. Tất cả thiền khác đều dùng cái biết, còn Tổ Sư thiền là dùng cái không biết.

Hỏi:
 Con mới tập tu, khi bao chuyện buồn vui hiện ra, khiến con không giữ được miên mật. Vậy làm sao giữ được nghi tình miên mật?

Đáp:
 Phải thực tập “hỏi và nhìn” lâu ngày nghi tình mới miên mật được.

Hỏi:
 Vừa tu Tịnh Độ vừa tu Tổ Sư thiền lấy câu thoại đầu là “Nam mô A Di Đà Phật”, khi chết có được vãng sanh không?

Đáp:
Không được. Tu Tịnh Độ phải đúng theo tông chỉ Tịnh Độ mới được vãng sanh. Còn tham thiền là giữ cái không biết để dẹp tất cả biết rồi đến thoại đầu mới có hy vọng kiến tánh. Bây giờ dùng cái biết để niệm Phật, Thiền cũng không thành, Tịnh Độ cũng không được vãng sanh, hai cái đều không được kết quả.

Hỏi:
 Tạo si phước là oan gia đời thứ ba, vậy nghĩa như thế nào?
 
Đáp:
Tạo si phước là đầu thai thành con heo. Nhưng người ta nuôi ăn no ngủ hoài, không có bị người ta làm thịt.

Hỏi:
 “Chỗ ẩn thân không tung tích, chỗ tung tích không ẩn thân” là nghĩa như thế nào?

Đáp:

 Công án là để cho người ta ngộ, nếu không ngộ thì không hiểu, giữ không hiểu đó là nghi tình, sau này sẽ được ngộ. Chứ không phải công án là để cho người ta hiểu.

 Tham thiền là hỏi câu thoại, chứ không phải tìm hiểu đáp án của câu thoại để hiểu, chỉ khởi lên niệm không biết và giữ niệm không biết gọi là nghi tình. Còn nếu tìm hiểusai lầm, tìm hiểuche khuất chơn tâm, như mây đen che khuất mặt trời. Nếu tìm hiểu như mây đen càng nhiều thêm thì mặt trời làm sao hiện ra được?

Hỏi:
 “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là như thế nào?

Đáp:
 Ấy là phá ngã chấp, tại có sở đắc là còn chấp ngã, tức còn có ta, có sở cầu là còn có ta, có sở sợ là còn có ta. Nếu “Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là phá được ngã chấp. Không có ta thì không thể tẩu hỏa nhập ma, có ta nên ma mới nhập được, ta còn không có thì ma nhập ở đâu?

Hỏi:
 Chánh trí là gì? Có đồng nghĩa Như Lai không?

Đáp:
 Chánh trí là trí Bát nhã không có qua bộ óc, diệu dụng của Phật tánh không qua bộ não. Nhưng nó làm xong công việc của bộ não mà bộ não làm không được. Dụng của nó là như như.

 * Ngũ pháp:
 _ Ngũ pháp gồm tướng, danh, phân biệt, chánh trí, như như. Nay lược giải như sau:

1. Tướng: Phàm là vật thể hữu hình mỗi mỗi đều có sự cao thấp, dài ngắn, lớn nhỏ, màu sắc, chất lượng. Luôn cả những khái niệm vô hình như ảo tưởng của sự tưởng tượng dựa theo vật thể hữu hình cũng vậy. Cả hai thứ hữu hình và vô hình đều gọi là “tướng”.

2. Danh: Y theo tướng hữu hình và vô hình mà lập ra tên gọi, gọi là “danh”.

3. Phân biệt: Đối với danh tướng kể trên, trải qua sự tư duy phân tích để nhận thức sự thật giả, tốt xấu, giá trị, chất lượng, thị phi, tà chánh,… gọi là phân biệt.

4. Chánh trí: Trí thức chẳng nhờ tác dụng của bộ não mà do công năng tự động của trí Bát nhã tự hiện, là vốn sẵn có của Diệu giác (bộ não chẳng thể biết được), là có sự thật tồn tại khách quan. Cái trí huệ chẳng cần tác ý của bộ não mà tự hiện này là trí huệ chẳng bị không gianthời gian hạn chế, gọi là “chánh trí”.

5. Như như: do nơi chánh trí tự động phát huy, chẳng kể ngày đêm, cổ kim, luôn luôn như bổn lai thật tế từ vô thỉ đã sẵn có, chẳng có tương đối, siêu việt biện chứng của logic, gọi là “như như”.
 Gọi chung là Ngũ pháp.

Hỏi:
 Kính xin Sư Phụ kể lại sự tích con heo ăn bạc hà?

Đáp:
 Việc này ghi trong tạng kinhBồ Tát thị hiện độ heo nên phải đầu thai heo.

 Đại thừa Bồ Tát có:

- Lục Độ Ba La Mật là có 6 Ba La Mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ).
- Tứ Nhiếp Pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự).

Bố thí, ái ngữ, lợi hành thì người có tôn giáo và không có tôn giáo cũng làm được. Nhưng đồng sự thì Bồ Tát của Phật giáo mới làm được, tức là muốn độ người ăn xin thì phải làm người ăn xin để độ người đó.

 * Có Tăng chơn tu đi hành cước đến một ngôi chùa nhiều chúng Tăng, trong đó một vị lão tu hành bệnh ghẻ hôi hám, bề ngoài thấy xấu xí, nhiều người ở chùa không ai ưa thích gần, chỉ có Tăng đi hành cước gần gủi giúp đỡ.

 Qua thời gian khoảng 3 tháng, Tăng hành cước từ giả đi về kinh thành. Lão tu hành nhờ Tăng hành cước gởi một bức thư giao cho bạc hà ở cửa thành đông.

 Tăng hành cước đến thành đông, nghe mấy con nít nói bạc hà. Ông mới hỏi con nít: Bạc hà đâu?

 Con nít nói: Bạc hà ở ngay vách tường kia.

 Thì ra một con heo già lớn, thường thường người ta nuôi heo một năm là bán thịt, nhưng con heo này thì được mười mấy năm rồi.

 Tăng hành cước hỏi con nít: Tại sao mấy đứa gọi con heo này là bạc hà?

 Con nít nói: Con heo này chỉ ăn bạc hà thôi.

 Tăng lại hỏi: Chủ con heo này là ai?

 Con nít mới chỉ chủ con heo là ông Triệu.

 Tăng hỏi ông Triệu: Có phải con heo này của ông không?

 Ông Triệu trả lời: Phải.

 Tăng hỏi: Sao ông nuôi con heo mười mấy năm không bán và không làm thịt?

 Ông Triệu nói: Tôi nuôi heo rất nhiều, nhưng heo thường đi mất; khi nuôi bạc hà thì nó kêu mấy con heo kia về, không mất con nào. Cho nên tôi không bán và làm thịt.

 Tăng hành cước lấy thư ra coi thì thấy trong thư chỉ có 16 chữ, ý trong đó là “độ chúng sanh xong rồi, mau mau về đi, chớ đừng tiếp tục mà tạo nghiệp”. Ông nghĩ bức thư này là của con heo này, chẳng phải của ai khác. Vì vậy ông đem bức thư đến con heo rồi đưa cho nó. Con heo dùng 2 chân trước chụp bức thư đưa vào miệng nuốt, đứng 2 chân sau mà chết.

Hỏi:
 “Nhất niệm bất sanh, vạn duyên buông bỏ” là như thế nào?

Đáp:
 Câu này không phải tu Tổ Sư thiền, vì tu Tổ Sư thiền thì không buông bỏ, mà chỉ giữ “không biết”. Nếu biết được bản tâm mình như hư không vô sở hữu thì không có gì để buông bỏ. Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật”, tức là không có vật gì để buông bỏ.

 Câu này hơi có mâu thuẩn, nếu không có niệm sanh khởi thì lấy gì để buông bỏ? Nếu có sự buông bỏ thì đã sanh lên một niệm rồi.

Hỏi:
 Chấp thành bệnh, trước thành ma, kế thành ngoại đạo. Kế có phải là biến kế sở chấp không?

Đáp:
 Trước cũng là chấp, kế cũng là chấp, Duy Thức gọi là biến kế sở chấp.

Hỏi:
 Tham thiền sợ nhất nhận thức thần làm Phật sự hoặc nhướng mày chớp mắt, xoay đầu ngó lại cho là có ít nhiều kỳ đặc. Nếu nhận thức thần làm việc chánh là tôi tớ của ngoại đạo cũng chẳng được. Vậy có phải không?

Đáp:
 Nếu tham Tổ Sư thiền thì chỉ hỏi và nhìn là giữ niệm không biết gọi là nghi tình. Còn biết những cái này là không phải Tổ sư thiền.

Hỏi:
 Thế nào là nạp Tăng- núi bạc- vách sắt?

Đáp:
 Đây là để thí dụ, nếu mình giữ được nghi tình (không biết) thì cũng như núi bạc vách sắt, các thứ phiền não và các thứ khác không vô được.

Hỏi:
 Trong Tham thiền cảnh Ngữ có câu “khẩn, chánh, miên mật, dung hoát”. Chúng con chưa hiểu, kính xin Sư Phụ khai thị?

Đáp:
 Lời nói của chư Tổ là phương tiện để đối trị. Như mình hôn trầm thì phải mở mắt to hay rửa mặt, nếu còn hôn trầm thì phải đứng dậy đi kinh hành hoặc kiếm việc làm.

 Vọng tưởng nhiều phải nhắm mắt lại. Hỏi và nhìn cho khẩn (vừa vừa). Hỏi và nhìn cho đúng gọi là chánh. Nói “chánh niệm” là không có niệm nào khởi lên.

 Miên mật là liên tiếp không có kẻ hở, như hỏi câu thoại đầu có kẻ hở thì vọng tưởng từ kẻ hở nổi lên.

 Dung hoát là không nghiêng về bên nào, không nghiêng về bên động và cũng không nghiêng về bên tịnh. Ngài Lai Quả nói: “Động cũng không động đến mình, tịnh cũng không tịnh tới mình”, tức là giữ cái không biết thì không lọt vào 2 bên gọi là dung hoát.

Hỏi:
 Con đường Bồ Tát đạo là gì? Những ai thực hành được con đường Bồ Tát đạo?

Đáp:
 Người thọ giới Bồ Táthọc giới Bồ Tát. Bồ Tát tại gia của người cư sĩ có 6 điều trọng và 28 điều khinh. Bồ Tát xuất gia có 10 điều trọng và 48 điều khinh, những Bồ Tát này không phải chứng quả, không phải như Bồ Tát Quán Thế Aâm.

 Không có tham thiền và chưa quy y đều được học đạo Bồ Tát. Thọ 5 giới của cư sĩ, thọ 10 giới của Sa DiSa Di Ni, thọ 250 giới của Tỳ Kheo, thọ 348 giới của Tỳ Kheo Ni là tiệm giới. Như muốn thọ 10 giới Sa Di thì phải thọ 5 giới rồi mới được thọ Sa Di.

 Giới Bát Quan Trai và giới Bồ Tát gọi là đốn giới, tức là chưa thọ ngũ giới cũng được thọ giới Bồ Tát. Chưa quy Tam bảo cũng được thọ giới Bồ Tát, cũng được thọ Bát Quan Trai, nên mới gọi là đốn giới. Như mỗi lần truyền Bát Quan Trai đều phải tam quy, muốn truyền giới Bồ Tát đều phải qua tam quy. Bất cứ truyền giới gì đều phải qua tam quy. Cho nên chưa quy y đều được thọ giới, tức là trước thọ giới là đã quy y.

Hỏi:
 Công năng của giới luật làm cách nào để người xuất gia giữ đúng tất cả giới mà mình đã thọ?

Đáp:
 Theo giáo môn thì nửa tháng bố tát một lần để kiểm thảo. Bố táthội nghị làm việc, chứ không phải chỉ tụng giới thôi. Trước khi tụng giới phải kiểm thảo, cũng như cử ra chủ tịch lâm thời hỏi đại chúng “nửa tháng nay có ai phạm giới không? Có thì ra sám hối trước đại chúng”, vì người phạm giớisám hối thì được thanh tịnh, nên người ấy có tư cách được nghe tụng giới. Hỏi 3 lần mà không có ai lên thì tuyên bố tất cả đại chúng trong sạch, rồi mới tụng giới.

 Mỗi năm kiết hạ rồi giải hạ, có kiểm thảo là kiến, văn, nghi. Như hỏi đại chúng “có ai thấy tôi phạm giới không? Nếu không có. Có ai nghe không? Nếu không thấy không nghe, mà có ai nghi không? (Không biết người ấy có phạm giới hay không phạm giới, gọi là nghi. 3 cái này gọi là kiến, văn, nghi). Nếu có ai thấy xin cử tội tôi trước đại chúng hay là có ai nghe hoặc là có ai nghi thì ra cử tội”. Từng người ra trước đại chúng mà nói như thế, gọi là Tự tứ.

 Hồi xưa truyền giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni vào ngày bố tát.

Hỏi:
 Từ bi là gì? Làm sao được tâm từ bi?

Đáp:
 Người ta thường hiểu lầm từ bibác ái giống nhau. Kỳ thật, bác áingã chấp, từ bi là không có ngã chấp.

 Có người Mỹ đến Thiền Đường Từ Aân, y là người đạo Tin Lành cho bác áitừ bi không khác. Nên tôi mới giải thích cho y hiểu:

 Tôi nói: Mình ăn đồ ngon mới tự thấy vui, nếu người khác ăn mình không có cảm thấy vui, phải không?

 Ông ấy đáp: Phải.

 Tôi nói: Như mình chơi tự mình thấy vui, mình không có chơi mà thấy người khác chơi, mình cũng không thấy vui phải không?

 Ông ấy đáp: Phải.

 Tôi nói: Nếu mình thấy người ta chơi mà mình không có chơi thì mình cũng vui, thấy người ta ăn mà mình không ăn thì mình cũng vui.

 Ông ấy nói: Không có lý này được!

 Tôi nói: Chính ông cũng làm được.

 Ông ấy nói: Tôi đã nói không làm được, sao nói tôi làm được?

 Tôi hỏi: Ông có con ruột không?

 Ông ấy đáp: Có.

 Tôi hỏi: Con ruột của ông còn nhỏ phải không?

 Ông ấy đáp: Phải.

 Tôi hỏi: Vậy ông mua đồ ăn cho con ruột ông ăn mà ông không ăn, thấy con ruột ông ăn, vậy ông vui không?

 Ông ấy đáp: Vui.

 Tôi hỏi: Ông mua đồ chơi cho con ông chơi, mà ông không có chơi, ông thấy con ông chơi, vậy ông có vui không?

 Ông ấy đáp: Vui.

 Tôi nói: Phải không! Ông cũng làm được mà! Nhưng ông chỉ làm được với con ruột của ông thôi. Còn con của người khác thì ông làm không được. Nếu mình đối với tất cả chúng sanh như con ruột, làm sao có việc giết hại, làm sao có chiến tranh? Tất cả chúng sanh coi như con ruột của mình, nhưng chưa phải là từ bi. Vì còn thấy có đồ của tôi cho nó, đó chỉ là bác ái.

 Từ bi lại khác, không có ta từ bi, không có người nhận từ bi của ta, cũng không có tài vật để tôi làm việc từ bi đó, mới gọi là từ bi. Phật giáo gọi là tam luân thể không. Ở trong phẩm Phổ Môn của yếu chỉ kinh Pháp Hoa, tôi có phụ lục.

Hỏi:
 Tăng NiPhật tử chúng con phải thương yêu như thế nào mới đúng theo lời Phật dạy?

Đáp:
 Tăng thì phải giữ đúng vai trò của Tăng, Sa Di phải giữ đúng vai trò của Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phải giữ đúng vai trò của Tỳ Kheo Ni. Nếu Sa Di không biết giới luật của Sa Di hay biết mơ hồ thì làm sao giữ đúng vai trò của Sa Di được? Tỳ KheoTỳ Kheo Ni cũng vậy.

Người thế gian thì cha phải giữ đúng vai trò cha, mẹ phải giữ đúng vai trò mẹ, con cái phải giữ đúng vai trò của con cái, chồng phải giữ đúng vai trò của chồng, vợ phải giữ vai trò của vợ.
 
Tu sĩ giữ đúng vai trò của Tu sĩ, chứ không phải tu sĩ cạo đầu mặc áo cà sa được người cung kính lễ bái, mà không giữ đúng vai trò của mình. Nên có một bài kệ:
 Một hạt gạo của Thí chủ,
 Lớn bằng núi tu di.
 Nếu không tu giải thoát,
 Mang lông đội sừng trả.

Hỏi:
 Người mới tham thiền thì căn tiếp xúc với trần, đương nhiên ý thức phân biệt phát sinh làm cho tâm vọng động. Vậy tham bằng cách nào để cho tâm khỏi giao động?

Đáp:
 Nếu giữ được không biết thì sao bị giao động? Thấy cái nào đẹp cũng không biết, làm sao có sự ham thích? Thấy cái nào xấu cũng không có chê. Giữ được cái không biết thì tự nhiên tất cả đều không bị giao động. Tức là giữ nghi tình là được rồi.

Hỏi:
 Tại sao là “sắc tức thị không, không tức thị sắc”?

Đáp:
 Sắc là vật chất, không là chẳng phải vật chất. Nếu không chấp sắc là thật sắc tức là sắc tức là không. Không chấp cái không là thật không thì không tức là sắc.

 Cho nên, ở trong thế lưu bố tưởng không sanh ra trước tưởng, tức là Phật pháp (không chấp thật). Như chấp thật có là bệnh còn nhẹ thì dễ trị, còn chấp thật không là bệnh nặng thì khó trị.

Hỏi:
 Sao có pháp mà gọi là không pháp?

Đáp:
 Nếu khôngchấp trước thì tất cả pháp thế gianPhật pháp, tức có pháp cũng như không có pháp. Nên ăn cơm, mặc áo đều là pháp, không có cái gì không phải là pháp! Tại không còn tương đối thì pháp và không pháp không khác, vì có tương đối nên mới khác.

Hỏi:
 Sao gọi tu mà vô tu?

Đáp:
 Vì chấp nên mới có tu, nếu ngộ rồi thì biết là không có tu. Như thành Phật không phải tu mới thành, chứng quả không phải chứng mới đắc. Tại vì đã thành sẵn, chứng sẵn. Như Phật trong kinh Viên Giác dùng quặng vàng để thí dụ. Vàng thật ở trong quặng đã thành sẵn, chứ không phải luyện các tạp chất rồi mới thành. Nếu không có vàng sẵn, dù có luyện cách mấy thì vàng không thể có được. Cho nên không phải tu mới thành, chứng mới đắc. Vì người ta chấp nên mới có tu mới thành, chứng mới đắc.

 Tâm như hư không vô sở hữu thì không bị trói buộc gọi là giải thoát, không phải bị buộc rồi, mở trói rồi mới là giải thoát. Tu cũng vậy, tu không phải mở trói, mà ngộ vốn không có trói tức là giải thoát. Như liễu thoát sanh tử, vốn không có sanh tử để liễu thoát thì gọi là liễu thoát sanh tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33082)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6508)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11210)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30371)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30411)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7957)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12146)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12225)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11572)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12763)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34684)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9818)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52227)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10718)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10485)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10682)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10424)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13045)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16210)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21785)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9586)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7092)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10365)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12695)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12753)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16197)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16496)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13827)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16533)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12084)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13772)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14295)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9174)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11726)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11248)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16270)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14319)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16179)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12678)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12055)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11772)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15637)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11489)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14005)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11982)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12595)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14948)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14487)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20642)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13182)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10919)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20657)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14310)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20296)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17589)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13978)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31829)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11978)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant