Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trang 6

13 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11156)
Trang 6

Hỏi:

 Tại sao có vật mà Lục Tổ nói “bổn lai vô nhất vật”?

Đáp:
 Vì tại chấp mới có, nên ngài Lâm Tế nói “gặp Phật chém Phật, gặp ma chém ma”, tại tâm mình chấp Phật nên phải chém tâm chấp Phật, tại tâm mình chấp ma thì phải chém tâm chấp ma.

Hỏi:
 Thường 5 giờ sáng tụng kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi Thập Chú, rồi qua tháng khác thì tụng kinh Pháp Hoa, Thủy Sám, Vu Lan. Bây giờ bắt đầu tham thiền không tụng kinh nữa, vậy có lỗi không?

Đáp:
 Nếu như trước kia tụng kinh thì đã có lỗi rồi đó! Tại vì tụng kinh là tu theo giáo môn, tụng kinh tới đâu là thiền quán tới đó. Nếu tụng kinh mà không thiền quán, cho người hiểu lầm tụng kinhcông đức, cũng như câu hỏi đó thì đã có tội rồi, vì để cho người ta hiểu lầm Phật giáo.

 Tham Tổ Sư thiền phải giữ đúng vai trò hành giả tham Tổ Sư thiền. Thiền Tịnh Độ phải giữ đúng vai trò thiền Tịnh Độ. Thiền Tịnh Độ có 3 cách thiền có ghi trong kinh Tịnh Độ. Nếu tu một pháp môn nào không thành thì có thể tu pháp môn khác cũng được, chứ làm sao có lỗi?

 Trước kia tụng kinh không đúng theo vai trò tụng kinhthiền quán tụng kinh. Theo giáo môn tụng kinh là thiền. Như ngài Đế Nhàn, mỗi thời kinh phải 2 giờ, một ngày 3 thời kinh. Nếu tụng kinh không đủ 2 giờ thì ngài quở làm biếng. Vậy người hỏi tụng kinhthiền quán không? Nếu không thì đã có lỗi rồi.

Hỏi:
 Người ăn con nhộng khi kéo tơ tầm hết. Vậy có bị nhân quả không?

Đáp:
 Có sát sanh thì phải đền mạng, ăn cục thịt phải trả cục thịt, chứ không phải có tội hay không có tội! Đó là việc nhân quả, tạo nhân nào thì chịu quả nấy. Tôi nói “nếu không sợ người ta ăn mình thì mình cứ ăn người ta, nếu sợ người ta ăn mình thì mình đừng ăn người ta”.

Hỏi:
 Chúng con là hành giả mới, kính xin Sư Phụ từ bi phổ biến tài liệu khoa học và tâm linh trong Phật pháp để chúng con tăng trưởng lòng tin và dạy lại đường lối tham Tổ Sư thiền?

Đáp:
 Tâm linh và khoa học trong Phật phápmục đích tôi muốn hoằng dương người tây phương, vì người tây phương phải có bằng chứng cụ thể thấy được họ mới chịu tin, nếu họ không tin thì không học. Cuốn Tâm LinhPhật Pháp không bằng cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21, cuốn này bao gồm hết. Tôi đã nói hơn Sinh Lý Giải Phẩu, Tâm Lý Học, Triết Học, Tự Nhiên Khoa Học của đại học Mỹ, 4 thứ hợp lại giải thích còn không thông. Cuốn Vũ Trụ Quan Thế Kỷ 21 giải thích đầy đủ trọn vẹn hơn 4 đại học hợp lại.

Hỏi:
 Hành giả tham thiền bị những thử thách đau khổ, có phải đó là lúc trả nghiệp không?

Đáp:
 Làm sao cứ trả nghiệp trả nghiệp! Ở trong thuận cảnh tu khó hơn ở trong nghịch cảnh. Như người ta chấp nhập thất, tự mình nhốt trong phòng không tiếp xúc bên ngoài, nếu lấy cái đó để tu là có hại chứ không có ích, tại vì không có tiếp xúc thì không có cảnh để khởi tâm động niệm. Tôi có kể thằng bé ở trên núi 20 năm, vì không tiếp xúc thì không khởi tâm động niệm, có tiếp xúc mới gọi là tu, không tiếp xúc sao gọi là tu? Rồi người ta nói là thử thách, nói là trả nghiệp! Đó là nói bậy. Vậy như thằng bé xuống núi thấy người nữ gọi là trả nghiệp sao?

Hỏi:
 Chúng con tham thiền đã lâu, nhưng vẫn thấy những tập khí vẫn còn nhiều, chỉ bớt chút đỉnh chứ không bỏ hẳn được. Vậy chúng con phải làm thế nào?

Đáp:
 Phải hỏi và nhìn thì lâu ngày thấy như khờ ngốc, nên tập khí sẽ bớt dần dần. Nhưng người ta không biết coi người đó như người khờ ngốc, vì cái gì đều cũng không biết.

Hỏi:
 Khi thiền thì tâm tịnh trở thành không, khi nào nhận biết được bản lai của mình hiện ra?

Đáp:
 Nếu nói như vậy thì người đó không có tham thiền. Vì tham thiền là giữ cái không biết. Người đó dùng cái biết để tìm hiểu tâm tịnh, không những không chấm dứt mà còn kéo dài phát triển tìm hiểu, như thế là nghịch với tham thiền.

Hỏi:
 Khi thiền tâm tịnh thì cảnh giới Phật được ra, như vậy cảnh giới Phật thật hay giả? Nếu cảnh thật thì người ngồi thiềntiếp nhận được cảnh giới đó không?

Đáp:
 Người đó có thể tẩu hỏa nhập ma, tức là giống ma. Tham thiền thì không biết, làm sao biết những cái đó? Sao còn đi tìm hiểu mấy cái đó?
 
Tâm tịnh Phật độ tịnh là Tịnh Độ, tức là thật tướng niệm Phật không cần vãng sanh. Còn Thiền chỉ cần hỏi và nhìn để giữ nghi tình.

Hỏi:
 Tâm từ đâu ra?

Đáp:
 Bây giờ ông tự hỏi để mà tham! Tâm là một danh từ ai cũng nói được, nhưng Tâm là cái gì thì ai cũng không biết! Luôn cả Phật Thích Ca cũng không biết. Nếu tâm bị Phật Thích Ca biết thì nó thành sở biết. Có sở biết và có năng biết là nhị. Còn chân tâm bất nhị hay còn gọi là tự tánh bất nhị. Cho nên, tự tánh không cho ai biết được, tự tánh tự biết.

 Nếu ông muốn ngộ phải nghi, còn dùng bộ não để tìm hiểu thì một trăm năm, một kiếp hay hai kiếp, muôn ngàn triệu kiếp cũng không thể tìm được. Vì bộ não không thể biết được tự tánh, tại bộ não là vật chất, còn tự tánh không phải vật chất. Như lục thức phối hợp với lục căn nghe lệnh của bộ não, đó là vọng tâm tức là bộ não.

Hỏi:
 Tu theo pháp môn Tổ Sư thiền được giác ngộ rồi sẽ trừ tập khí, sau người ấy chết có đầu thai làm người để độ chúng sanh không?

Đáp:
 Bây giờ tự lo cho mình được giác ngộ rồi tự biết, nếu dùng bộ não để đoán mò bậy bạ chỉ là chướng ngại thôi! Người hỏi có đọc Bát Nhã Tâm kinh: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận, vô lão tử diệc vô lão tử tận”, không có già không có chết tức là không có sanh tử, đã ngộ khôngsanh tử làm sao đi đầu thai? Nếu còn đi đầu thai thì chưa ngộ. Ngộ là vốn không có sanh tử gọi là liễu thoát sanh tử, mà còn hỏi kiến tánh rồi còn đi đầu thai không? Hỏi gì kỳ vậy!

Hỏi:
 Con chưa hiểu 2 chữ “năng, sở”, kính xin Sư Phụ giải thích?

Đáp:
 Ông có ăn cơm không?

 -Có.

 -Ông là năng ăn, cơm là sở ăn. Ông có uống nước không?

 -Có.

 -Ông là năng uống, nước là sở uống. Đó là năng sở. Ông thấy cái bình này không?

-Thấy.

-Ông là năng thấy, cái bình là sở thấy.

Khóa bồi dưỡng giảng sư tại văn phòng 2: Từ ngày 10 – 5 => 19 – 5 – 1999.

Thiền là gì? Thiền là phương pháp thực hành để vọng tâm lặng xuống, đạt đến an định. Thường thường chữ “thiền” đi đôi chữ “định” gọi là thiền định.

Thông thường dùng công phu thiền quán chiếu gọi là thiền quán. Như tông Thiên Thai gọi là Chỉ quán thiền. Chỉ là định, quán là đạt đến chỗ định. Định sâu chừng nào thì quán cao chừng nấy, nên thiền định đi đôi với nhau.

Nguồn gốc của Phật pháp là Tâm, tức bất nhị. Bây giờ Phật giáo chia ra nhiều tông phái, làm sao bất nhị được? Chia nhiều tông pháigiáo pháp, chứ không phải Phạât pháp. Phật pháp là pháp bất nhị không thể chia, giáo pháp mới có thể chia. Phật vì để thích ứng căn cơ của mỗi chúng sanh, mới thuyết 84000 pháp môn.

Phật pháp là trên phù hợp ý Phật thì không thể chia, dưới khế hợp đương cơ thì có thể chia. Cách dạy của Phật có 84000 pháp môn thì nhiều mênh mông, nhưng quy nạp lại gồm có tam thừa (Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát). Có người nói Thanh VănTiểu thừa, Duyên GiácTrung thừa, Bồ TátĐại thừa. Mỗi thừa có thiền tu tập riêng biệt.

Thừa Thanh Văn có thiền để tu tậpNgũ Đình Tâm Quán, Đình là đình chỉ hoạt động của nội tâm, gọi là Ngũ Đình Tâm (năm thứ thiền quán). Năm thứ thiền quán là:

- Sổ Tức Quán.
- Bất Tịnh Quán.
- Từ Bi Quán.
- Nhân Duyên Quán.
- Lục Thức Quán.

Bây giờ phần nhiều theo Sổ Tức Quán, có một số ít theo Bất Tịnh Quán, còn ba thứ kia chưa thấy người ta tu, ấy là thiền quán của Tiểu thừa. Gọi Tiểu thừa nhưng các nước Tiểu thừa họ không nhìn nhận và không nhìn nhận Đại thừa.

Thừa Thanh Văn là nghe thanh giáo của Phật mà ngộ đạo. Mục đích của Tiểu thừa là diệt lục căn. Vì tất cả phiền não vọng tưởng là do lục căn tiếp xúc với lục trầnsanh khởi. Cho nên, muốn diệt lục căn đối tượng lục trầnvật chất, theo triết họcChủ Quan Duy Vật Luận.

Trung thừa là thừa Duyên Giác, pháp tu là Thập Nhị Nhân Duyên, Thập Nhị Nhân Duyên bao gồm tam thế (quá khứ, hiện tại, vị lai).

Tôi chỉ nói sơ lược nghĩa chữ “Thiền” như vậy thôi.

Theo triết học thì Thanh vănChủ Quan Duy Vật Luận, Duyên GiácChủ Quan Duy Tâm Luận. Tại sao? Vì diệt được lục căn, nhưng một niệm không diệt được; muốn diệt lục căn thì phải giữ một niệm. Vậy một niệm đó là nguồn gốc phiền não.

Nên Trung thừa muốn diệt được một niệm, nhưng một niệm này không phải vật chất mà là tâm pháp, theo triết học gọi là Chủ Quan Duy Tâm Luận. Vậy một niệm phát xuất từ chỗ nào? Phát xuất từ nguồn gốc vô thỉ vô minh (căn bản vô minh). Khi đã diệt một niệm rồi thì trở về nguồn gốc cũng là vô minh (vô thỉ vô minh), chỗ này không có chỗ bắt đầu.

Bồ Tát thừa (Đại thừa) thấy diệt lục căn và một niệm chưa được, nên cần phải phá vô thỉ vô minh. Muốn phá vô thỉ vô minh thì không diệt lục căn và một niệm vô minh.

Thí dụ: Muốn diệt những người phản loạn, vua cướp dụ cho vô thỉ vô minh, tướng cướp và binh lính cùng binh khí của cướp dụ cho một niệm vô minh.

Như Tiểu thừa là tịch thu vủ khí của cướp cho là xong, nhưng họ có thể tạo lại được.

Trung thừa như giết hết binh lính của cướp, nhưng vua cướp vẫn còn, rồi ngày nào họ chiêu binh mãi mã, tổ chức lại. Vậy chưa có triệt để nên phải bắt luôn vua cướp.

Đại thừa lợi dụng binh lính của cướp, tướng cướp và vủ khí của cướp để bao vây vua cướp, bắt được vua cướp thì tất cả đều bình yên; tướng cướp, binh lính của cướp thành lính chính quy của nhà nước vẫn còn sử dụng, chứ không diệt họ. Ấy là nghĩa Đại thừa.

Tiểu thừaduy vật, Trung thừaduy tâm, Đại thừa là tâm và vật hợp một.

Lục Tổ nói trong Pháp Bảo Đàn: “Ở ngoài tam thừa còn có Tối thượng thừa”, tức là có 4 thừa. Tối thượng thừa không ở trong tam thừa nên gọi là phi thừa (không phải thừa), là pháp Thiền trực tiếp do Phật Thích Ca truyền dạy, vì đó không phải là thiền gì, mà Phật Thích Ca truyền cho Tổ Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp truyền cho nhị Tổ A Nan, A Nan truyền cho tam Tổ Thương Na Hòa Tu, từ Tổ từ Tổ truyền xuống đến Tổ Đạt Ma thứ 28, rồi mới truyền sang Trung Quốc, sau này Trung Quốc mới truyền qua Việt Nam. Thiền đó do Tổ Sư từ đời từ đời truyền xuống, nên mới có tên gọi là Tổ Sư Thiền.

Nói đến vọng tâm thì phải có chân tâm. Chữ “Tâm” là một danh từ ai cũng nói được, nhưng Tâm là cái gì? Không có ai biết. Tại sao? Vì chân tâm không có hình tướng không có số lượng, nhưng nó có thực dụng rõ ràng, cái thể mình không thể thấy được, cái thể không có ai biết, luôn cả Phật cũng không thể biết.

Tại sao Phật không biết? Phật đã chứng chân tâm nhưng chân tâm tự biết. Nếu Phật Thích Ca biết chân tâm thì chân tâm trở thành sở biết, có năng sở là nhị. Chân tâmbất nhị, vì chân tâm không phải sở nên không có ai biết nó, nó tự biết cao nhất là Diệu giác. Cái biết bây giờ là cái biết của bộ não, gọi là vọng tâm che khuất cái biết chân tâm.

Cho nên, các thiền Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa đều là ngưng hoạt động của bộ não (vọng tâm), tức là dẹp hết những che khuất thì chân tâm tự hiện.

Chân tâmvọng tâm là những danh từ lộn xộn. Vậy làm sao để phân biệt? Không thể nói, nhưng có thể thí dụ, nên chư Phật nói “Tâm như hư không” mà thí dụ vậy thì khó lãnh hội. Tổ 14 của Thiền tôngLong Thọ Bồ Tát dùng hư không vô sở hữu để thí dụ cho chân tâm của mọi người.

Theo chữ Hán, chữ “vô” là không có, không có sở hữu thì cũng như khônghư không. Mặc dầu nó không có, không có là lời nói của thế gian, thực tếdung nạpứng dụng; mình thấy hư không trống rỗng này, khoa học gọi là không gian. Mặt trời, mặt trăng, đất đai, núi sông, nhà cửa, bất cứ cái gì,… đều phải nhờ cái vô sở hữu này dung nạpứng dụng.

Không có cái nào ở ngoài vô sở hữu này, vô sở hữu tức là trống rỗng là không có gì hết, nhưng trống rỗng nên nó dung nạpứng dụng. Vì trống rỗng nên không bị không gianthời gian hạn chế, nên nó khắp không gian thời gian. Khắp không gian thì không có khứ lai nên gọi là Như Lai (đúng như bản lai), khắp thời gian không có gián đoạn thì không có sanh diệt, nên gọi là Niết Bàn (Niết Bàn là tiếng Ấn Độ nghĩa là không sanh không diệt).

Vì trống rỗng thì không có chỗ để trói buộc, nên gọi là giải thoát, chứ không phải bị trói rồi mới mở trói gọi là giải thoát, tại bản thể vốn không có trói buộc. Kinh Duy Ma Cật cũng nói nghĩa này.

Vì trống rỗng thì không có chỗ để trụ, nên gọi là vô trụ. Như Lục Tổ nói “lấy vô trụ làm gốc”, kinh Duy Ma Cật nói “từ gốc vô trụ lập tất cả pháp”, lập tất cả pháp là cái dụng của vô trụ. Lục Tổ nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” liền ngộ đạo triệt để.

Nhiều người nghe đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thấy còn mơ hồ. Bây giờ tôi dùng cái tay để thí dụ:

Cái tay hoạt bát vạn năng dụ cho chơn tâm, dùng cái gì cũng được, lấy cái khăn, lấy cái túi, lấy cái bình,… hoạt bát vạn năng vì nó vô sở trụ. Nếu có sở trụ rồi, như trụ cái khăn này thì cái hoạt bát vạn năng bị mất, nên lấy cái dĩa, cái bình không được. Bản tánhvô trụ, thể vô trụ, dụng cũng là vô trụ.

Cho nên, tôi hoằng pháp Tổ Sư thiền, dùng nghi tình là cái chổi automatic quét sạch tất cả biết và không biết của bộ não thì khôi phục lại bản tánh vô trụ hoạt bát vạn năng của tự tánh.

Nhưng cái khăn thuộc về pháp có, đối cái có thì phải có cái không có. Nếu trụ nơi không (ở trong này chẳng có gì), đã có sở trụ rồi thì đánh mất hoạt bát vạn năng, muốn lấy cái khăn, cái dĩa, cái bình,… đều không được. Vậy cái không này cũng phải quét, mới khôi phục cái dụng vô trụ. Cho nên, nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, sanh kỳ tâm là dụng vô sở trụ.

Bây giờ, theo triết học, khoa học của thế gian; đối với vọng tâm thì khoa học chưa rõ. Tại sao? Quý vị có học Phật học rồi, biết có 8 thức với lục căn, mỗi căn đảm nhiệm chức vụ gì? Mỗi thức đảm nhiệm chức vụ gì? Mà nhà khoa học chưa rõ, nhà khoa học chỉ biết bộ não, lục cănhệ thống thần kinh của bộ não, họ chỉ biết có một cái thức tức là bộ não. Họ không phân biệt rõ ràng mỗi căn mỗi thức.

Thừa Thanh văn chỉ biết có 6 thức, không biết có thức thứ 7 và thức thứ 8. Kỳ thật bản thể của vũ trụbản thể của sanh mạng là thức thứ 8, còn gọi là tạng thức (kho tàng). Tất cả chủng tử thiện ác, phi thiện phi ác đều ở trong kho tàng đó. Cho nên, thức thứ 8 là bản thể của vũ trụ, cũng là bản thể của sanh mạng.

Theo Duy Thức, thức thứ 8 là vô ký chẳng che lấp, còn thức thứ 7 cũng là vô kýche lấp. Tại sao có che lấp? Vì có tánh chấp trước, nó luôn luôn ngày đêm chấp thức thứ 8 là ta. Thức thứ 7 có 2 nhiệm vụ:

- Chấp thức thứ 8 là ta.

- Truyền tống thức.

Tại sao gọi là truyền tống thức? Nó đem thức thứ 6 lãnh đạo 5 thức trước tạo ra thiện, ác, vô ký thành chủng tử truyền vô thức thứ 8. Thức thứ 7 đem các chủng tử chín mùi ở trong thức thứ 8, rồi giao cho thứ thứ 6 lãnh đạo 5 thức trước để thi hành, nên mới có những hiện tượng mình đang sống đây.

Do thức thứ 7 chấp thức thứ 8 là ta, thành có ngã chấp, hợp tác với lục căn rồi nghe theo lệnh bộ não. Thí dụ: Bộ não là Thủ tướng điều khiển các bộ. Các hoạt động tạm thời chia ra làm 3 bộ: Bộ tìm hiểu, bộ suy nghĩ, bộ ghi nhớ.

Theo bộ ghi nhớ là lục cănhệ thống thần kinh đều là vật chất. Nếu dùng kính hiển vi có thể thấy được, nên nhà khoa học bắt chước cấu tạo bộ ghi nhớ, chế tạo thành máy vi tính. Máy vi tính nhớ rất hay, bao nhiêu phức tạp đều nhớ hết cả, bây giờ mỗi ngày đang cải tiến; cải tiến cách mấy cũng không bằng bộ ghi nhớ của bộ não, nhưng thực dụng nó hay hơn bộ não. Tại sao? Vì bộ não hay quên, còn máy vi tính nhớ không quên. Tại sao bộ não hay quên? Vì bộ não có phần suy nghĩ nên làm nó hay quên.

Đối với vật chất thì nhà khoa học bắt chước làm được. Cho nên nhà khoa học tuyên bố rằng: “Bộ tìm hiểu, bộ suy nghĩ vài năm sau sẽ ra đời”. Vì nó là vật chất nên có thể bắt chước chế tạo được. Còn 8 thứ thức là thể tinh thần, không phải vật chất nên nhà khoa học không thể bắt chước chế tạo được.

Sức dụng của vật chất bị không gian thời gian hạn chế, còn phi vật chất thì không bị không gian thời gian hạn chế. Theo lực học của Einstein nói “vật chất nhỏ nhất chừng nào thì tốc độ nhanh chừng nấy”, tốc độ nhanh như ánh sáng thì vật chất càng nhỏ, sự quan hệ không gianthời gian cũng thay đổi, lại nói vật chất có thể biến thành năng lượng.

Năng lượng không phải vật chất, mà năng lượng có thể biến thành vật chất, nhưng năng lượng phải từ vật chất mới biến thành được. Nếu khôngvật chất thì không thể biến ra được năng lượng. Còn phi vật chất khỏi cần vật chất, nó sẵn sàng có năng lượng đó, mà lại không bị không gian thời gian hạn chế.

Nhà Thiên văn muốn diễn tả khoảng cách của không gian, nếu dùng con số thì không thể thấy được, nên dùng tốc độ ánh sáng để diễn tả. Tốc độ ánh sáng đi một năm mới đến thì khoảng cách đó gọi là một quang niên. Ánh sáng đi một trăm năm mới đến thì khoảng cách đó gọi là một trăm quang niên.

Ánh sáng là tốc độ cao nhất, mỗi giây đi được 300.000 cây số. Nếu ánh sáng đi một trăm năm đến thì tâm mình chỉ một niệm đến. Ánh sáng đi một triệu năm đến thì tâm chỉ một niệm đến. Tại sao? Vì nó trống rỗng, không bị không gian thời gian hạn chế. Nên ngài Long Thọ nói “Tâm như hư không vô sở hữu”. Mình phải tin sức của tâm mình đều sẵn có, nhưng không có hiện ra là bị che khuất.

Bây giờ phải nói chuyện cụ thể để thí dụ. Có người hỏi tôi: Thầy dạy Tổ Sư thiền là dùng cái không biết để tu, khi đến thoại đầu có phải sắp biết không?

Tôi nói: Không phải sắp biết.

Người ta nói: Nếu vậy thì đâu khác như gỗ đá?

Tôi nói: Không phải vậy. Tại sao? Vì cái biết chơn tâm không bao giờ ngưng, nếu nó ngưng rồi biết lại thì mới nói là sắp biết.
 
Ông đổi lại câu hỏi đi! Như hỏi trời gần sáng thì mặt trời sắp chiếu được không? Không được. Mặt trời không thể sắp chiếu. Tại sao? Mặt trời đâu có ngưng chiếu hồi nào mà nói sắp chiếu! Trời đâu phải sáng rồi mới chiếu! Trời chưa sáng nhưng nó cũng đang chiếu vậy. Không thấy mặt trời là nó bị che khuất bởi quả đất, mây đen, chứ đâu phải mặt trời ngưng chiếu.

Cái biết chơn tâm của mình cũng vậy, nó không bao giờ ngưng biết. Đã không ngưng biết thì tại sao nói là sắp biết? Nó chỉ bị che khuất bởi cái biết và không biết của bộ não, nên nó không được hiện ra.

Pháp Thiền Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Tối thượng thừa đều dẹp hết các thứ che khuất để chơn tâm hiện ra, gọi là kiến tánh thành Phật.

Vừa rồi, tôi nói 3 bộ phận biết, các vị học thì phải tìm hiểu, tìm hiểu rồi thì phải suy nghĩ, mới phân biệt đúng sai chánh tà, rồi ghi nhớ. Nhưng 3 bộ phận biết này che khuất chơn tâm, nên cần phải dẹp hết. Các giáo pháp dạy dẹp những che khuất gọi là pháp thiền.

Tiền ngũ căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) và tiền ngũ thức thì cái dụng khác nhau. Năm căn giống như cái đèn chiếu soi, không có sự phân biệt. Như nhãn căn chiếu soi cảnh rồi, nhãn thức mới phân biệt đó là tướng gì? Tức là năm căn dùng cảm giác trực tiếp, theo khoa học thì nhãn cănthị giác, nhĩ cănthính giác, tỷ cănkhứu giác, thiệt cănvị giác, thân cănxúc giác. Đó chỉ là cảm giác thôi, qua cảm giác của năm căn rồi mới đến năm thức phân biệt.

Tiền ngũ căn và tiền ngũ thức dễ phân biệt, còn ý căný thức khó phân biệt. Ý căn là đảm nhiệm suy nghĩ, ý thứcphân biệt thiện ác đúng sai. Tác dụng năm căn trước cũng giống, nhưng tác dụng đối với tiền trần (tiền là trước mắt nên gọi là tiền ngũ căn, tiền ngũ thức).

Còn ý căný thức là đối với pháp trần, không phải vật chất, mà cũng có thể là cái sanh diệt của vật chất, nhưng nó không phải trước mắt. Quá khứ, vị lai cách xa, nếu dùng ý thức nhớ lại chuyện quá khứ, nhớ lại thân nhân ở nước ngoài, như nước Mỹ, nước Pháp,… quý vị ngồi đây có thể nhớ lại cái tủ cái chén để trong nhà của quý vị, dùng ý thức nhớ lại những thứ ấy, khỏi cần trước mắt nên gọi là pháp trần, chứ không phải tiền trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc).

Tôi đại khái phân biệt lục căn lục thức, nhiệm vụ mỗi căn mỗi thức đều khác biệt. Nhưng sự luân hồi làm sao giải thích đây?

-Bát Thức Quy Củ Tụng có câu “khứ hậu lai tiên tác chủ công”.

Thức thứ 8 chứa các chủng tử thiện ác nghiệp, khi đầu thai thì đến trước (lai tiên), khi chết là rời nhục thân sau cùng (khứ hậu), do tính chấp ngã của thức thứ 7 kết hợp sinh lý của cơ thể mà làm chủ nơi thân này. Bắt đầu tinh cha trứng mẹ kết thành thai nhi, nhờ bát thức làm cơ nhân (DNA) mà dần dần hình thành hệ thống thần kinh của bộ não, đồng thời cùng khắp các tế bào và lục phủ ngũ tạng của toàn thân, do bộ não làm thủ tướng.

Do sự lôi kéo của ngã chấp, khiến lục thứclục căn hợp tác mà nghe theo lệnh của bộ não. Nhưng mà, lục căn thuộc về sắc pháp (thể vật chất), lục thức thuộc về tâm pháp (thể tinh thần), căn có thể hoại diệt, thức thì không thể hoại diệt. Nếu tu hành đến kiến tánh thì chuyển được bát thức thành tứ trí, mà ra khỏi luân hồi; chấm dứt sự đầu thai chuyển thế, tự do tự tại vĩnh viễn, chẳng còn tạo nghiệp và bị nghiệp lực trói buộc.

Hỏi:
 Vừa qua nói bản thể sanh mạng theo Duy Thức, hiện tại khoa học phối thai trong ống nghiệm:
 Thứ nhất đi đến trình trạng vô tínhnghiệp cảm duyên sanh luân hồi, thì phải có linh hồn cha mẹlinh hồn đồng cảm, mới có một chúng sanh ra đời. Cái này là điều thông thường, nhưng nó quan trọng vô cùng, những nhà khoa học cho rằng: “Có thể đảo lộn thế giới”. Bởi vì vô tính thì không có đồng cảm của linh hồn. Như vậy vật chất sanh ra con người hay sao? Hay trường hợp này dẫn đến thế giới hóa sanh?

 Nghĩa là muốn hỏi Hòa thượng giải thích cho chúng con biết là cái dục phải đi tò mò tọc mạch của thần thức tìm nơi sáng khi mà phôi thai? Còn vô tính là chỉ có một người đàn ông thôi, lấy 2 vật chất trong người đàn ông sanh ra đứa con, chứ không phải do sắc thể của nam và nữ?

Đáp:
 Cái cơ nhân vừa rồi đọc là bao gồm các chủng tử thức thứ 8. Bây giờ khoa học khỏi cần giao phối mà họ cũng tạo ra được, nhưng phải có cơ nhân, cũng như lấy tế bào của con dê này làm cơ nhân để trồng vô trứng con dê cái, mới tạo ra dê con. Họ không có thể tạo ra cơ nhân, cơ nhân đó là chủng tử thức thứ 8.

Hỏi:
 Xin Hòa thượng giảng rõ thần thức ở chỗ khác, tìm đến đó để vô thai. Đó là nghiệp cảm duyên sanh ở dạng đặc biệt hay là nhà khoa học tạo ra một linh hồn?

Đáp:
 Không có tạo được! Vì cơ nhân mà khoa học không thể tạo được. Ấy chỉ là có sẵn, qua sự sẵn có mà biến đổi thôi, chứ không phải từ chỗ không có. Tôi xin giảng lời nói của Phật là “vô thỉ” chứng minh cho quý vị biết.

 Tại sao nói là vô thỉ? Thỉ là bắt đầu, vô là không có; tức là không có bắt đầu, không có bắt đầu là nghĩa vô sanh, cũng là không có sự sanh khởi. Vì có sự sanh khởi thì có sự bắt đầu. Nên người chứng quả là ngộ pháp vô sanh, cũng gọi là chứng vô sanh pháp nhẫn.

 Tại sao chắc chắn không có sự bắt đầu? Vì nguồn gốc bắt đầu chỉ có 2 cái: Bắt đầu chỗ có và bắt đầu chỗ không có.

 Nếu bắt đầu chỗ có thì không thể nói là bắt đầu, vì cái có kia đã bắt đầu rồi, tức nói cái cơ nhân vừa nói đã có sẵn.

 Nếu bắt đầu chỗ không có thì thế giới này loạn hết. Tại sao? Cây đào khỏi cần cây đào sanh, cây lý khỏi cần cây lý sanh, con người khỏi cần con người sanh, con dê khỏi cần con dê sanh. Nhưng nhà khoa học muốn sanh con dê cũng phải lấy tế bào từ con dê để trồng vô trứng con dê cái, chứ không phải khi không từ chỗ không có mà tạo ra được!

 Nếu mà chỗ không có tạo ra được thì không có giá trị gì hết, vì tại không có tạo ra cái gì cũng được, tạo ra con người, con dê, cây đào cũng được. Như vậy thế giới loạn hết.

Hỏi:
 Vừa rồi Hòa thượng có nói trong kinh Kim Cang là “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Vậy một hành giả dụng công phải nhận biết như thế nào? Bây giờ nhận biết các pháp vô sở trụ hay chúng ta dụng công phu trên lục căn không trụ trên lục trần, ấy là nhận vô sở trụ? Hoặc nhận tánh các pháp vô trụ, rồi mình sống vô trụ đó?

Đáp:
 Phật pháp là muốn hiển bày chơn tâm cũng gọi là tự tánh. Chơn tâmbất nhị không có tương đối, không có tương đối nên không thể dùng lời nói của thế gian để diễn đạt được. Vì muốn diễn đạt thì phải có tương đối, mà chứng tỏ cái tương đối đó đúng hay sai gọi là logic, nó có hai cái mới thành logic được.

Còn chơn tâm thì không có tương đốibất nhị, siêu việt logic, nó không có thể dùng logic để chứng tỏ, vì dùng logic để chứng tỏtương đối rồi. Cho nên, muốn chứng minh phải qua tự tâm của cá nhân.

Hỏi:
 Vậy người hành giả phải thế nào để trọn vẹn cái nghĩa vô sở trụ?

Đáp:
 Tôi nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là lời nói của thế gian. Kinh Duy Ma Cật, kinh Lăng Già, cho đến Đại Thừa Khởi Tín luận, phải lìa văn tự lìa lời nói, vì lời nói văn tự không thể diễn tả. Mặc dầu, tôi nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì cái đó cũng là lời nói. Nếu chấp vào lời nói văn tự thì nghịch ý của Phật.

Hỏi:
 Ý con muốn hỏi là một hành giả đang dụng công, trong kinh Phật dạy “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, cũng như trước có nói “bất ưng vị sắc sanh tâm, bất ưng vị thinh sanh tâm,… mới ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Như vậy một hành giả nhận theo cái ý, tức là trên lục căn trên lục trần là đúng hay nhận như thế nào mới gọi là đúng?

Đáp:
 Nếu mà có đúng thì có sai, đúng sai là tương đối.

Hỏi:
 Nếu vậy, mình tiếp xúc trên căn trần không trụ trước, đó là lối của con tu tập hay là có lối dụng công cao hơn nữa để dụng công tiến xa hơn?

Đáp:
 Nếu mà tự tâm chứng được sẽ biết không có nghĩa lý gì hết, nếu lập ra nghĩa lý thì có tương đối, có đúng lý và không đúng lý, hợp lý với không hợp lý. Ở trong tương đối thì có tranh luận, mỗi người mỗi khác. Còn tuyệt đối thì không có tương đối, lấy cái gì để tranh luận! Nhưng cái ấy tự tâm ngộ mới dược, chứ không phải học. Cái học là phương tiện tương đối, như thầy nói thí dụ, thí dụ là dùng logic.

 Mặc dầu, Phật dùng đủ thứ thí dụ, nhưng sau khi nói xong đều phủ định liền. Như ai cũng biết Phật tự phủ định nói “49 năm thuyết pháp, tôi chưa từng nói một chữ”. Vì không thể nói, tất cả lời nóiphương tiện tạm thời, chứ không phải là chơn lý. Lại Phật giáo không kiến lập chơn lý, tất cả các tôn giáo đều có kiến lập chơn lý.

 Cho nên, cái nào có kiến lập chơn lý thì sẽ bị lật đổ, còn Phật Thích Ca không thể bị lật đổ, vì không có kiến lập chơn lý. Tất cả đều không thể kiến lập chơn lý, nên mới gọi là “vô thỉ vô sanh”. Nếu có kiến lập thì có “thỉ” (bắt đầu) tức là có sanh rồi, tức là nghịch với ý Phật.

 Bây giờ danh từ của Phật nói chỉ là phương tiện thôi, chứ không được cho chấp thật. Như các vị có học Phật pháp, nói là “thật tướng vô tướng”, tức là thật tướng thì không có tướng. Chữ “vô” là lời nói của thế gian, nếu theo thực tế thì hữu cũng vô, mà vô cũng vô. Tức là phủ định tương đối, hữu và vô đều phủ định, mới là thật tướng.

 Nếu chấp vô tướngthật tướng thì lọt vào biên kiến (một bên). Phật pháp có năm thứ ác kiến, mà biên kiến là một trong năm thứ ác kiến (thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiếngiới cấm thủ). Nhưng bây giờ nhiều người lọt vào biên kiến mà tự mình không hay biết. Tức là chấp vào một bên, không chấp cái có lại chấp cái không.

Vừa rồi tôi dùng “ưng vô sở trụ” thì không được chấp, nên cũng phải quét. Vì chơn tâm trống rỗng là vô sở hữu, không có thể kiến lập, nên Phật mới nói là “vô thỉ vô sanh”, người chứng quả gọi là ngộ pháp vô sanh hay là chứng vô sanh pháp nhẫn, nếu có sanh thì không phải.

Nhưng bây giờ mình thấy có sanh, thấy có bắt đầu; cái bắt đầu này là bắt đầu từ chỗ có, bắt đầu từ chỗ có tức là ở chính giữa rồi, không phải là chỗ bắt đầu.

Hỏi: 
 Có người tu kinh Kim Cang, cuộc sống hằng ngày họ không trụ lục căn lục trần, trong lúc tọa thiền không trụ trên pháp trần. Như vậy công phu dần dần họ đạt đến chỗ lặng lẽ thường tịch, công phu đó còn tiến thêm lên nữa không?

Đáp:
 Cái tịch lặng này cần phải tiến lên nữa, vì đó là Đại thừa thôi, chứ chưa phải là Tối thượng thừa. Đại thừa là tâm vật hợp một, Tối thượng thừaphi tâm phi vật (chẳng phải tâm chẳng phải vật).

Hỏi:
 Đến giai đoạn đó thì hành giả phải làm sao để tiến lên?

Đáp:
 Đến giai đoạn đó thì hành giả phải dùng cái “không hiểu không biết” của bộ não để dẹp cái “biết” của bộ não, gọi là nghi tình. Như dùng câu thoại đầu để hỏi “khi chưa có trời đất ta là cái gì?” thì khởi lên một niệm không biết, rồi khán thoại đầu là nhìn chỗ “không biết”, nhưng chỗ “không biết”, mặc dầu nói chỗ, nhưng không có chỗ, vì có chỗ là biết rồi.

 Không có chỗ thì không có mục tiêu để nhìn, không có mục tiêu để nhìn thì nhìn mãi không thấy gì, chỉ trống rỗng vẫn còn không biết, chính cái trống rỗng không biết đó, Thiền tông gọi là nghi tình; cứ hỏi và nhìn hai cái song song để giữ nghi tình, sẽ đưa hành giả đến thoại đầu, rồi kiến tánh thành Phật, lúc ấy ngộ rồi tự biết, chứ không phải do ai phát hiện.

Hỏi:
 Nếu hành giả đến giai đoạn “không biết”, mà vẫn giữ công phu “không biết” để diệt trừ những cái biết của tâm thức. Nhưng giai đoạn đó, hành giả vẫn còn ôm lấy công phu, như vậy có vượt thoát chưa hay còn kẹt trong công phu?

Đáp:
 Phải tới ngộ mới được! Vừa rồi tôi nói là mục đích muốn đến thoại đầucăn bản vô minh, cũng là vô thỉ vô minh, ấy là nguồn gốc của ý thức, Thiền tông gọi là đầu sào trăm thước. Thầy nói dùng cái biết để tu theo kinh là Như Lai thiền. Kinh giáo thuộc về giáo mônNhư Lai thiền, mục đích cũng đến thoại đầu.

 Còn Tối thượng thừa là dùng cái “không biết” để tu, cũng gọi là tham Tổ Sư thiền. Nếu dùng “không biết” thì không biết trụ, không biết vô trụ. Biết vô trụ tức là đã biết rồi, chứ không phải là không biết! Vì không biết là không có cái gì dính mắc, không có cái trụ và vô trụ dính mắc.

Hỏi:
 Hành giả còn biết chỗ “không biết” thì sao?

Đáp:
 Nếu còn biết chỗ “không biết” thì không phải Tổ Sư thiền. Đó là cái biết để tìm hiểu cái “không biết”, chứ không phải dùng “không biết” để chấm dứt tìm hiểu biết, suy nghĩ biết, ghi nhớ biết. Những người đi sai lầm là dùng cái biết để tìm hiểu cái “không biết”, tức là không phải Tổ Sư thiền, không có tham thiền.

Hỏi:
 Như vậy, còn dụng công là còn kẹt trong công phu phải không?

Đáp:
 Cái đó gọi là Như Lai thiền, ấy là tùy cái biết mà tiến lên, tức là có 52 cấp (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa là 50 cấp và Đẳng Giác, Diệu Giác. Tổng cộng là 52 cấp). Còn Tổ Sư thiền dùng cái “không biết” là không có cấp nào hết, từ địa vị phàm phu tu chứng Đẳng Giác.

Hỏi:
 Phẩm Định Huệ của Pháp Bảo Đàn nói: “Định huệ thì đồng đẳng”, còn kinh khác nói: “Có giới rồi mới có định, đến sau phát huệ”. Như vậy định huệ đồng đẳng của Lục Tổ Huệ Năng so với định huệ của kinh điển có khác nhau như thế nào?

Đáp:
 Tự nhiên hai cái khác nhau rồi, vì định huệ của kinh điển là dùng cái “biết” của giáo môn. Còn định huệ của Lục TổThiền môn dùng cái “không biết” để tu.

 Biết và không biết là hai mặt khác nhau, dùng cái biết thì có giai cấp, vừa rồi tôi nói có 52 cấp. Còn dùng cái không biết thì không có giai cấp nào hết.

Hỏi:
 Nếu dùng cái không biết thì Lục Tổ nói “định huệ đồng đẳng”, vậy ngay khi có định có huệ thì cái huệ có biết hay không?

Đáp:
 Thầy có đọc 36 pháp đối của Lục Tổ dạy không?

Có.

Người ta hỏi: Thế nào là sáng? Thì trả lời là: Tối.

Người ta hỏi: Thế nào là tối? Thì trả lời là: Sáng.

 Theo giáo môn thì đâu có được vậy? Hỏi sáng thì giải thíchmặt trăng, mặt trời, có đèn mới sáng. Còn Lục Tổ thì không phải vậy, hỏi tối thì đáp sáng, hỏi sáng thì đáp tối. Tại sao? Vì sáng với tối làm nhân với nhau, tại có sáng mới có tối, có tối mới có sáng.

 Sáng tối là hai pháp sanh diệt, đều không phải thực tếtương đối mới có. Như con gà với trứng gà, vậy con gà có trước được không? Không được. Tại sao? Vì không có trứng gà làm sao có con gà! Trứng gà có trước được không? Không được. Tại sao? Vì không con gà thì không thể có trứng gà.

 Cho nên, trứng gà và con gà mà tương đối mới có, thì sáng với tối cũng vậy, hữu vô cũng vậy, tất cả tương đối đều là vậy. Chỗ thật tế (thật tướng) thì phủ nhận tương đối. Không có tương đối thì không thể dùng lời nói để diễn tả.

 Kết luận của Vũ Trụ Quan: (Trang 3).
----------------------------------------------------------
 
Ở trên là vai trò của người thế gian, như vai trò cha, mẹ, vợ, chồng, con cái. Tu sĩvai trò của người Tu sĩ, tức là Sa Di phải giữ đúng vai trò của Sa Di, Tỳ Kheo phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo, Sa Di Ni phải giữ đúng vai trò của Sa Di Ni, Tỳ Kheo Ni phải giữ đúng vai trò Tỳ Kheo Ni, mỗi mỗi đều giữ đúng vai trò của mình thì tự nhiên tập khí sẽ dứt dần dần.

Cũng như vừa nói “vì đói khát ăn uống thì cứ ăn uống, đừng nghĩ cái khác. Vì che thân chống lạnh cần mặc áo thì cứ mặc áo, đừng nghĩ cái khác”. Cần nhất là “đừng nghĩ cái khác”, tại mình ham nghĩ cái khác nên tập khí không dứt được. Cứ giữ đúng vai trò của mình, đói bụng thì ăn cơm, lạnh mặc thêm áo, nực cởi áo ra. Cho nên Phật pháp chỉ là vậy thôi.

Hỏi:
 Chúng con biết Hòa thượng là bậc tu thiền, xin Hòa thượng chỉ dạy, tại sao những vị tu thiền bị tẩu hỏa nhập ma? Xin chỉ dạy phương pháp điều thân điều tâm như thế nào?

Đáp:
 Người tu bị nhập ma vì có ngã, tức là có cái ta nên ma mới nhập được. Tham Tổ Sư thiền có 10 điều kiện, điều thứ nhất có 9 chữ “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” là phá ngã chấp. Ban đầu tôi nói “vô sở sợ”, họ nói không được, phải nói là “vô sở úy”, tôi nói phải “vô sở sợ”, tại sao? Vì tôi nói “vô sở sợ” là 10 người thì 10 người đều hiểu, còn nói “vô sở úy” là 10 người thì chỉ 5 người hiểu. Thành ra, tôi muốn 10 người đều 10 người hiểu, nên mới nói như vậy.

 Nếu thực hành được “vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ” thì không bị ma nhập. Tham đúng Tổ Sư thiền thì ma làm sao nhập? Chỉ các Thiền khác có ngã chấp nên ma mới nhập được. Như kinh Lăng Nghiêm có 50 thứ ma ngũ ấm, do người đó có mong cầu, nên ma thừa mong cầu mà nhập vào; muốn đắc thì ma hóa ra có sở đắc để nhập, có sở sợ cũng vậy.

 Chánh pháp Phật giáo đều phá ngã chấp, mới giác ngộ ra khỏi sanh tử luân hồi; tất cả các tôn giáo khác không phá ngã chấp, nên không được giải thoát cái khổ sanh tử luân hồi.

Hỏi:
 Ngày xưa, Tổ Huệ Năng nói với các Thiền giả rằng: “ Các vị tu thiền phải làm sao cho nhân tâm tử thì đạo tâm mới trường tồn”. Chúng con thấy chánh pháp này là pháp giải thoát, nhưng nó gắn liền với pháp thế gian. Đối với thế gian pháp, mà các lãnh đạo của chúng ta hết sức bâng khuâng việc này.

 Vì tâm sanh nên các pháp sanh, tâm diệt nên các pháp diệt; mà nhân tâm không chịu tử, làm sao đạo tâm trường tồn được? Chỗ này con thấy các ban trị sự, ban đại diện, giữa Tăng Ni, giữa tự viện, nhân tâm sao không biết mà nó xảy ra những chuyện va chạm với nhau, thậm chí thưa kiện đến chánh quyền này nọ.
 
Đây là những vướng mắc của các giảng sư sắp đến các vùng sâu. Nhờ Hòa thượng chỉ cho con, làm sao cho nhân tâm này tử, không cho các tâm sanh thì các pháp không sanh, tất nhiên mọi việc sẽ được êm đẹp?

Đáp:
 Thế gian pháp tức là Phật pháp, chứ không phải ngoài thế gian mà có Phật pháp.

Thế lưu bố tưởngtrước tưởng (trích từ kinh Đại Niết Bàn):
Hỏi:
 Ở nơi thế gian Thánh phàm khác biệt, phàm phu ngoài tâm chấp pháp, vọng lập kiến văn, bậc Thánh đã ngộ nhất tâm, tại sao còn tri kiến như phàm phu?

Đáp:
 Bậc Thánh dù có tri kiến nhưng thấu rõ vật hư như huyễn, chẳng sanh chấp trước.

Như kinh Đại Niết Bàn nói: “Bồ Tát Ca Diếp bạch Phật: Thế Tôn, nếu như phiền não sanh bởi điên đảo tưởng thì tại sao tất cả bậc Thánh đều thật có điên đảo tưởng mà chẳng có phiền não?

Phật bảo: Sao nói bậc Thánh có điên đảo tưởng?

Bồ Tát Ca Diếp bạch Thế Tôn: Tất cả bậc Thánh cũng gọi con trâu là trâu, gọi con ngựa là ngựa và gọi nam nữ, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ… ấy tức là điên đảo tưởng.

Phật bảo: Thiện nam tử, tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: Thế lưu bố tưởng (thế gian đã phổ biến lưu hành) và trước tưởng. Phàm phu chấp trước, ở nơi thế lưu bố tưởngg sanh trước tưởng. Bậc thánh chỉ có thế lưu bố tưởng, khéo giác quán nên ở nơi thế lưu bố tưởng chẳng sanh trước tưởng. Cho nên, phàm phu gọi là điên đảo tưởng, bậc thánh dù tri mà chẳng gọi điên đảo tưởng. Lại, do cảnh vốn tự không, đâu cần hoại tướng! Do linh tâm tự chiếu, đâu nhờ cảnh sanh! Nên chẳng như phàm phu chấp trước năng sở tri kiến vậy”.

Triệu Luận nói: “Hễ có sở tri thì có sở bất tri. Do Thánh tâm vô tri nên vô sở bất tri”. Cái tri của bất tri là nhất thiết tri, nên kinh nói: “Thánh tâm vô trivô sở bất tri” thật đáng tin vậy. Cho nên bậc Thánh trống rỗng nơi tâm mà thật tế chiếu soi suốt ngày tri mà chưa từng (cho là) tri, như nước lắng soi bóng, há có lập tâm năng sở; cảnh trí đều sáng, đâu có tư tưởng giác tri ư!

Theo sự hình thành trên đây (kinh Đại Niết Bàn) thì biết: Ở nơi thế gian chẳng sanh khởi trước tưởng tức là pháp xuất thế gian, cũng là Phật pháp. Chứ không phải ngoài pháp thế gian mà có pháp xuất thế gian đặc biệt gọi là Phật pháp vậy.

Nói tóm lại, đối với cuộc sống hằng ngày, đói thì ăn, khát thì uống, lạnh thì mặc thêm áo, nóng thì cởi bớt áo ra, cho đến nói năng tiếp xúc, làm việc… đủ thứ pháp thế gian đều chẳng sanh khởi trước tưởng, tức là Phật pháp vậy. (Chẳng đem chủ quan của mình xen vào sự vật của thế gian tức là chẳng sanh trước tưởng, cũng chẳng có “cho là” để lọt vào nhị biên đối đãi vậy).

Hỏi:
 Hòa thượng dạy chúng con nhận thức điểm đó, con suy nghĩ nghiệp vụ hoằng pháp như ở đây thì rất dễ vì là giáo hội. Giáo hội thì có hành giáothiền giáo, mà pháp môn Hòa thượng giảng từ sáng đến giờ là tu để cầu giải thoát. Nhưng con thấy Phật pháp đã đi sâu vào xã hội để phổ hoá độ sanh, để vượt qua khổ não trần lao. Phải nhờ pháp môn giải thoát này để trấn an cho pháp thế gian. Vì vậy chúng con nhờ Hòa thượng khai thông những giới xuất gia của Phật.

 Hai chúng xuất gia cũng còn bất đồng quan điểm với nhau, đi đến chỗ cho giáo hội phải nhọc nhằn. Đây là công tác trước mắt của các giảng sư về những vùng sâu đến các vị trụ trì. Hòa thượng cho con biết thêm làm sao nhân tâm tử thì đạo tâm mới trường tồn? Nếu nhân tâm không tử thì vạn pháp thế gian sanh mãi mãi, làm cho Phật pháp khó thực hiện ở thế gian?

Đáp:
 Quí vị đều là giảng sư, đi giảng cho mọi người nghe, tạo cho xã hội được hạnh phúc, cũng như tất cả ngành nào cũng muốn cho nhân loại được hạnh phúc. Kinh Viên Giác nói vấn đề thuyết pháp:

 - Bạch Thế Tôn! Nếu giác tâm này bản tánh trong sạch, vì sao bị ô nhiễm, khiến những chúng sanh mê muội chẳng thể ngộ nhập? Xin Như Lai vì chúng con khai thị pháp tánh, để làm đạo nhãn cho tương lai, khiến cho đại chúng trong hội này và chúng sanh đời mạt pháp dễ được ngộ nhập.
 
Ngài Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tát nói xong, 5 vóc gieo sát đất, đảnh lễ thưa thỉnh 3 lần như vậy.

 Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tịnh Chư Nghiệp chướng Bồ Tát rằng:

- Lành thay! lành thay! Thiện nam tử! Ngươi khéo vì các Bồ Tátchúng sanh thời mạt pháp, hỏi Như Lai về những phương tiện như thế. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
 Khi ấy Tịnh Chư Nghiệp Chướng Bồ Tátđại chúng hoan hỷ vâng lời Phật dạy, im lặng mà nghe.

 - Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vọng chấp thật có 4 tướng: Ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, nhận lầm 4 tướng điên đảo là thật thể của mình, do đó liền sanh 2 cảnh yêu ghét, vậy nơi thể hư vọng lại chấp thêm một lớp hư vọng nữa. 2 thứ vọng nương nhau sanh ra vọng nghiệp, vì có vọng nghiệp nên vọng thấy có luân hồi; kẻ nhàm chán luân hồi lại liền thấy có Niết Bàn, do sự chấp thật ngã tướng này nên chẳng thể ngộ nhập được bản giác trong sạch. Chẳng phải bản giác chống cự với những kẻ năng nhập, vì có kẻ năng nhập (ngã tướng) thì chẳng phải bản giác vậy.

 Cho nên, động niệm và dứt niệm đều là mê muội. Tại sao? Vì có bổn khởi vô minh đã làm chủ cho mình từ vô thỉ rất khó đoạn trừ, phải có huệ nhãn mới trừ được. Vì tất cả chúng sanh, sanh ra chẳng có huệ nhãn, hiện tiền các tánh thân tâm đều là vô minh, vô minh chẳng thể tự dứt vô minh, cũng như người có sinh mạng, sinh mạng chẳng thể tự dứt sinh mạng vậy.

 Vậy ngươi nên biết, có người yêu ta tùy thuận với ta thì tâm sanh hoan hỉ, người chẳng tùy thuận thì liền sanh oán ghét. Có tâm yêu ghét để nuôi dưỡng vô minh, làm cho vô minh tương tục mãi, nên cầu đạo chẳng thể thành tựu.

 Thiện nam tử! Thế nào là ngã tướng? Những chúng sanh tu hành, tâm biết có sở chứng đều thuộc về ngã tướng.

 Thiện nam tử! Ví như có người cơ thể điều hòa thư thái, tay chân thư giãn, bỗng quên mất thân ta, vì ăn uống thất thường sanh bệnh hoạn, nhờ thầy thuốc châm cứu thấy đau mới biết có ta còn đây, cho nên người chấp có sở chứng mới hiện ra ngã tướng.

 Thiện nam tử! Nếu tâm liễu tri rốt ráo biết có sở chứng, dù chứng đến thanh tịnh Niết Bàn của Như Lai đều thuộc về ngã tướng.

 Thiện nam tử! Thế nào là nhơn tướng? Như những chúng sanh tâm có sở chứng, cho kẻ năng chứng là ta, nay tiến thêm một bậc, ngộ biết chứng chẳng phải là ta, ngộ này siêu việt tất cả chứng, nhưng còn giữ tâm ngộ tức là nhơn tướng.

 Thiện nam tử! Những tâm biết có năng sở đều thuộc về ngã, tâm dù chỉ còn chút năng ngộ để chứng lý cùng tột của Niết Bàn đều gọi là nhơn tướng.

 Thiện nam tử! Thế nào là chúng sanh tướng? Chỗ này là những chúng sanh có tâm biết năng chứng năng ngộ đều chẳng thể biết.

 Thiện nam tử! Ví như có người nói rằng: “Ta là chúng sanh”, thì biết kẻ nói chúng sanh kia chẳng phải ta cũng chẳng phải ngươi. Sao nói chẳng phải ta? Vì “ta là chúng sanh” thì chẳng phải ta, sao nói chẳng phải ngươi? Vì nói “ta là chúng sanh” thì chẳng phải ngươi cũng chẳng phải ta vậy.

Lược giải:
Nói “ta là chúng sanh” vì chúng sanh là nhiều người nhiều loài. Nay nói “ta” chỉ có một mình ta, như thế thì chúng sanh chẳng phải “ta”; nói ngươi cũng vậy, nghĩa là chỉ có một mình ngươi chẳng phải nhiều chúng sanh, nên nói “ta là chúng sanh” thì chẳng phải “ngươi” cũng chẳng phải “ta” vậy.
 (lược giải hết).
 
 Thiện nam tử! Nếu những chúng sanh có tâm biết năng chứng năng ngộ đều là Ngã tướng, Nhơn tướng. Nay tiến thêm một bậc, liễu tri chỗ này là Ngã tướng, Nhơn tướng chẳng thể đến, nhưng còn có sở liễu tri, biết có năng chứng năng ngộ để lìa, nên gọi là Chúng sanh tướng.

 Thiện nam tử! Thế nào là Thọ mạng tướng? Những chúng sanh tiến thêm một bậc nữa, tâm quán chiếu sáng tỏ chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ còn một giác thể trong sạch; giác thể này tất cả nghiệp trí trong luân hồi đều chẳng thể tự thấy được, cũng như con mắt chẳng tự thấy mắt, tất cả tịch diệt. Vì trụ nơi tịch diệt thì mạng căn chưa dứt, nên gọi là Thọ mạng tướng.

 Thiện nam tử! Nếu tâm chiếu soi thấy tất cả người giác tri và cấu bẩn của trần lao. Có năng giác sở giác là chẳng lìa được trần lao. Ví như nước canh làm băng tan, nước canh là năng tan, băng là sở tan; khi băng đã tan thì nước canh và băng đều thành nước, năng tan (nước canh) sở tan (băng) đều diệt, nếu còn có kẻ biết băng tan thì còn cái năng biết, cái biết đó là ngã. Nói “còn Thọ mạng tướng” thì nghĩa cũng như vậy.

 Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp chẳng rõ 4 tướng không thật, dù trải qua nhiều kiếp siêng năng khổ hạnh tu hành, chỉ gọi là pháp hữu vi, rốt cuộc chẳng thể thành tựu tất cả Thánh quả (pháp vô vi), cho nên gọi là “chánh pháp trong đời mạt pháp”. Tại sao? Vì lầm nhận tất cả ngã tướng cho là tướng Niết Bàn; cho có chứng có ngộ mới gọi là thành tựu. Cũng như có người nhận giặc làm con thì tài sản nhà họ chẳng thể thành tựu. Tại sao? Như có người luyến ái ngã, cũng luyến ái Niết Bàn, đè nén gốc luyến ái ngã trở thành tướng Niết Bàn; có người chán ngã, cũng chán sanh tử, chẳng biết gốc luyến ái ấy mới thật là chơn sanh tử vậy. Nay có tâm nhàm chán sanh tử, nên gọi là chẳng giải thoát.

 Tại sao biết được pháp ấy chẳng giải thoát?

 Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp tu tập Bồ đề, cho sự chứng của mình tự trong sạch, chứng được chút ít cho là đủ, chưa dứt sạch cội gốc của ngã tướng nên chẳng giải thoát. Nếu có người tán thán pháp mình thì liền sanh tâm hoan hỉ, muốn cứu độ họ; nếu phỉ báng pháp sở đắùc của mình thì liền sanh tâm sân hận. Vậy thì biết cái tâm chấp ngã tướng rất kiên cố, tiềm ẩn trong tạng thức, gặp ngoại cảnh kích thích thì phát khởi hiện hành nơi các căn, mãi chẳng gián đoạn.

 Thiện nam tử! Người tu hành vì chẳng dứt sạch ngã tướng nên chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.

 Thiện nam tử! Nếu biết ngã tướng vốn không, thì chẳng có cái bản ngã để cho họ tán thánphỉ báng; nay thấy “có ta thuyết pháp” thì ngã tướng chưa dứt, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ mạng tướng đều cũng như thế.

 Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp vì chưa dứt ngã tướng, cho sự thuyết pháp là “do ta thuyết”, nên pháp của họ thuyết là cái bệnh của ngã tướng, chẳng phải thuyết cái pháp của Niết Bàn vậy, cho nên gọi là kẻ đáng thương xót! Dù siêng năng tinh tấn, chỉ tăng thêm các pháp bệnh, nên chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.

 Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp vì chẳng thấu rõ 4 tướng kể trên, chấp chỗ hành và kiến giải của Như Lai cho là kiến giải của mình, vì chẳng phải do tự mình tu chứng, nên rốt cuộc chẳng thể thành tựu. Hoặc có chúng sanh chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, thấy người hơn ta thì sanh ganh tỵ, ấy là do chúng sanh chưa dứt ngã kiến, nên chẳng thể ngộ nhập bản giác trong sạch.

 Thiện nam tử! Chúng sanh đời mạt pháp muốn tu thành đạo, chớ nên sanh tâm cầu ngộ; người sanh tâm cầu ngộ thì muốn học rộng nghe nhiều để hiểu thêm giáo lý, vậy chỉ thêm đa văn tăng trưởng ngã kiến, chẳng phải người chơn tu.
 
Người chơn tu chỉ nên tinh tấn hàng phục phiền não, khởi tâm đại dũng mãnh: Niết Bàn chưa đắc khiến cho đắc, phiền não chưa dứt khiến cho dứt. Những tâm tham, sân, si, mạn, siểm khúc, ganh tỵ đối cảnh chẳng sanh, ân ái giữa mình và người tất cả đều tịch diệt, Phật nói người ấy sẽ dần dần thành tựu Thánh quả. Nương theo nhân địa này tu hành để cầu thiện trí thức thì chẳng đọa tà kiến, nếu có sở cầu khác với nhân địa phát tâm kể trên, lại sanh lòng yêu ghét thì chẳng thể ngộ nhập biển giác trong sạch.

Lúc ấy Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
 Tịnh Nghiệp Chướng nên biết,
 Tất cả những chúng sanh,
 Đều do chấp ngã tướng,
 Luân hồi từ vô thỉ.
 Chưa dứt sạch bốn tướng,
 Chẳng được thành Bồ Đề.
 Yêu ghét sanh nơi tâm,
 Siểm khúc giữ trong niệm.
 Cho nên bị mê muội,
 Chẳng thể vào giác thành.
 Nếu muốn về cõi Phật,
 Phải bỏ tham sân si,
 Tâm chẳng luyến ái pháp
(pháp Niết Bàn),
 Dần dần được thành tựu.
 Thân ta vốn chẳng có,
 Yêu ghét do đâu sanh?
 Cầu thầy bạn chánh tu,
 Thì chẳng đọa tà kiến.
 Nếu tâm cầu pháp khác,
 Rốt cuộc chẳng thành tựu.

 “Ta đã chứng Niết Bàn” thì Thiền tông gọi là mạng căn chưa dứt, cũng còn ngã tướng. Trong kinh Viên Giác diễn tả: “Ngã, Nhân, chúng sanh, thọ mạng”, còn kinh Kim Cang nói: “Ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả”. Vì nhận lầm 4 tướng này, nên tu hành không dứt được ngã kiến.

Hỏi:
 Ngài Hương nghiêm nói với một vị Tăng rằng: “Có người ngậm một cành cây, dưới cây có một hố sâu, có một người đi ngang qua hỏi: Thế nào là Phật? Người ấy trả lời liền mất mạng. Nếu không trả lời thì phụ câu hỏi của người kia. Ngưỡng mong Hòa thượng khai thị cho chúng con rõ?

Đáp:
 Ông Newton thấy trái bôm ở trên cây rơi xuống đất, ông phát nghi tại sao trái bôm không rơi lên trời, mà lại rơi xuống đất? Từ đó ông mới dùng bộ não đi nghiên cứu tìm hiểu, cuối cùng ông ngộ được hấp dẫn lực của quả đất, rồi đến ngộ hấp dẫn lực vạn hữu.

 Pháp thiền của Phật cũng từ nghi đến ngộ, nhưng không phải tìm hiểu; tìm hiểu không thể ngộ được, vì tìm hiểu là sản phẩm của bộ não, bộ não là che lấp chơn tâm, nên Phật dạy phương pháp dẹp nó.

 Nếu tiếp tục tìm hiểu thì giống như mây đen nhiều thêm che lấp ánh sáng mặt trời không hiện ra được. Cho nên công án là để cho mình ngộ, chứ không cho mình tìm hiểu; còn những người không ngộ tất nhiên là không hiểu, nhưng giữ cái không hiểu đó (nghi tình), sau này sẽ được ngộ.

Hỏi:
 Lúc tham thiền bị hôn trầm thì phải làm sao? Và tán loạn thì phải như thế nào?

Đáp:
 Nếu hôn trầm thì phải mở mắt to ra, mở mắt to mà còn hôn trầm thì lấy nước lạnh rửa mặt, rửa mặt bằng nước lạnh mà còn hôn trầm thì phải đứng dậy đi kinh hành hay kiếm công việc làm, cũng phải tiếp tục thiền nữa. Nếu có tán loạn thì phải nhắm mắt lại.

Hỏi:
 Thiền sư Duy Tính nói: “Lão Tăng 30 năm trước, khi chưa có vào đạo, thấy núi là núi, thấy nước là nước; sau này được Thiện tri thức dẫn cho lối vào thì thấy núi không phải núi, thấy nước không phải nước. Rồi sau này ngộ nhập thiền rồi, thấy núi là núi, thấy nước là nước”. Vậy cái đầu tiên thấy núi là núi, thấy nước là nước và cái sau cùng thấy núi là núi, thấy nước là nuớc, khác nhau chỗ nào?

Đáp:
 Đó là nghĩa ba câu của kinh Kim Cang, tôi có dịch kinh Kim Cang, trong đó giải thích rất kỹ càng. Nhưng bây giờ có câu hỏi rồi thì tôi giải thích.

 Kinh Kim Cang từ đầu đến cuối đều là nghĩa ba câu. Như Phật nói: “chúng sanh, tức phi chúng sanh, thị danh chúng sanh. Thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới. Đệ nhất ba la mật, tức phi đệ nhất ba la mật, thị danh đệ nhất ba la mật”, đều là nghĩa ba câu.

 Vừa rồi thầy hỏi, ban đầu thấy núi sông thì chấp thật có núi sông, khi tu đến giai đoạn thấy núi sông không phải thật tức là phi (chẳng phải) núi sông; sau cùng đã ngộ rồi thấy núi sông vẫn là núi sông.

 Câu thứ nhất “núi sông” là giả danh, câu thứ nhì “phi núi sông” cũng giả danh, câu thứ ba “thị danh núi sông” cũng giả danh. Tức là chẳng trụ nơi câu thứ nhất, chẳng trụ nơi câu thứ nhì và chẳng trụ nơi câu thứ ba. Ấy là nghĩa “vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh Kim Cang

Khai thị Thiền thất ngày 15-5 =>21-5-1999 tại chùa Hưng Phước.

Hỏi:
 Con tham Tổ Sư thiền khoảng 2 tháng, khi tham một tháng bắt đầu quen; con ăn rồi tắm, chừng nửa giờ sau, không biết mình ăn và đã tắm xong; lúc ấy con đi chợ mua đồ, đưa tiền cho người bán, người bán thối tiền, con cũng không nhớ; hiện tại con dọn dẹp đồ đạc trong nhà không biết cất ở đâu, sự sinh hoạt của con hằng ngày có phần xáo trộn. Vậy cái quên của con có tương ưng với công phu không?

Đáp:
 Nếu tham Tổ Sư thiền, hỏi và nhìn mà quên như vậy là hiện tượng tốt, không có ảnh hưởng đến sự sống; nếu sự tu tiến bộ như cảnh giới này thì dùng tiền đâu có thể mua được!

 Tham thiền quên mọi cảnh xung quanh là tốt, nếu là bệnh tâm thần mà quên thì không được. Như Truyền Nam mua bán không để ý đến tiền, người ta trả bao nhiêu thì lấy, mỗi ngày bán bao nhiêu lời lỗ không cần biết! Nhưng thật sự công phu đến mức này mới được.

Hỏi:
 Tham thiền đang đi ở ngoài đường, đến mức độ quên không biết về nhà. Có trường hợp này không?

Đáp:
 Có chứ, nhưng không hại gì hết, cũng có người như vậy, như Trương quốc Anh tham thiền trong lúc đi về nhà mà không biết vô nhà.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 187710)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43482)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 24875)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30718)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20933)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38613)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 30984)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 32972)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23860)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16875)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20409)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31800)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 17981)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20405)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26912)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 17934)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25440)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26533)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36410)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27958)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27168)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30206)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 36929)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37101)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23785)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32210)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55039)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36744)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27457)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28181)
Công Phu Khuya
(Xem: 37840)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25295)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24034)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11139)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14381)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10509)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant